Cập nhật thông tin chi tiết về Chuyên Đề Phương Pháp Dạy Học Bàn Tay Nặn Bột Trong Môn Tnxh Lớp 2 mới nhất trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Chuyên đề: Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột trong môn TNXH lớp 2
CHUYÊN ĐỀ “PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BÀN TAY NẶN BỘT TRONG MÔN TNXH LỚP 2″ LỜI MỞ ĐẦU Tự nhiên và xã hội là một môn học cung cấp cho học sinh những hiểu biết cơ bản ban đầu về các sự vật, sự kiện hiện tượng trong tự nhiên, xã hội với mối quan hệ trong đời sống thực tế của con người. Trong chương trình Tiểu học, cùng với Toán, Tiếng Việt, Tự nhiên và Xã hội trang bị cho các em học sinh những kiến thức cơ bản của bậc học, góp phần bồi dưỡng phẩm chất, nhân cách toàn diện của con người. Chương trình đã được xây dựng theo quan điểm tích hợp. Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với quy luật nhận thức của con người. Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Thực hiện tốt mục tiêu đổi mới của môn TNXH, người giáo viên phải thực hiện đổi mới các phương pháp dạy học sao cho học sinh là người chủ động, nắm bắt kiến thức của môn học một cách tích cực sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, tự phát hiện tự giải quyết các tình huống có vấn đề đặt ra trong bài học. Từ đó chiếm lĩnh nội dung mới của bài học, môn học. Các phương pháp dạy học thường xuyên sử dụng ở môn học này là: Phương pháp quan sát, phương pháp thí nghiệm, phương pháp thực hành, đóng vai và truyền đạt. Các hình thức tổ chức dạy học chủ yếu là dạy học theo nhóm, cá nhân, trò chơi học tập… Năm học 2012-2013, Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra thí điểm phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào áp dụng ở bậc Tiểu học. Đây là phương pháp dạy hình thành kiến thức cho học sinh bằng các thí nghiệm, thông qua cách học sinh chia nhóm để tự làm, tự trao đổi, nghiên cứu, quan sát để tìm ra câu trả lời cho các vấn đề trong cuộc sống. Giáo viên chỉ đóng vai trò tư vấn, hướng dẫn. Với sự chỉ đạo chặt chẽ của lãnh đạo ngành và chuyên môn trường, tập thể giáo viên tổ 2 đã tích cực nghiên cứu soạn giảng, đổi mới phương pháp dạy học. Bước đầu sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong môn TNXH phát huy tính năng động sáng tạo của học sinh, nhằm mục đích nâng cao chất lượng toàn diện vững chắc. Qua giảng dạy, chúng tôi đã rút ra một số kinh nghiệm có tính chất trọng tâm, thiết thực, thật sự có tác dụng góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục, cần được đúc kết kinh nghiệm học tập. Bên cạnh những kết quả đạt được, không sao tránh khỏi những tồn tại, thiếu sót cần được chấn chỉnh khắc phục, bổ sung cho hoàn thiện hơn. Tập thể giáo viên tổ 2 xin đưa ra hội thảo chuyên đề “Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột trong môn TNXH lớp 2″. Để phát huy mặt ưu điểm của phương pháp này, chúng tôi tập hợp một số nội dung chính, cơ bản, tiêu biểu đưa ra hội thảo nhằm để trao đổi góp phần thiết thực cho việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, hoàn thiện và phát triển tư duy, năng lực cho học sinh. Năm học: 2014-2015
1
Chuyên đề: Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột trong môn TNXH lớp 2
Để dự thảo chuyên đề có tính khả thi, đưa ra vận dụng đạt hiệu quả, tập thể GV Tổ 2 rất mong và xin đón nhận ý kiến đóng góp chân thành của lãnh đạo trường và quý thầy cô giáo trong Hội đồng Sư phạm nhằm sửa đổi, bổ sung cho chuyên đề được hoàn thiện, thiết thực hơn. * Chuyên đề gồm có 5 phần: – Phần I: Những ưu khuyết điểm trong quá trình thực hiện dạy học phương pháp Bàn tay nặn bột trong môn TNXH lớp 2. – Phần II: Mục tiêu, nội dung chương trình và các phương pháp dạy học môn TNXH lớp 2 – Phần III: Phương pháp bàn tay nặn bột trong môn TNXH lớp 2. – Phần IV: Tiến trình đề xuất dạy bài: Cơ quan tiêu hóa – THXN Lớp 2 – Phần V: Kết luận.
Năm học: 2014-2015
2
Chuyên đề: Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột trong môn TNXH lớp 2
3
Chuyên đề: Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột trong môn TNXH lớp 2
Năm học: 2014-2015
4
Chuyên đề: Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột trong môn TNXH lớp 2
5
Chuyên đề: Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột trong môn TNXH lớp 2
TÊN BÀI DẠY Các cơ quan vận động Bộ xương Hệ cơ Làm gì để xương và cơ phát triển tốt Cơ quan tiêu hoá Tiêu hóa thức ăn Đề phòng bệnh giun Cây sống ở đâu? Một số loài cây sống trên cạn Một số loài cây sống dưới nước Loài vật sống ở đâu? Một số loài vật sống trên cạn Một số loài vật sống dưới nước Mặt trời Mặt trời và phương hướng Mặt trăng và các vì sao
Năm học: 2014-2015
6
Chuyên đề: Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột trong môn TNXH lớp 2
III. Một số phương pháp và tiến trình thực hiện phương pháp “Bàn tay nặn bột”. 1. Phương pháp dạy học “Bàn tay nặn bột”. – Phương pháp quan sát – Phương pháp thí nghiệm trực tiếp – Phương pháp làm mô hình – Phương pháp nghiên cứu tài liệu 2. Tiến trình thực hiện phương pháp “Bàn tay nặn bột” gồm 5 bước: Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề. Bước 2: Bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh. Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm. Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu. Bước 5: Kết luận và hợp thức hoá kiến thức. Lưu ý: Trong mỗi tiết học GV cần tổ chức cho HS thực hiện các hoạt động, tập cho các em giải quyết vấn đề đơn giản, làm việc theo cặp. Tăng cường cho HS sử dụng tranh ảnh, sơ đồ, mẫu vật, đồ dùng thí nghiệm.
Năm học: 2014-2015
7
Chuyên đề: Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột trong môn TNXH lớp 2
HS tự đặt câu hỏi giả thiết ban đầu
Tiến hành thí nghiệm
Năm học: 2014-2015
8
Chuyên đề: Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột trong môn TNXH lớp 2
9
Chuyên đề: Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột trong môn TNXH lớp 2
10
Chuyên đề: Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột trong môn TNXH lớp 2
11
Chuyên đề: Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột trong môn TNXH lớp 2
12
Chuyên đề: Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột trong môn TNXH lớp 2
định tiến hành PP thí nghiệm đã chuẩn bị sẵn. (Nếu HS chưa đề xuất được GV có thể gợi ý hay đề xuất phương án cụ thể. Chú ý làm rõ và quan tâm đến sự khác biệt giữa các ý kiến). VD: Khi dạy bài Cơ quan tiêu hóa Dự kiến một số câu hỏi đề xuất phương án thực nghiệm nghiên cứu của học sinh: – Chúng ta quan sát tranh trong SGK, – Chúng ta quan sát hình vẽ trong SGK trang 12 – Chúng ta tra trên mạng Lưu ý rằng phương án thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu ở đây được hiểu là các phương án để tìm ra câu trả lời. Có nhiều PP như quan sát, thực hành, thí nghiệm, nghiên cứu tài liệu, … Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu – Từ các phương án thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu mà HS nêu ra, GV khéo léo nhận xét và lựa chọn dụng cụ thí nghiệm thích hợp để HS tiến hành nghiên cứu. – Khi tiến hành thí nghiệm, GV nêu rõ yêu cầu và mục đích thí nghiệm hoặc yêu cầu HS cho biết mục đích của thí nghiệm chuẩn bị tiến hành. Sau đó GV phát cho HS các dụng cụ và vật liệu thí nghiệm tương ứng với các hoạt động. GV bao quát và nhắc nhở các nhóm chưa thực hiện, hoặc thực hiện sai – GV tổ chức việc đối chiếu các ý kiến sau một thời gian tạm đủ mà HS có thể suy nghĩ – GV khẳng định lại các ý kiến về phương pháp kiểm chứng giả thuyết mà HS đề xuất. – GV không chỉnh sửa cho học sinh – HS kiểm chứng các giả thuyết của mình bằng một hoặc các phương pháp đã hình dung ở trên (thí nghiệm, quan sát, điều tra, nghiên cứu tài liệu). – Mỗi thí nghiệm được thực hiện xong, GV nên dừng lại để HS rút ra kết luận. GV lưu ý HS ghi chép vật liệu thí nghiệm, cách bố trí và thực hiện thí nghiệm (mô tả bằng lời hay vẽ sơ đồ), ghi chú lại kết quả thực hiện thí nghiệm, kết luận sau thí nghiệm vào vở thực hành. GV chú ý yêu cầu HS thực hiện độc lập các thí nghiệm (theo cá nhân hoặc nhóm) để tránh việc HS nhìn và làm theo cách của nhau, thụ động trong suy nghĩ và cũng tiện lợi cho GV phát hiện các nhóm hay các cá nhân xuất sắc trong thực hiện thí nghiệm. * Lưu ý: Trong quá trình HS vẽ hình và thực hiện thí nghiệm, nếu sách giáo khoa có hình vẽ tương ứng thì không cho HS mở sách để tránh việc các em không quan sát mà chỉ sao chép lại hình vẽ trong sách ra vở thí nghiệm. VD: Khi dạy bài Mặt Trăng và các vì sao Học sinh viết dự đoán vào vở thí nghiệm với các mục:
Năm học: 2014-2015
13
Chuyên đề: Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột trong môn TNXH lớp 2
Câu hỏi Dự đoán Cách tiến hành Kết luận – Mặt Trăng có hình- Mặt Trăng có hình gì? lưỡi liềm – Mặt Trăng ở xa hay- Mặt Trăng ở xa Trái gần Trái đất? đất – Mặt Trăng có phát ra- Mặt Trăng phát ra ánh sáng không? ánh sáng – Mặt Trăng có sưởi- Mặt Trăng sưởi ấm ấm chúng ta không cho chúng ta. Học sinh tiến hành quan sát các hình trong SGK trang 68 và nghiên cứu tài liệu để tìm câu trả lời cho các câu hỏi và điền thông tin vào các mục còn lại trong vở thí nghiệm. Ví dụ HS có thể điền như sau: Câu hỏi Dự đoán Cách tiến hành Kết luận – Mặt Trăng có hình- Mặt Trăng có – Quan sát hình- Mặt Trăng có hình tròn (đôi gì? hình lưỡi liềm vẽ lúc trang thay đổi hình dáng) – Mặt Trăng ở xa- Mặt Trăng ở xa – Nghiên cứu tài- Mặt Trăng ở rất xa Trái đất hay gần Trái đất? Trái đất liệu – Mặt Trăng có phát- Mặt Trăng phát ra – Nghiên cứu tài- Mặt Trăng không tự phát ra ra ánh sáng không? ánh sáng liệu được ánh sáng (Mặt Trăng tỏa sáng do phản chiếu ánh sáng Mặt trời) – Mặt Trăng có sưởi- Mặt Trăng sưởi – Nghiên cứu tài- Mặt Trăng không sưởi ấm ấm chúng ta không ấm cho chúng ta. liệu cho chúng ta. Bước 5: Kết luận và hợp thức hoá kiến thức HS kiểm tra lại tính hợp lý của các giả thuyết mà mình đưa ra. Sau khi khi thực hiện thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu, các câu trả lời dần dần được giải quyết, các giả thuyết được kiểm chứng, kiến thức được hình thành, tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chưa chuẩn xác một cách khoa học. GV có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để HS ghi vào vở coi như là kiến thức của bài học. Trước khi kết luận chung, GV nên yêu cầu một vài ý kiến của HS cho kết luận sau khi thực nghiệm. GV khắc sâu kiến thức cho HS bằng cách cho HS nhìn lại, đối chiếu lại các ý kiến ban đầu (bước 2). Như vậy từ những quan niệm ban đầu sai lệch, sau quá trình thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu, chính HS tự phát hiện ra mình sai hay đúng mà không phải do GV nhận xét một cách áp đặt. Chính HS tự phát hiện những sai lệch trong nhận thức và tự sửa chữa, thay đổi một cách chủ động. Những thay đổi này sẽ giúp HS ghi nhớ một cách lâu hơn, khắc sâu kiến thức. Năm học: 2014-2015
14
Chuyên đề: Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột trong môn TNXH lớp 2
Năm học: 2014-2015
15
Chuyên đề: Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột trong môn TNXH lớp 2
Năm học: 2014-2015
16
Chuyên đề: Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột trong môn TNXH lớp 2
PHẦN IV TIẾN TRÌNH ĐỀ XUẤT DẠY BÀI CƠ QUAN TIÊU HÓA – THXN LỚP 2 I. Mục tiêu: Sau bài học, học sinh biết: – Nêu được tên và chỉ được vị trí các bộ phận chính của cơ quan tiêu hoá trên tranh vẽ hoặc mô hình. – Phân biệt được ống tiêu hoá và tuyến tiêu hoá. – Giáo dục HS ăn uống đều đặn để bảo vệ đường tiêu hóa. II. Đồ dùng dạy học: – GV: Mô hình (hoặc tranh vẽ) ống tiêu hóa, tranh phóng to (Hình 2) trang 13 SGK; Bánh quy, nước uống. – HS: SGK – Đèn chiếu III. Các hoạt động dạy học:
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
1. Ổn định: – Hát 2. Kiểm tra bài cũ: “Làm gì để cơ và xương phát triển tốt” – Để cơ và xương phát triển tốt chúng ta cần làm – Cần ăn đầy đủ các chất dinh gì? dưỡng.. – Ta khoâng neân laøm gì gaây aûnh höôûng ñeán cô vaø – Trả lời xöông? – HS nhận xét GV nhận xét, tuyên dương. 3. Bài mới: Cơ quan tiêu hoá a. Giới thiệu bài: GV giới thiệu, ghi bảng đề bài. – Lắng nghe b. Giảng bài: Hoạt động 1: Tìm hiểu đường đi của thức ăn trong ống tiêu hóa a) Đưa ra tình huống xuất phát và nêu vấn đề: – GV mời 1 HS ăn 1 cái bánh quy và uống 1 ngụm – Thực hiện nước Theo các em, bánh quy và nước sau khi vào miệng – Suy nghĩ được nhai nuốt rồi sẽ đi đâu? b) Làm bộc lộ biểu tượng ban đầu của HS: – GV yêu cầu HS mô tả bằng lời hoặc sơ đồ những hiểu biết ban đầu của mình vào vở Ghi chép – Ghi chép vào vở. Năm học: 2014-2015
17
Chuyên đề: Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột trong môn TNXH lớp 2
18
Chuyên đề: Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột trong môn TNXH lớp 2
19
Chuyên đề: Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột trong môn TNXH lớp 2
Năm học: 2014-2015
20
Chuyên Đề Dạy Theo Phương Pháp Bàn Tay Nặn Bột Môn Tnxh Lớp 3
SINH HOẠT CHUYÊN MÔN
Dự giờ chuyên đề dạy theo phương pháp bàn tay nặn bột môn TNVXH lớp 3
Môn : Tự nhiên và Xã hội lớp 3 bài 48: quả tại lớp 3A
Người dạy : Phạm Thị Huyền
* Đ/C Huyền nêu lại mục tiêu của tiết học
* Ý kiến 1: đồng chí Châm
– Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề là một tình huống do giáo viên chủ độ, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò, thích tìm tòi, nghiên cứu của HS nhằm chuẩn bị tâm thế cho HS trước khi khám phá, lĩnh hội kiến thức. GV dùng câu hỏi mở, tuyệt đối không được dùng câu hỏi đóng (trả lời có hoặc không) đối với câu hỏi nêu vấn đề.
thể là bằng lời nói (thông qua phát biểu cá nhân), bằng cách viết hay vẽ để biểu hiện suy Bước 2: Bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh ( Hình thành biểu tượng ban đầu) Làm bộc lộ quan niệm ban đầu hay biểu tượng ban đầu để từ đó hình thành các câu hỏi hay giả thuyết của HS là bước quan trọng đặc trưng của PPBTNB. Trong bước này, GV khuyến khích HS nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình về sự vật hiện tượng mới (kiến thức mới) trước khi học được kiến thức đó. Khi yêu cầu HS trình bày quan niệm ban đầu, GV có thể yêu cầu bằng nhiều hình thức biểu hiện của HS như có nghĩ. Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm
chỉ sao chép lại hình vẽ trong sách ra vở thí nghiệm.– Từ các phương án thực nghiệm tìm tòi-nghiên cứu mà HS nêu ra, GV khéo léo nhận cho biết mục đích của thí nghiệm chuẩn bị tiến hành. Sau đó GV phát cho HS các dụng HS phải được làm thực hiện xong, GV nên dừng lại để HS rút ra kết luận. GV lưu ý HS ghi chép vật liệu thí nghiệm, cách bố trí và thực hiện thí nghiệm (mô tả bằng lời hay vẽ sơ đồ), ghi chú lại kết quả thực hiện thí nghiệm, kết luận sau thí nghiệm vào vở thực tránh việc HS nhìn và làm theo cách của nhau, thụ động trong suy nghĩ và cũng tiện lợi hình vẽ tương ứng thì không cho HS mở sách để tránh việc các em không quan sát mà Sau khi khi thực hiện thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu, các câu trả lời dần dần dược giải quyết, các giả thuyết được kiểm chứng, kiến thức được hình thành, tuy nhiên vẫn thức của bài học. Trước khi kết luận chung, GV nên yêu cầu một vài ý kiến của HS cho kết luận sau khi thực nghiệm. GV khắc sâu kiến thức cho HS bằng cách cho HS nhìn lại, đối chiếu lại các ý kiến ban đầu (bước 2). Như vậy từ những quan niệm ban đầu sai lệch, sau quá trình thực nghiệm tìm tòi-nghiên cứu, chính HS tự phát hiện ra mình sai hay đúng mà không phải Bước 5: Kết luận và hợp thức hoá kiến thức do GV nhận xét một cách áp đặt. Chính HS tự phát hiện những sai lệch trong nhận thức và tự sửa chữa, thay đổi một cách chủ động. Những thay đổi này sẽ giúp HS ghi nhớ một cách lâu hơn, khắc sâu kiến thức.
Chuyên Đề Pp Bàn Tay Nặn Bột Môn Khoa Học Lớp 4, 5
=============================================== NGƯỜI THỰC HIỆN : PHAN TRÍ DŨNG ĐƠN VỊ : TRƯỜNG TIỂU HỌC SƠN MAI . NỘI DUNG
I. Giới thiệu chung về phương pháp “Bàn tay nặn bột”.
1. 1 PP BTNB là gì ?
– PP BTNB là PP chú trọng tới việc hình thành kiến thức cho hs bằng các tiến trình tìm tòi nghiên cứu thông qua tiến hành : Thí nghiệm , quan sát , nghiên cứu tài liệu hay điều tra …để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống
1.2 Đặc điểm cơ bản của phương pháp
– Đặc điểm cơ bản của phương pháp Bàn tay nặn bột là phương pháp giảng dạy dựa trên sự tìm tòi – nghiên cứu. Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác, học sinh đóng vai trò trung tâm trong quá trình dạy – học, tích cực, chủ động lĩnh hội kiến thức. Giáo viên là người hướng dẫn, cố vấn, giúp đỡ học sinh trong quá trình lĩnh hội kiến thức thông qua các hoạt động. Phương pháp này ngoài việc giúp học sinh lĩnh hội kiến thức còn rèn luyện các kĩ năng và phát triển ngôn ngữ( nói và viết) cho học sinh.
Một số đặc điểm quan trọng để phân biệt Bàn tay nặn bột với các phương pháp dạy học khác :
– Phương pháp Bàn tay nặn bột chú trọng biểu tượng ban đầu của học sinh trước khi tiếp cận kiến thức mới.
– Sự tiếp thu kiến thức của học sinh thông qua việc giáo viên giúp học sinh tự đi lại chính con đường mà các nhà khoa học đã tìm ra chân lí(kiến thức):
– Đó là: Đặt giả thuyết ( biểu tượng ban đầu), đặt câu hỏi khoa học, đề xuất phương án nghiên cứu và làm thí nghiệm để kiểm chứng giả thuyết, đưa ra kết luận.
– Phương pháp Bàn tay nặn bột sử dụng vở thí nghiệm như là một phương tiện để rèn luyện ngôn ngữ viết cho học sinh trong quá trình học tập các kiến thức khoa học, tập làm quen với ghi chép một cách khoa học các thông tin thu nhận được trong giờ học.
– Rèn kỹ năng diễn đạt qua ngôn ngữ nói và viết . Giúp hs phát triển khả năng diễn đạt , ngôn ngữ khoa học
1. 4 . Khó khăn hạn chế của PP BTNB :
– Trong quá trình tìm tòi kiến thức , có những vấn đề, tình huống nảy sinh hs cũng có thể có những câu hỏi mà gv chưa thể trả lời ngay
II. Sử dụng vở ghi chép khoa học của Hs trong PP BTNB :
1) Vai trò của vở ghi chép .
-Vở ghi lại những suy nghĩ , khám phá của hs ; thể hiện sự tiến bộ của hs qua một quá trình . Sử dụng vở giúp phát triển tư duy cũng như khả năng ngôn ngữ của hs . Vở giúp hs ghi lại những phân tích , so sánh , suy luận … trong quá trình tìm tòi kiến thức , giúp các em tự đánh giá .
– Vở là công cụ giúp gv liên lạc với gia đình , giúp phụ huynh biết được con em họ đang học gì
– Vở giúp gv biết được những điểm mạnh cũng như những hạn chế của hs về sự phát triển của hs và có những tác động thích hợp
2) Cấu trúc nội dung vở ghi chép khoa học của hs :
– Phần ghi chép cá nhân : Ghi lại những điều mình nghĩ , mình hiểu như những dự đoán , những điều quan sát được , những kết luận
III. Tiến trình sư phạm của các hoạt động nghiên cứu khoa học theo các bước của PP BTNB :
Đưa ra tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề .
Là tình huống do GV chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài. HS tiếp cận vấn đề đặt ra qua tình huống (hay câu hỏi lớn của bài).
– Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài. GV dùng câu hỏi mở. Tuyệt đối không dùng câu hỏi đóng (Trả lời có hoặc không).
2. Bước 2 : Làm bộc lộ biểu tượng ban đầu của hs .
– Nhiệm vụ của hs : + Đặt ra các câu hỏi
+ Trình bày các ý tưởng của mình , đối chiếu với các bạn khác( hs ghi vào vở biểu tượng ban đầu của mình )
– Vai trò của gv : + Kiểm soát lời nói , cấu trúc câu hỏi , chính xác hóa từ vựng của hs + Chính xác hóa các ý tưởng của hs , tổ chức đối chiếu các biểu tượng ban đầu của hs .
3. Bước 3: Đề xuất câu hỏi ( Dự đoán / giả thuyết ) và phương án tìm tòi .
– Nhiệm vụ của hs : + Bắt đầu những vấn đề khoa học được xác định , nêu câu hỏi
( Xây dụng dự đoán / giả thuyết ) – ( hs : sử dụng vở )
+ Hình dung có thể tìm câu trả lời : – Thí nghiệm
( Ghi vở ) – Quan sát
+ Kiểm chứng các dự đoán / giả thuyết bằng cách : * Điều tra .
* Nghiên cứu tài liệu
– Vai trò của gv : + Giúp hs hình thành các vấn đề khoa học và tiếp theo là đưa ra các dự đoán / giả thuyết khoa học ( chú ý làm rõ và quan tâm đến sự khác biệt giữa các ý kiến )
+ Tổ chức việc đối chiếu các ý kiến sau một thời gian đủ để hs có thể suy nghĩ .
+ Khẳng định lại các ý kiến về phương pháp tìm tòi mà hs đề xuất .
4. Bước 4 : Thực hiện phương án tìm tòi .
– Nhiệm vụ của hs : + Tìm tòi câu trả lời , kiểm chứng các dự đoán / giả thuyết bằng một hoặc một số phương pháp đã hình dung ở trên ( thí nghiệm , quan sát , điều tra , nghiên cứu tài liệu )
+ Thu nhận các kết quả và ghi chép lại để trình bày .
– Vai trò của gv : + Tập hợp các điều kiện về thí nghiệm , tài liệu …nhằm kiểm chứng các ý tưởng được đề xuất .
+ Giúp hs phương pháp trình bày kết quả .
5 . Bước 5 : Kết luận kiến thức .
– Nhiệm vụ của hs : Kiểm tra lại tính hợp lý của các giả thuyết :
+ Nếu giả thuyết sai , quay lại bước 2. + Nếu giả thuyết đúng : Kết luận và ghi lại chúng .
– Vai trò của gv : + Động viên hs và yêu cầu bắt đầu lại tiến trình nghiên cứu .
+ Giúp hs hình thành kết luận .
IV. VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
A. Giáo viên: – Là người hướng dẫn:
+ Đề ra những tình huống, thách thức.
+ Định hướng các hoạt động.
+ Thu hẹp cái có thể.
+ Chỉ ra thông tin.
– Là người trung gian: Là nhà trung gian giữa “thế giới” khoa học và HS.
– Đảm bảo sự đón trước và giải quyết những xung đột nhận thức.
– Hành động bên cạnh HS cũng như mỗi nhóm, lớp.
B. Học sinh :Chủ động tìm đến những kiến thức khoa học theo sự định hướng của GV.
– Độc lập suy nghĩ, phán đoán, lập luận, bảo vệ ý kiến.
V. KHÓ KHĂN- BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC: 1.HỌC SINH Khó khăn :
Trình độ HS chưa đồng đều, Thao tác thực hành (còn chậm).
HS còn thụ động trong quá trình lĩnh hội kiến thức.
HS chưa có thói quen sử dụng vở thí nghiệm.
HS đặt câu hỏi không sát với nội dung bài học
BP Khắc phục:
Cần cho các em làm quen dần với PPBTNB.
Nói cho các em biết rõ hơn về PPDH mới.
Tạo một thói quen khi học tập với PPBTNB.
Khuyến khích HS còn hạn chế trình bày các ý kiến cá nhân ở tất cả các môn học.
Giáo viên phải biết chọn lọc câu hỏi.
Khó khăn :
Trang thiết bị chưa đầy đủ phục vụ cho việc thí nghiệm.
Rất khó tổ chức cho các em đi thám điều tra
BP Khắc phục:
GV tận dụng những nguyên vật liệu rẻ tiền có sẵn ở địa phương để phục vụ cho việc giảng dạy.
Có thể kết hợp với các lực lượng GD khác trong và ngoài nhà trường.
Khó khăn :
– Sĩ số ảnh hưởng đến việc tổ chức các hình thức dạy học.
BP Khắc phục:
Sắp xếp bàn ghế phù hợp. – Bố trí nhóm từ 4 – 6 người.- Có chỗ dành riêng để vật liệu thí nghiệm.
4. THỜI LƯỢNG TIẾT HỌC Khó khăn :
Thời lượng cho 1 tiết dạy ở Tiểu học 35 – 40 phút nên GV thường bị ràng buộc về thời gian.
Làm thí nghiệm có thể thất bại nhiều lần.
Thời gian dành cho các hoạt động thí nghiệm (mất nhiều thời gian).
BP Khắc phục: Thời gian không quy định. Tuy nhiên nên hạn chế. Lớp 1,2,3 khoảng 50-60p. Lớp 4,5 khoảng 60- 70. Lưu ý : Cần báo cáo BGH khi dạy PPBTNB.
Sử dụng phương pháp này thường xuyên để rèn thói quen cho HS.
Rèn cho HS có kĩ năng diễn đạt rõ ràng, ngắn gọn, mạch lạc
GV cần có mặt kịp thời nhằm giúp nhóm trình bày ý tưởng, có thể điều chỉnh kịp thời để tránh thất bại nhiều lần.
Những vấn đề chưa cần thiết giải quyết trong tiết học GV hẹn dịp khác.
Đề xuất ý kiến lên các cấp quản lí giáo dục.
Khó khăn : -Hầu hết GV Tiểu học không được đào tạo chuyên sâu về kiến thức khoa học.Chưa đúng bản chất của PP BTNB
– GV gặp khó khăn trong việc trả lời, lí giải thấu đáo các câu hỏi do học sinh nêu ra về các vấn đề khoa học.
-Giáo viên chưa có kinh nghiệm sử dụng PP BTNB
-GV gặp khó khăn khi tìm 1 số thí nghiệm chứng minh cho kiến thức bài học.
BP Khắc phục:
– Tập huấn, bồi dưỡng các kiến thức khoa học thường gặp cho GV.
-Thành lập nhóm các GV yêu thích PP BTNB: nghiên cứu và áp dụng PPDH, giúp đỡ các GV trong trường, chia sẻ kinh nghiệm áp dụng, chia sẻ đồ dùng dạy học ….
-Xây dựng ngân hàng BTNB: gợi ý tiến trình dạy học, tài liệu hướng dẫn GV, tư liệu phục vụ dạy học (phim, hình ảnh, tài liệu khoa học…),
VI. Dùng phương pháp Bàn tay nặn bột để dạy kiến thức : Cấu tạo bên trong hạt đậu.Trong bài : Cây con mọc lên từ hạt- Lớp 5
Đưa ra tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề .
– GV đưa ra một vài hạt đậu (loại đậu hạt lớn nhằm mục đích để cho hs dễ quan sát.)
– GV đặt câu hỏi nêu vấn đề : Theo em trong hạt đậu có gì? ( Đây là b1 nêu vấn đề )
Làm bộc lộ biểu tượng ban đầu của học sinh.
– VD : Làm bộc lộ quan điểm ban đầu của hs thì gv giao nhiệm vụ cho hs:
– Trong hạt đậu có những gì ? Em hãy suy nghĩ và vẽ vào vở thí nghiệm hình vẽ mô tả bên trong hạt đậu, hs phải có nhiệm vụ đó và có thể mô tả bằng hình vẽ,có thể mô tả bằng lời.
Tức là đối với hs khả năng viết còn hạn chế thì hs có thể nói, có thể vẽ… Trong thời gian hs vẽ các ý kiến của mình vào vở thí nghiệm, giáo viên tranh thủ quan sát nhanh để tìm ra các hình vẽ ( Các biểu tượng ban đầu) khác nhau.
– Giáo viên chú ý không nhất thiết để ý tới các hình vẽ đúng và cần phải chú trọng đến các hình vẽ chưa đúng, thiếu…
– Vì đây là biểu tượng ban đầu ngây thơ của các em.
H1: Trong hạt đậu có nhiều hạt nhỏ.
H2: Trong hạt đậu có cây con với lá và rễ.
H3. Trong hạt đậu có cây đậu nở hoa và có nhiều hạt đậu khác.
H4. Trong hạt đậu có nhiều hạt đậu nhỏ có rễ.
H5, 7, 9.Trong hạt đậu có nhiều hạt đậu nhỏ.
H6,8. Trong hạt đậu có một cây đậu nhỏ với đầy đủ thân lá, rễ.
Đề xuất câu hỏi(dự đoán/ giả thuyết) và phương án tìm tòi. ( Đây là bước hoàn toàn mới ).
+ Nhóm biểu tượng một : Biểu tượng h.vẽ của hs 1,5,7,9 đều cho rằng trong hạt đậu có nhiều hạt đậu nhỏ khác.
Nhóm biểu tượng hai : Hình vẽ của hs 2,6,8 đều cho rằng: Trong hạt đậu đều có một câu đậu con với đầy đủ các bộ phận bên trong ( Tức là hs biểu hiện bằng hình vẽ đó )
Nhóm biểu tượng ba : Hình vẽ của hs trong hạt đậu có một cây đậu con có đầy đủ các bộ phận đã nở hoa, ngoài ra còn có nhiều hạt đậu khác( Tức là hs thể hiện trong hình vẽ là như vậy )
+ Nhóm biểu tượng bốn: Hình vẽ của hs cho rằng trong hạt đậu có nhiều hạt đậu nhỏ đang mọc rễ.
Lưu ý: Các nhóm biểu tượng trên chỉ là một phương án. Có thể hs ghép h.vẽ 4 vào các nhóm hình vẽ 1, 5, 7, 9 hoặc nhóm hình vẽ 3 vào nhóm với các hình 2, 6, 8 đều chấp nhận được.
Từ các hiểu biết ban đầu của hs .
giáo viên hướng dẫn hs đặt câu hỏi nghi vấn:
Có phải bên trong hạt đậu có nhiều hạt đậu nhỏ không ?
– Có phải có cây đậu nhỏ nở hoa bên trong hạt đậu không ?
– Có phải bên trong hạt đậu có nhiều hạt đậu nhỏ có rễ không ?
– Đây là vấn đề hoàn toàn hs tự làm chứ cô giáo không có hướng dẫn ở đây. Và khi đặt ra câu hỏi đó thì hs đề xuất phương án thực hiện. – Khi đặt ra câu hỏi rồi, khi đề ra hình vẽ rồi thì bây giờ hs phải đề ra cách thực hiện để kiểm chứng xem giả thuyết,dự đoán,tưởng tượng của mình có đúng không.
– Nhóm 1,2,3,4 đưa ra giả thuyết như vậy, bây giờ : Phải đề xuất phương án kiểm tra thực hành thí nghiệm xem những phương án nào là phương án đúng.
Học sinh đề xuất phương án thực nghiệm nghiên cứu : + Phương án thứ nhất : là bổ hạt đậu đó ra ( Ở đây chúng ta chú ý là tách hạt đậu ra để tránh cái thay đổi cấu tạo bên trong hạt đậu. Tức là tách hạt đậu ra để quan sát bên trong)+ Phương án thứ hai : Là xem hình vẽ trong sách giáo khoa.+ Phương án thứ ba : Là xem tranh vẽ khoa học chụp hình cấu tạo bên trong hạt đậu.+ Phương án thứ tư : Đi điều tra phỏng vấn . Tóm lại là tất cả các phương án này là hs phải nêu ra và hs sẽ chọn phương án nào nó tối ưu nhất trong các phương án nói trên.
Trong các phương án đưa ra thì chúng ta thấy là phương án tách hạt đậu ra là phương án tối ưu nhất.
– Giáo viên phải khéo léo nhận xét các phương án trên đều có lí nhưng tất cả phải thực hiện theo phương án tách hạt đậu ra để quan sát cấu tạo bên trong hạt đậu.
Giáo viên đưa ra hình ảnh chính xác nhất để cho học sinh so sánh với ý kiến của mình. Sau đó hs tự điểu chỉnh các thuật ngữ khoa học cần ghi chú thích trong hình vẽ mà các em đã làm chưa đúng. (Tức là giáo viên đưa ra một kiến thức chuẩn để học sinh tự điều chỉnh )
Bước 5 : Kết luận kiến thức.
– Sau khi học sinh đã tự đưa ra kiến thức, giáo viên đưa ra kiến thức chuẩn thì bước 5 là bước kết luận và hợp thức hóa kiến thức.
– Giáo viên giới thiệu cấu tạo bên trong hạt đậu với hình vẽ khoa học có sẵn hoặc hình vẽ tự vẽ, nếu trường hợp không có tranh vẽ in sẵn giáo viên lưu ý hs về một số thuật ngữ khoa học về những nhầm lẫn mà các em chưa gọi đúng tên khoa học trong quá trình quan sát hình vẽ.
– Sau khi quan sát rồi thì giáo viên yêu cầu hs vẽ lại hình vẽ đã quan sát và ghi chú thích các bộ phận bên trong của hạt đậu. – Nếu hs chưa chú thích đúng hình vẽ quan sát thì giáo viên đừng vội chỉnh sửa ngôn ngữ. Học sinh quan sát gì,chú thích gì thì đó là quyền của học sinh, giáo viên không chỉnh sửa . – Qua việc quan sát thì hs tự làm việc đó. – Sau khi cả lớp thực hiện xong quan sát hình vẽ, chú thích xong hình vẽ thì giáo viên cho hs quan sát thêm một bức tranh phóng to cấu tạo bên trong của hạt đậu có chú thích và phóng lên màn hình máy chiếu chúng tôi hoặc cho hs quan sát hình vẽ trong sách giáo khoa.
.Môn khoa học lớp 5
Sự biến đổi hóa học
Định nghĩa về sự biến đổi hóa học
Phân biệt sự biến đổi hóa học và sự biến đổi lý học
Vai trò của nhiệt trong sự biến đổi hóa học
Phan Trí Dũng @ 14:00 08/10/2017 Số lượt xem: 13608
Chuyên Đề Áp Dụng Phương Pháp Dạy Học “Bàn Tay Nặn Bột” Vào Môn Khoa Học Ở Tiểu Học
1. Bàn tay nặn bột là gì ?
“Bàn tay nặn bột” là mô hình giáo dục tương đối mới trên thế giới, có tên tiếng Anh là “Hands On”,tiếng Pháp là “La main à la pâte”, đều có nghĩa là “bắt tay vào hành động”; “bắt tay vào làm thí nghiệm”, “bắt tay vào tìm tòi nghiên cứu”.
Chương trình tập trung phát triển khả năng nhận thức của học sinh, giúp các em tìm ra lời giải đáp cho những thắc mắc trẻ thơ bằng cách tự đặt mình vào tình huống thực tế, từ đó khám phá ra bản chất vấn đề.
Trẻ luôn cảm thấy tò mò trước những hiện tượng mới mẻ của cuộc sống xung quanh, các em luôn đặt ra các câu hỏi “tại sao?”.
Chương trình “Bàn tay nặn bột” là sự quy trình hóa một cách logic phương pháp dạy học, dẫn dắt học sinh đi từ chưa biết đến biết theo một phương pháp mới mẻ là để học sinh tiếp xúc với hiện tượng, sau đó giúp các em giải thích bằng cách tự mình tiến hành quan sát qua thực nghiệm.
Phương pháp này giúp các em không chỉ nhớ lâu, mà còn hiểu rõ câu trả lời mình tìm được.
Qua đó, học sinh sẽ hình thành khả năng suy luận theo phương pháp nghiên cứu từ nhỏ và hình thành tác phong, phương pháp làm việc khi trưởng thành.
* Vậy PPBTNB là gì? Phương pháp BTNB là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm nghiên cứu, áp dụng cho việc giảng dạy các môn khoa học tự nhiên.
BTNB chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho HS bằng các thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra…
* Mục tiêu của BTNB?
Mục tiêu của BTNB là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá, yêu và say mê khoa học của HS. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, BTNB còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho HS.
2. Phương pháp BTNB tại Việt Nam.
Phương pháp dạy học BTNB được đưa vào Việt Nam là một cố gắng nỗ lực to lớn của Hội Gặp gỡ Việt Nam. Hội Gặp gỡ Việt Nam được thành lập vào năm 1993 theo luật Hội đoàn 1901 của Cộng hòa Pháp do Giáo sư Jean Trần Thanh Vân-Việt kiều tại Pháp làm Chủ tịch. Hội tập hợp các nhà khoa học ở Pháp với mục đích hỗ trợ, giúp đỡ Việt Nam trong các lĩnh vực khoa học, giáo dục; tổ chức các hội thảo khoa học, trường học về Vật lý; trao học bổng khuyến học, khuyến tài cho học sinh và sinh viên Việt Nam.
Phương pháp BTNB được giới thiệu tại Việt Nam cùng với thời điểm mà phương pháp này mới ra đời và bắt đầu thử nghiệm áp dụng trong dạy học ở Pháp.
3. Các nguyên tắc của Bàn tay nặn bột: Có 10 nguyên tắc
1. HS quan sát một sự vật hay một hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi với đời sống, dễ cảm nhận và các em sẽ thực hành trên những cái đó.
3. Những hoạt động do GV đề xuất cho HS được tổ chức theo tiến trình sư phạm nhằm nâng cao dần mức độ học tập. Các hoạt động này làm cho các chương trình học tập được nâng cao lên và dành cho HS một phần tự chủ khá lớn.
4. Cần một lượng tối thiểu là 2 giờ/tuần trong nhiều tuần liền cho một đề tài. Sự liên tục của các hoạt động và những phương pháp giáo dục được đảm bảo trong suốt thời gian học tập.
5. HS bắt buộc có mỗi em một quyển vở thực hành do chính các em ghi chép theo cách thức và ngôn ngữ của chính các em.
6. Mục tiêu chính là sự chiếm lĩnh dần dần của HS các khái niệm khoa học và kĩ thuật được thực hành, kèm theo là sự củng cố ngôn ngữ viết và nói.
7. Các gia đình và/hoặc khu phố được khuyến khích thực hiện các công việc của lớp học.
8. Ở địa phương, các đối tác khoa học (trường Đại học, Cao đẳng, Viện nghiên cứu,..) giúp các hoạt động của lớp theo khả năng của mình.
9. Ở địa phương, các Viện Đào tạo giáo viên (Trường cao đẳng sư phạm, đại học sư phạm) giúp các GV kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy.
10. GV có thể tìm thấy trên Internet các website có nội dung về những môđun (bài học) đã được thực hiện, những ý tưởng về các hoạt động, những giải đáp thắc mắc.
5- CÁC BƯỚC CỦA MỘT TIẾN TRÌNH TÌM TÒI KHÁM PHÁ (6 BƯỚC)
B1_Chọn lựa tình huống khởi đầu (Các thông số giúp cho GV chọn lựa tình huống này dựa vào mục tiêu do chương trình đề ra)
– Sự phù hợp với kế hoạch chung của khối lớp do hội đồng giáo viên của khối đề ra;
– Tính hiệu quả của cách đặt vấn đề có thể có được từ tình huống;
– Các nguồn lực địa phương (về vật chất và nguồn tư liệu)
– Các mối quan tâm chủ yếu của địa phương, mang tính thời sự hoặc nảy sinh từ các hoạt động khác, có thể về khoa học hay không;
-Tính phù hợp của việc học đối với các mối quan tâm riêng của học sinh
B2_Việc phát biểu các câu hỏi của học sinh
– Công việc được thực hiện dưới sự hướng dẫn bởi giáo viên, giáo viên có thể giúp sửa chữa, phát biểu lại các câu hỏi để đảm bảo đúng nghĩa, tập trung vào lĩnh vực khoa học và tạo điều kiện cho việc nâng cao khả năng diễn đạt nói của học sinh;
– Sự chọn lựa có định hướng, có căn cứ của giáo viên trong việc khai thác các câu hỏi hiệu quả (nghĩa là thích hợp với một tiến trình xây dựng, có tính đến các dụng cụ thực nghiệm và tư liệu sẵn có) có thể dẫn đến việc học một nội dung trong chương trình;
– Làm bộc lộ các quan niệm ban đầu của học sinh, đối chiếu chúng với nhau nếu có sự khác biệt để tạo điều kiện cho lớp lĩnh hội vấn đề đặt ra.
B3-Xây dựng các giả thuyết và thiết kế sự tìm tòi nghiên cứu cần tiến hành để chứng minh hay loại bỏ các giả thuyết đó
– Cách quản lí tạo nhóm học sinh của giáo viên (ở các mức khác nhau tùy thuộc hoạt động, từ mức độ cặp đôi đến mức độ cả lớp); các yêu cầu đưa ra ( các chức năng và hành vi mong đợi ở từng nhóm)
– Phát biểu bằng lời các giả thuyết ở các nhóm;
– Có thể xây dựng các qui trình để chứng minh hay loại bỏ các giả thuyết
– Viết các đoạn mô tả các giả thuyết và các tiến trình (bằng lời và hình vẽ, sơ đồ);
– Phát biểu bằng lời hay viết mô tả các dự đoán của học sinh: ” điều gì sẽ xảy ra?” ” vì sao?”;
– Trình bày các giả thuyết và các qui trình đề nghị bằng lời nói trong lớp.
B4_ Sự tìm tòi nghiên cứu do học sinh tiến hành
– Các giai đoạn tranh luận trong nhóm: các cách thức tiến hành thí nghiệm;
– Kiểm soát sự thay đổi của các thông số;
– Mô tả thí nghiệm (bằng các sơ đồ, các đoạn văn mô tả);
– Tính lặp lại được của thí nghiệm (học sinh chỉ rõ các điều kiện thí nghiệm)
– Việc quản lí các ghi chép cá nhân của học sinh.
B5_Lĩnh hội và hệ thống hóa (cấu trúc) các kiến thức
– So sánh và liên hệ các kết quả thu được trong các nhóm khác nhau, trong các lớp khác…
– Đối chiếu với kiến thức đã được thiết lập /trong sách /(dạng khác của việc sử dụng các tìm kiếm tài liệu) trong khi đảm bảo “mức độ phát biểu kiến thức” thích hợp với trình độ học sinh;
– Tìm kiếm các nguyên nhân của những kết quả khác biệt nếu có, phân tích /một cách phê phán/ các thí nghiệm đã tiến hành và đề xuất các thí nghiệm bổ sung;
– Trình bày các kiến thức mới lĩnh hội được cuối cụm bài học bằng lời văn viết do học sinh của học sinh với sự giúp đỡ của giáo viên.
B6_Vận dụng trong trường hợp có thể các kiến thức để:
– Diễn giải một tài liệu
– Chế tạo một đồ vật
– Giải thích một hiện tượng
– Dự đoán một hành vi /hay diễn tiến hiện tượng/ của một sinh vật hay vật thể, tùy thuộc vào một số thông số
– Giai đoạn này rất quan trọng vì nó cho phép học sinh nhận thấy rõ sự tiến bộ của mình, tạo ra hứng thú học tập và bộc lộ khả năng của học sinh.
– Đặt ra các câu hỏi mới
– Tùy thuộc vào tính chất của các câu hỏi mới
Tiến trình tìm tòi nghiên cứu tuân theo các nguyên tắc tính thống nhất và tính đa dạng 1- Nguyên tắc tính thống nhất: Tiến trình này gắn kết với quá trình đặt câu hỏi của học sinh về thế giới thực:
– Hiện tượng hay sự vật, vô sinh hay hữu sinh, tự nhiên hay nhân tạo, Quá trình đặt câu hỏi /đặt vấn đề/ này dẫn đến việc lĩnh hội các kiến thức và kĩ năng, sau khi học sinh đã tìm tòi nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
2. Nguyên tắc tính đa dạng:
– Khai thác, thử và sai, thao tác thực nghiệm (ví dụ như dùng pin để làm sáng đèn, thử làm chìm một vật đang nổi,…). Kiểu hoạt động này nhằm giúp cho học sinh làm quen với hiện tượng, các sinh vật hay vật thể.
– Thử nghiệm trực tiếp: thử nghiệm một giả thuyết bằng cách tạo ra một qui trình thực nghiệm thích hợp ( cách thức này đòi hỏi cao hơn cách thức trước)
– Quan sát trực tiếp hay có sử dụng dụng cụ: Sự quan sát này được định hướng bởi cách đặt vấn đề chính xác, dẫn học sinh đến việc quan sát tập trung vào chính xác một yếu tố nhằm thử nghiệm một giả thuyết.
– Mô hình hóa: tạo ra hay sử dụng một mô hình /maket/ để có thể hiểu được /hiện tượng/ (ví dụ để hiểu được sự thay đổi các pha của Mặt trăng)
– Điều tra và tham quan: có thể được tiến hành ở bất cứ giai đoạn nào. Có thể được tiến hành ngay trong giai đoạn đầu để làm quen với môi trường ở địa phương, thu thập các vật liệu, gợi ra các câu hỏi. Có thể thực hiện trong giai đoạn tìm tòi để thúc đẩy các nghiên cứu tìm kiếm. Cũng có thể được thực hiện trong giai đoạn cuối để đem lại ý nghĩa cho các kiến thức đã được hình thành trong lớp.
– Tìm kiếm tài liệu: cách thức này có thể thay thế cho việc thực nghiệm trực tiếp khi không thể tiến hành các thực nghiệm, hoặc có thể được dùng để thúc đẩy hoặc cũng có thể được dùng như phương tiện cuối cùng để đối chiếu kiến thức được xây dựng trong lớp với kiến thức đã được thiết lập/ trong sách
6. TIẾN TRÌNH SƯ PHẠM CỦA PP BTNB (gồm 5 bước)
Bước 1:
Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề
– Quan sát, suy nghĩ
– Câu hỏi nêu vấn đề đảm bảo ngắn gọn, gần gũi, dễ hiểu, phù hợp với trình độ, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò, thích tìm tòi, nghiên cứu…
– Bộc lộ quan niệm ban đầu nêu những suy nghĩ từ đó hình thành câu hỏi, giả thuyết. …..bằng nhiều cách nói, viết, vẽ.
Đây là bước quan trọng đặc trưng của PP BTNB
– GV cần: Khuyến khích HS nêu những suy nghĩ …..bằng nhiều cách nói, viết, vẽ.
– GV quan sát nhanh để tìm các hình vẽ khác biệt.
Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm
b, Đề xuất phương án thực nghiệm
– Bắt đầu từ những vấn đề khoa học được xác định, HS xây dựng giả thuyết
HS trình bày các ý tưởng của mình, đối chiếu nó với những bạn khác
– Kiểm soát lời nói, cấu trúc câu hỏi, chính xác hoá từ vựng của học sinh.-GV đặt câu hỏi đề nghị HS đề xuất thực nghiệm tìm tòi nghiên cứu để trả lời cho câu hỏi đó.
– GV ghi lại các cách đề xuất của học sinh (không lặp lại)
– GV nhận xét chung và quyết định tiến hành PP thí nghiệm đã chuẩn bị sẵn
( Nếu HS chưa đề xuất được GV có thể gợi ý hay đề xuất phương án cụ thể)
(chú ý làm rõ và quan tâm đến sự khác biệt giữa các ý kiến)
Bước 4: Tiến hành thí nghiệm tìm tòi – nghiên cứu
HS hình dung có thể kiểm chứng các giả thuyết bằng…
…thí nghiệm (Ưu tiên thí nghiệm trực tiếp trên vật thật)
…quan sát,
…điều tra
…nghiên cứu tài liệu.
– HS sinh ghi chép lại vật liệu thí nghiệm, cách bố trí, và thực hiện thí nghiệm (mô tả bằng lời hay hình vẽ),
– Nêu rõ yêu cầu, mục đích thí nghiệm sau đó mới phát các dụng cụ và vật liệu thí nghiệm
– GV bao quát và nhắc nhở các nhóm chưa thực hiện, hoặc thực hiện sai…
… tổ chức việc đối chiếu các ý kiến sau một thời gian tạm đủ mà HS có thể suy nghĩ
… khẳng định lại các ý kiến về phương pháp kiểm chứng giả thuyết mà HS đề xuất.
– GV không chỉnh sửa cho học sinh
– HS kiểm chứng các giả thuyết của mình bằng một hoặc các phương pháp đã hình dung ở trên (thí nghiệm, quan sát, điều tra, nghiên cứu tài liệu).
… tập hợp các điều kiện thí nghiệm nhằm kiểm chứng các ý tưởng nghiên cứu được đề xuất.
Thu nhận các kết quả và ghi chép lại để trình bày
… giúp HS phương pháp trình bày các kết quả.
HS kiểm tra lại tính hợp lý của các giả thuyết mà mình đưa ra
* Nếu giả thuyết sai: thì quay lại bước 3.
* Nếu giả thuyết đúng:
Thì kết luận và ghi nhận chúng.
động viên HS và yêu cầu bắt đầu lại tiến trình nghiên cứu.
…giúp HS lựa chọn các lý luận và hình thành kết luận.
– Sau khi thực hiện nghiên cứu, các câu hỏi dần dần được giả quyết, các giải thuyết dần dần được kiểm chứng tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chưa chính xác một cách khoa học. – GV có trách nhiệm tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để học sinh ghi vào vở coi như là kiến thức bài học.
– GV khắc sâu kiến thức bằng cách đối chiếu biểu tưởng ban đầu
Hà Thị Lê Na
Hà Thị Lê Na @ 19:43 15/12/2017 Số lượt xem: 1698
Bạn đang xem bài viết Chuyên Đề Phương Pháp Dạy Học Bàn Tay Nặn Bột Trong Môn Tnxh Lớp 2 trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!