Cập nhật thông tin chi tiết về 6 Điểm Khác Biệt Của Kế Toán Quản Trị Và Kế Toán Tài Chính mới nhất trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Do khác nhau nhiều điểm về đối tượng và mục đích sử dụng thông tin, nên kế toán quản trị và kế toán tài chính về cơ bản cũng có những điểm khác biệt.
Tìm hiểu về khái niệm
Kế toán quản trị là một hệ thống thực hiện việc thu thập, xử lý và truyền đạt thông tin đến các nhà quản trị nội bộ doanh nghiệp. Từ đó, giúp nhà quản trị đưa ra những quyết định kinh doanh đúng đắn trong tương lai, đồng thời làm nền tảng cho việc quản trị doanh nghiệp theo hệ thống, hướng đến phát triển doanh nghiệp bền vững.
Kế toán tài chính là việc ghi chép, phản ánh, tổng hợp số liệu, lập BCTC phục vụ nhu cầu cung cấp thông tin đến các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp, tổ chức như: các cổ đông, cơ quan chức năng (thuế, thanh tra…), các chủ nợ, ngân hàng… Mục đích phục vụ cho các nhu cầu quản lý vĩ mô.
Từ những điểm khác biệt cơ bản về đối tượng và mục đích sử dụng thông tin, nên kế toán quản trị và kế toán tài chính có một số điểm khác biệt cơ bản sau:
1. Đối tượng sử dụng thông tin
Đối tượng sử dụng thông tin của kế toán quản trị là các thành viên bên trong doanh nghiệp: Ban giám đốc, chủ sở hữu, những nhà quản lý, giám sát viên,… còn của kế toán tài chính lại chủ yếu ở bên ngoài doanh nghiệp như: các cổ đông, khách hàng, người cho vay, nhà cung cấp và chính phủ (cơ quan thuế, cơ quan quản lý tài chính…).
2. Đặc điểm thông tin
Kế toán tài chính phải tuân thủ các nguyên tắc về thông tin theo chuẩn mực và chế độ hiện hành của kế toán tại từng quốc gia, cũng như với cả nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế về kế toán được các quốc gia công nhận.
Ngược lại, do yêu cầu phải nhạy bén và nắm bắt nhanh các cơ hội kinh doanh đa dạng nên thông tin kế toán quản trị cần linh hoạt, nhanh chóng và tùy theo vào từng quyết định cụ thể của người quản lý. Thông tin của kế toán quản trị không buộc phải tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán chung; các quy định của Nhà nước về kế toán quản trị (nếu có) cũng chỉ mang tính chất hướng dẫn.
3. Tính pháp lý của kế toán
Kế toán tài chính có tính pháp lệnh, hiểu đơn giản là hệ thống sổ, ghi chép, trình bày và cung cấp thông tin đều phải tuân theo các quy định thống nhất nếu muốn được thừa nhận.
Ngược lại, tổ chức công tác kế toán quản trị lại mang tính nội bộ, thuộc thẩm quyền của từng doanh nghiệp, sao cho phù hợp với đặc thù quản lý, yêu cầu quản lý, điều kiện và khả năng quản lý cụ thể của từng đơn vị.
4. Hình thức của thông tin
Thông tin của kế toán tài chính chủ yếu được thể hiện ở hình thức giá trị. Còn của kế toán quản trị, lại được biểu hiện ở cả hai hình thái là: hiện vật và giá trị.
Thông tin của kế toán tài chính là thông tin phản ánh về những nghiệp vụ kinh tế đã phát sinh, đã xảy ra. Trong khi đó, vì phần lớn nhiệm vụ của nhà quản trị là lựa chọn phương án, đề án cho một sự kiện hoặc một quá trình chưa xảy ra, nên thông tin của kế toán quản trị chủ yếu đặt trọng tâm cho tương lai.
Thông tin kế toán tài chính chủ yếu là các thông tin kế toán thuần tuý, được thu thập từ các chứng từ kế toán. Còn thông tin trong kế toán quản trị lại được thu thập nhằm phục vụ cho chức năng ra quyết định của nhà quản lý và thường không có sẵn. Vì vậy, ngoài việc dựa vào hệ thống ghi chép ban đầu của kế toán, kế toán quản trị còn phải vận dụng nhiều phương pháp khác nhau như: thống kê, kinh tế học, hạch toán nghiệp vụ, quản lý để tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin thành dạng có thể sử dụng được phù hợp với mục đích ban đầu.
5. Cách thức báo cáo sử dụng
Báo cáo được sử dụng trong kế toán tài chính là các báo cáo kế toán tổng hợp toàn doanh nghiệp (gọi là các Báo cáo tài chính). Tại đó, phản ánh tổng quát về nguồn vốn, tài sản, kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong một thời kỳ (gồm Bảng cân đối kế toán; Báo cáo lưu chuyển tiền tệ; Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh; Thuyết minh báo cáo tài chính).
Báo cáo của kế toán quản trị lại đi sâu vào từng bộ phận, từng khâu công việc của doanh nghiệp (như báo cáo chi phí sản xuất và giá thành, báo cáo nợ phải trả, báo cáo nhập xuất và tồn kho của hàng tồn kho…).
6. Kỳ báo cáo
Kế toán quản trị thực hiện kỳ báo cáo thường xuyên và ngắn hơn kỳ báo cáo của kế toán tài chính, tùy theo yêu cầu quản trị doanh nghiệp. Báo cáo của kế toán tài chính được lập định kỳ, thường là hàng năm.
Theo Tạp chí tài chính
Phân Biệt Kế Toán Quản Trị Và Kế Toán Tài Chính
Trong khối ngành Kế toán, thuật ngữ “Kế toán quản trị – Kế toán tài chính” thường được sử dụng nhiều . Tuy nhiên, nếu bạn không phải là nhân sự trong ngành Kế toán, để hiểu rõ và phân biệt hai thuật ngữ trên là cực kỳ khó. Bài viết sau đây giúp bạn có được khái niệm tổng quát và so sánh giữa hai thuật ngữ ” Kế toán quản trị – Kế toán tài chính”.
Mục tiêu là điểm khác nhau căn bản của kế toán tài chính và kế toán quản trị. Nếu như mục tiêu của kế toán tài chính là cung cấp thông tin cho đối tượng bên ngoài tổ chức bao gồm cổ đông, nhà đầu tư hiện tại và tiềm năng, chủ nợ, các cơ quan nhà nước, các nhà phân tích đầu tư chứng khoán, khách hàng thì kế toán quản trị cung cấp thông tin phục vụ cho nhà quản lý của chính tổ chức đó. Họ có thể là các giám đốc điều hành, giám đốc marketing, giám đốc tài chính, …
Kế toán quản trị tạo ra các sản phẩm là báo cáo quản trị, các kế hoạch, chiến lược tài chính quản trị giúp nhà quản lý doanh nghiệp đưa ra các quyết định cho doanh nghiệp. Còn kế toán tài chính là kế toán phản ánh hiện trạng và sự biến động về vốn, tài sản của doanh nghiệp dưới dạng tổng quát hay nói cách khác là phản ánh các dòng vật chất và dòng tiền tệ trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp với môi trường kinh tế bên ngoài. Sản phẩm của kế toán tài chính là các báo cáo tài chính. Thông tin của kế toán tài chính ngoài việc được sử dụng cho ban lãnh đạo doanh nghiệp còn được sử dụng để cung cấp cho các đối tượng bên ngoài như: Các nhà đầu tư, ngân hàng, cơ quan thuế, cơ quan tài chính, cơ quan thống kê.
SỰ KHÁC NHAU
1) Mục đích:
– Kế toán quản trị có mục đích: Cung cấp thông tin phục vụ điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
– Kế toán tài chính: Cung cấp thông tin phục vụ cho việc lập các báo cáo tài chính.
2) Đối tượng phục vụ:
– Đối tượng sử dụng thông tin về kế toán quản trị là: Các nhà quản lý doanh nghiệp (Hội đồng quản trị, ban giám đốc)
– Đối tượng sử dụng thông tin về kế toán tài chính là: Các nhà quản lý doanh nghiệp và các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp (Nhà -đầu tư, ngân hàng, cơ quan thuế, cơ quan tài chính, cơ quan thống kê)
3) Đặc điểm thông tin:
– Kế toán quản trị nhấn mạnh đến sự thích hợp và tính linh hoạt của số liệu, thông tin được tổng hợp phân tích theo nhiều góc độ khác nhau. Thông tin ít chú trọng đến sự chính xác mà mang tính chất phản ánh xu hướng biến động, có tính dự báo vì vậy thông tin kế toán quản trị phục vụ cho việc đánh giá và xây dựng các kế hoạch kinh doanh, thông tin được theo dõi dưới hình thái giá trị và hình thái hiện vật. Ví dụ: Kế toán vật tư ngoài việc theo dõi giá trị của vật tư còn phải theo dõi số lượng vật tư.
– Kế toán tài chính phản ánh thông tin xảy ra trong quá khứ đòi hỏi có tính khách quan và có thể kiểm tra được. Thông tin chỉ được theo dõi dưới hình thái giá trị.
4) Nguyên tắc cung cấp thông tin:
– Kế toán quản trị không có tính bắt buộc, các nhà quản lý được toàn quyền quyết định và điều chỉnh phù hợp với nhu cầu và khả năng quản lý của doanh nghiệp.
– Kế toán tài chính phải tôn trọng các nguyên tắc kế toán được thừa nhận và được sử dụng phổ biến, nói cách khác kế toán tài chính phải đảm bảo tính thống nhất theo các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán nhất định để mọi người có cách hiểu giống nhau về thông tin kế toán đặc biệt là báo cáo tài chính và kế toán tài chính phải tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành, đặc biệt là những yêu cầu quản lý tài chính và các yêu cầu của xã hội thông qua việc công bố những số liệu mang tính bắt buộc.
6) Kỳ báo cáo:
– Kế toán quản trị có kỳ lập báo cáo nhiều hơn: Quý, năm, tháng, tuần, ngày.
– Kế toán tài chính có kỳ lập báo cáo là: Quý, năm
7) Quan hệ với các môn khoa học khác:
– Do thông tin kế toán quản trị được cung cấp để phục vụ cho chức năng quản lý, nên ngoài việc dựa vào hệ thống ghi chép ban đầu của kế toán tài chính thì kế toán quản trị còn phải kết hợp và sử dụng nội dung của nhiều môn khoa học khác như: Kinh tế học, thống kê kinh tế, tổ chức quản lý doanh nghiệp, quản trị đầu tư để tổng hợp phân tích và xử lý thông tin.
– Kế toán tài chính ít có mối quan hệ với các môn khoa học khác.
8) Tính bắt buộc theo luật định:
– Kế toán quản trị không có tính bắt buộc.
ĐIỂM GIỐNG NHAU
Tuy vậy, hệ thống kế toán quản trị và kế toán tài chính cũng có nhiều điểm giống nhau bởi vì cả hai hệ thống này đều dựa vào dữ liệu thu thập được từ hệ thống kế toán cơ bản của tổ chức. Hệ thống này bao gồm thủ tục, nhân sự, và hệ thông máy tính để thu thập và lưu trữ các dự liệu tài chính của tổ chức. Một phần của hệ thống kế toán chung này là hệ thống kế toán chi phí (cost accounting), có nhiệm vụ thu thập thông tin chi phí được sử dụng trong cả hệ thống kế toán quản trị và kế toán tài chính. Ví dụ, số liệu về giá thành sản phẩm được nhà quản lý sử dụng để định giá bán sản phẩm, đó là một mục đích sử dụng thông tin của kế toán quản trị. Tuy vậy, số liệu giá thành cũng được sử dụng để xác định giá trị hàng tồn kho trên bảng cân đối kế toán, đó lại là một mục đích sử dụng thông tin của kế toán tài chính.
Cũng như theo xu thế tiến hoá chung, kế toán quản trị vào Việt Nam ban đầu với hình thái hệ thống lập kế hoạch (dự toán ngân sách) và quản trị chi phí. Phương pháp lập kế hoạch đã bắt đầu sơ khai từ sau những năm 1985, tuy nhiên bước đầu còn đơn giản và thiếu chính xác. Sau khi kinh tế tư nhân phát triển thì việc lập kế hoạch phục vụ cho nhu cầu hoạch định của doanh nghiệp mới được phát triển rầm rộ.
Phương pháp lập kế hoạch ở nhiều doanh nghiệp cũng khác nhau. Về cơ bản, phương pháp lập kế hoạch được phân làm 2 cách:
– Thứ nhất: lập kế hoạch dự trên sự tăng trưởng. Các doanh nghiệp thường dựa trên sự phát triển của công ty và các số liệu quá khứ (tốc độ tăng trưởng của doanh thu, mức độ gia tăng chi phí) và ước lượng kế hoạch thực hiện cho tương lai. Phương pháp này thường được vận dụng khá phổ biến hiện nay do dể thực hiện và ước lượng tương đối chính xác. Các doanh nghiệp hoạt động trong khối sản xuất thường vận dụng theo phương pháp này
– Thứ hai: dựa vào mục tiêu của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thường dựa vào mục tiêu tăng trưởng của mình trong thời gian tới và đề ra kế hoạch hành động sao cho thực hiện được mục tiêu đó. Phương pháp lập kế hoạch này thường được vận dụng đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ.
Ngoài ra, rất ít doanh nghiệp chú trong đến việc lập kế hoạch kết hợp giữa hai phương pháp trên do sự phức tạp trong khâu lượng hoá số liệu kế hoạch và hạ tầng thông tin chưa đáp ứng được.
Hệ thống quản trị và kiểm soát chi phí cũng được hình thành theo nhu cầu quản trị của doanh nghiệp, theo cùng với hệ thống lập kế hoạch (dự toán). Tuy nhiên, việc kiểm soát chi phí chỉ dừng lại ở một vài khoản mục chi phí phát sinh tương đối lớn và chiếm tỉ trọng cao như: chi phí quảng cáo tiếp thị, chi phí vận chuyển, lương… (trong chi phí bán hàng) ; chi phí tiếp khách, đào tạo,…(trong chi phí quản lý doanh nghiệp). Bên cạnh đó, việc quản lý chi phí ở khâu sản xuất (đối với doanh nghiệp có hoạt động sản xuất) cũng được tổ chức chặt chẽ nhằm giảm giá thành sản phẩm.
– Tìm hiểu nghề Kế toán quản trị
– Khóa học Kế toán quản trị ACCA F2
– Khóa học Ứng dụng Dashboard reporting trong Excel
Sự Khác Biệt Giữa Kế Toán Tài Chính Và Kế Toán Quản Trị
Kế toán, đề cập đến quá trình ghi lại, phân loại và tóm tắt bằng thuật ngữ tiền tệ, các giao dịch và sự kiện kinh doanh và diễn giải kết quả. Nó được sử dụng bởi các thực thể để theo dõi các giao dịch tài chính của họ. Kế toán tài chính và kế toán quản trị là hai ngành kế toán. Kế toán tài chính nhấn mạnh vào việc đưa ra một cái nhìn chân thực và công bằng về tình hình tài chính của công ty cho các bên khác nhau.
Ngược lại, kế toán quản trị nhằm cung cấp cả thông tin định tính và định lượng cho các nhà quản lý, để hỗ trợ họ trong việc ra quyết định và do đó tối đa hóa lợi nhuận. Đoạn trích bài viết này được tạo ra để giúp bạn tìm hiểu sự khác biệt đáng kể giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị.
Biểu đồ so sánh
Định nghĩa kế toán tài chính
Thông thường, các báo cáo dựa trên kế toán tài chính được chuẩn bị cho một năm kế toán, để cho phép người dùng so sánh về tình hình tài chính, lợi nhuận và hiệu quả hoạt động của công ty trong một giai đoạn cụ thể. Không chỉ các bên ngoài mà quản lý nội bộ cũng có được thông tin để dự báo, lập kế hoạch và ra quyết định.
Định nghĩa kế toán quản trị
Kế toán quản trị, còn được gọi là Kế toán quản trị là kế toán cho các nhà quản lý giúp ban quản lý của tổ chức xây dựng chính sách và dự báo, lập kế hoạch và kiểm soát hoạt động kinh doanh hàng ngày của tổ chức. Cả thông tin định lượng và định tính đều được kế toán quản lý nắm bắt và phân tích.
Sự khác biệt chính giữa Kế toán tài chính và Kế toán quản trị
Các điểm sau đây giải thích sự khác biệt chính giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị:
Kế toán tài chính là một nhánh của kế toán theo dõi tất cả các thông tin tài chính của đơn vị. Kế toán quản trị là chi nhánh kế toán ghi lại và báo cáo cả thông tin tài chính và phi tài chính của một thực thể.
Người sử dụng kế toán tài chính là cả quản lý nội bộ của công ty và các bên bên ngoài trong khi người sử dụng kế toán quản trị chỉ là quản lý nội bộ.
Kế toán tài chính sẽ được báo cáo công khai trong khi Kế toán quản trị dành cho việc sử dụng của tổ chức và do đó nó rất bí mật.
Chỉ thông tin tiền tệ được chứa trong kế toán tài chính. Đối với điều này, kế toán quản trị chứa cả thông tin tiền tệ và phi tiền tệ như số lượng công nhân, số lượng nguyên liệu thô được sử dụng và bán, v.v.
Kế toán tài chính được thực hiện theo định dạng quy định, trong khi không có định dạng quy định cho Kế toán quản trị.
Kế toán tài chính tập trung vào việc cung cấp thông tin về chức năng kinh doanh của đơn vị cho người dùng, trong khi Kế toán quản trị tập trung vào việc cung cấp thông tin để giúp họ đánh giá hiệu suất và đưa ra kế hoạch cho tương lai.
Kế toán tài chính chủ yếu được thực hiện trong một khoảng thời gian cụ thể, thường là một năm. Mặt khác, kế toán quản trị được thực hiện theo nhu cầu của quản lý nói hàng quý, nửa năm, v.v.
Kế toán tài chính là phải cho bất kỳ công ty cho mục đích kiểm toán. Ngược lại, kế toán quản trị là tự nguyện, vì không có chỉnh sửa nào được thực hiện.
Thông tin kế toán tài chính là bắt buộc phải được công bố và kiểm toán bởi các kiểm toán viên theo luật định. Không giống như kế toán quản trị, không yêu cầu thông tin phải được công bố và kiểm toán, vì chúng chỉ dành cho sử dụng nội bộ.
Điểm tương đồng
Được sử dụng bởi Quản lý nội bộ.
Đánh giá hiệu suất.
Chi nhánh kế toán.
Trình bày vị trí của thực thể.
Phần kết luận
Kế toán tài chính và kế toán quản trị có ý nghĩa rất lớn, trên thực tế, chúng giúp tổ chức theo nhiều cách khác nhau. Vì kế toán tài chính rất hữu ích trong việc lưu giữ hồ sơ thích hợp của vô số giao dịch và so sánh hiệu suất của hai giai đoạn của một thực thể hoặc giữa hai thực thể, trong khi kế toán quản trị hữu ích trong việc phân tích hiệu suất, đưa ra chiến lược, đưa ra phán đoán hiệu quả và chuẩn bị các chính sách cho tương lai.
Phân Biệt Giữa Kế Toán Tài Chính Và Kế Toán Quản Trị
ĐIỂM KHÁC NHAU
Do đối tượng sử dụng thông tin khác nhau, mục đích sử dụng thông tin khách nhau nên giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính có nhiều điểm khác biệt:
1. Đối tượng sử dụng thông tin:
Với kế toán quản trị đối tượng sử dụng thông tin là các thành viên bên trong doanh nghiệp: các chủ sở hữu, Ban giám đốc, Quản lý viên, Giám sát viên vv.. Trong khi thông tin kế toán tài chính chủ yếu lại cung cấp cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp như cổ đông, người cho vay, khách hàng, nhà cung cấp và chính phủ (các cơ quan thuế, cơ quan quản lý tài chính).
2. Nguyên tắc trình bày và cung cấp thông tin:
Thông tin kế toán tài chính phải tuân thủ nguyên tắc, chuẩn mực và chế độ hiện hành về kế toán của từng quốc gia, kể cả các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế về kế toán được các quốc gia công nhận. Trái lại,trong nền kinh tế thị trường, do yêu cầu phải nhạy bén và nắm bắt nhanh các cơ hội kinh doanh đa dạng nên thông tin kế toán quản trị cần linh hoạt, nhanh chóng và thích hợp với từng quyết định cụ thể của nguời quản lý, không buộc phải tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực của kế toán chung. Các quy định của Nhà nước về kế toán quản trị (nếu có) cũng chỉ mang tính chất hướng dẫn.
3. Tính pháp lý của kế toán:
Kế toán tài chính có tính pháp lệnh (và tới đây sẽ tuân thủ theo luật kế toán), nghĩa là hệ thống sổ, ghi chép, trình bày và cung cấp thông tin của kế toán tài chính đều phải tuân theo các quy định thống nhất nếu muốn được thừa nhận. Ngược lại, tổ chức công tác quản trị lại mang tính nội bộ, thuộc thẩm quyền của từng doanh nghiệp phù hợp với các đặc thù quản lý, điều kiện và khả năng quản lý cụ thể của từng doanh nghiệp.
4. Đặc điểm thông tin:
Thông tin của kế toán tài chính chủ yếu dưới hình thức giá trị. Còn thông tin của kế toán quản trị được biểu hiện cả hình thái hiện vật và hình thái giá trị.
Thông tin của kế toán tài chính là thông tin thực hiện về những nghiệp vụ đã phát sinh, đã xảy ra. Trong khi đó, thông tin của kế toán quản trị chủ yếu đặt trọng tâm cho tương lai vì phần lớn nhiệm vụ của nhà quản trị là lựa chọn phương án, đề án cho một sự kiện hoặc một quá trình chưa xảy ra.
Thông tin kế toán tài chính chủ yếu là các thông tin kế toán thuần túy, được thu thập từ các chứng từ ban đầu về kế toán. Trong kế toán quản trị, thông tin được thu thập nhằm phục vụ cho chức năng ra quyết định của nhà quản lý và thường không có sẵn, nên ngoài việc dựa vào hệ thống ghi chép ban đầu của kế toán, kế toán quản trị còn phải kết hợp với nhiều ngành khoa học khác như thống kê hạch toán nghiệp vụ, kinh tế học, quản lý để tổng hợp, phân tích và sử lý thông tin thành dạng có thể sử dụng được.
5. Hình thức báo cáo sử dụng:
Báo cáo được sử dụng trong kế toán tài chính là các báo cáo kế toán tổng hợp (gọi là các báo cáo tài chính) phản ánh tổng quát về sản nghiệp, kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong một thời kỳ (gồm Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, Thuyết minh báo cáo tài chính)
Báo cáo của kế toán quản trị đi sâu vào từng bộ phận, từng khâu công việc của doanh nghiệp (như báo cáo chi phí sản xuất và giá thành, báo cáo nợ phải trả, báo cáo nhập xuất tồn kho vv..).
6. Kỳ báo cáo:
Kỳ báo cáo của kế toán quản trị thường xuyên hơn và ngắn hơn kỳ báo cáo của kế toán tài chính. Báo cáo của kế toán tài chính được soạn thảo theo định kỳ, thường là năm, còn báo cáo của kế toán quản trị được soạn thảo thường xuyên theo yêu cầu quản trị doanh nghiệp.
II. ĐIỂM GIỐNG NHAU:
Kế toán tài chính và kế toán quản trị có nhiều điểm giống nhau, và là hai bộ phận không thể tách rời của kế toán doanh nghiệp. Những điểm giống nhau cơ bản là:
Kế toán quản trị và kế toán tài chính đều đề cập đến các sự kiện kinh tế trong doanh nghiệp và đều quan tâm đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn sở hữu, doanh thu, chi phí, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, quá trình lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp. Một bên phản ánh tổng quát và một bên phản ánh chi tiết, tỉ mỉ của các vấn đề đó.
Kế toán quản trị và kế toán tài chính đều dựa trên hệ thống ghi chép ban đầu của kế toán. Hệ thống ghi chép ban đầu là cơ sở để kế toán tài chính soạn thảo các báo cáo tài chính định kỳ, cung cấp cho các đối tượng ở bên ngoài. Đối với kế toán quản trị, hệ thống đó cũng là cơ sở để vận dụng, xửlý nhằm tạo ra các thông tin thích hợp cho việc ra quyết định của các nhà quản trị. Kế toán quản trị sử dụng rộng rãi các ghi chép hàng ngày của kế toán tài chính, mặc dù có khai triển và tăng thêm số liệu cũng như nội dung của các thông tin.
Kế toán quả trị và kế toán tài chính đều biểu hiện trách nhiệm của người quản lý. Kế toán quản trị thể hiện trách nhiệm của người quản lý cấp cao còn kế toán quản trị thể hiện trách nhiệm của nhà quản lý các cấp bên trong doanh nghiệp. Nói cách khác kế toán tài chính và kế toán quản trị đều dự phần vào quản lý doanh nghiệp.
Kế toán tài chính và kế toán chi tiết: Kế toán chi tiết là một bộ phận của kế toán tài chính, nhằm chứng minh các số liệu ghi trong tài khoản tổng hợp là đúng trong quá trình ghi chép và lập báo cáo kế toán, đây cũng là công việc phải làm trước khi khoá sổ kế toán để quyết toán. Thuật ngữ thông thường gọi là đối chiếu giữa tổng hợp và chi tiết.
Ví dụ: Như việc thực hiện đối chiếu giữa tài khoản phải thu với sổ công nợ chi tiết của từng khách hàng, đối chiếu tài khoản phải trả với sổ chi tiết công nợ của từng nhà cung cấp hay việc đối chiếu tài khoản nguyên vật liệu với sổ chi tiết vật tư, đối chiếu tài khoản chi phí sản xuất kinh doanh dở dang với thẻ chi tiết tính giá thành sản phẩm.
Tóm lại trong kế toán tài chính bao giờ cũng có kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết, vì vậy kế toán tài chính không phải là kế toán tổng hợp và kế toán quản trị không phải là kế toán chi tiết. Theo chúng tôi
Thân!
Bạn đang xem bài viết 6 Điểm Khác Biệt Của Kế Toán Quản Trị Và Kế Toán Tài Chính trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!