Cập nhật thông tin chi tiết về Đại Cương Về Miễn Dịch Học mới nhất trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Đại cương về miễn dịch học
Tên gọi tiếng Anh “immunity” (tính miễn dịch) có nguồn gốc từ tiếng Latinh “immunitas” có nghĩa là miễn trừ sự cáo buộc pháp luật dành cho các nghị sĩ quốc hội trong thời gian thăng chức. Trong lịch sử, miễn dịch được dùng để chỉ sự không mắc bệnh, mà cụ thể là các bệnh nhiễm trùng. Trong cơ thể, tất cả các tế bào và phân tử hoá học chịu trách nhiệm về tính miễn dịch hợp thành hệ thống miễn dịch, và toàn bộ những đáp ứng của chúng tạo ra đối với những chất lạ xâm nhập vào cơ thể được gọi là đáp ứng miễn dịch.
Chức năng sinh lý của hệ thống miễn dịch là bảo vệ một cơ thể chống lại các vi sinh vật gây bệnh xâm nhập vào cơ thể đó. Tuy nhiên, những chất lạ không gây bệnh xâm nhập vào cơ thể cũng gây ra đáp ứng miễn dịch. Hơn nữa, cơ chế bảo vệ bình thường còn có khi gây ra một số thương tổn cho cơ thể. Do đó, người ta đã đưa ra một định nghĩa bao hàm hơn đối với tính miễn dịch là phản ứng đối với các chất lạ, bao gồm cả vi khuẩn và các đại phân tử như protein, các polysaccharide, không kể phản ứng đó là sinh lý hay bệnh lý. Miễn dịch học là môn học nghiên cứu tính miễn dịch với nghĩa rộng này đối với các hoạt động phân tử và tế bào xảy ra sau khi các vi sinh vật và đại phân tử xâm nhập vào cơ thể.
Các nhà sử học kể rằng: Thucydides, một người Hy Lạp ở Athens, là người đầu tiên vào thế kỷ thứ V trước Công nguyên đề cập đến tính miễn dịch chống lại bệnh nhiễm trùng mà lúc đó được gọi là “bệnh dịch”. Khái niệm “tính miễn dịch” có lẽ đã tồn tại rất lâu trước đó ở Trung Quốc vì người dân ở đây có tập tục cho người dân hít chất bộ t làm từ da của người bị đậu mùa đã khỏi để phòng ngừa bệnh này. Còn miễn dịch học, với tư cách là một môn học hiện đại, lại là mộ t ngành khoa học thực nghiệm, trong đó các hiện tượng miễn dịch được giải thích dựa trên những quan sát thực nghiệm. Miễn dịch học, với tư cách là một môn học thực nghiệm, đã tiến hoá theo năng lực của con người hiểu biết và kiểm soát chức năng của hệ thống miễn dịch. Bằng chứng đầu tiên trong lịch sử về năng lực này là thành công của Edward Jenner trong việc chủng ngừa phòng bệnh đậu mùa. Jenner là một thầy thuốc người Anh, ông đã quan sát thấy rằng những người vắt sữa đã bị bệnh đậu bò và sau đó hồi phục thì không bao giờ mắc bệnh đậu mùa nữa. Dựa vào nhận định này, ông đã lấy dịch từ vết thương của người b ị đậu bò tiêm cho một đứa trẻ 8 tuổi. Đứa trẻ này sau đó cho tiếp xúc trực tiếp với người bệnh đậu mùa thì đã không mắc bệnh và ông gọi cách bảo vệ của mình là “vaccination” (chủng ngừa) (chữ vaccination bắt nguồn từ tiếng Latinh “vacca” nghĩa là con bò cái) và đã cho xuất bản quyển sách “Vaccination” vào năm 1798. Từ đó biện pháp phòng bệnh nhiễm trùng này đã phát triển rộng rãi và cho đến nay nó vẫn là phương pháp phòng ngừa hiệu quả nhất đối với các bệnh nhiễm trùng (Bảng 1.1). Một văn bản có ý nghĩa quan trọng đối với ngành Miễn dịch học là công bố của Tổ chức Y tế Thế gi ới năm 1980 rằng bệnh đậu mùa là căn bệnh đầu tiên trên thế giới đã bị loại trừ nhờ vào công tác chủng ngừa.
Từ những năm 1960, chúng ta đã có một sự chuyển biến trong hiểu biết về hệ thống miễn dịch và chức năng của nó. Các tiến bộ về kỹ thuật nuôi cấy tế bào (kể cả kỹ thuật sản xuất kháng thể đơn dòng), hoá miễn dịch, phương pháp DNA tái tổ hợp, động vật biến đổi gen, … đã chuyển miễn dịch học từ chỗ chủ yếu là các hoạt động mô tả thành một ngành khoa học mà trong đó các hiện tượng miễn dịch được giải thích bằng những thuật ngữ sinh hoá và cấu trúc. Trong chương này chúng tôi trình bày những đặc điểm chung của đ áp ứng miễn dịch cũng như giới thiệu những khái niệm tạo nên những bước ngoặc trong ngành miễn dịch học hiện đại.
Bảng 1.1. Hiệu quả của vắc-xin đối vớ i một số bệnh nhiễm trùng thường gặp tại Hoa Kỳ
Bệnh
Số bệnh nhân
năm 2000
Số bệnh nhân năm 2000
Tỷ lệ phần trăm
Bạch hầu
206.939 (1921)
2
-99,99
Sởi
894.134 (1941)
63
-99,99
Quai bị
152.209 (1968)
315
-99,99
Ho gà
265.269 (1934)
6.755
-97,73
Bại liệt
21.269 (1952)
0
-100,00
Rubella
57.686 (1969)
152
-99,84
Uốn ván
1.560 (1923)
26
-98,44
H. Znfluenza typ B
~20.000 (1984)
1.212
-93,14
Viêm gan B
26.611 (1985)
6.646
-75,03
Tính miễn dịch bẩm sinh và thu được
Sự đề kháng chống lại vi sinh vật trong cơ thể ban đầu là những phản ứng của hệ thống miễn dịch bẩm sinh và sau đó là của miễn dịch thu được (Hình 1.1, Bảng 1.2). Hệ miễn dịch bẩm sinh (còn gọi là miễn dịch tự nhiên) bao gồ m các cơ chế đề kháng đã tồn tại trong cơ thể khi chưa có nhiễm trùng và sẵn sàng đáp ứng rất nhanh khi vi sinh vật xâm nhập. Các cơ chế này chủ yếu phản ứng chống lại vi sinh vật chứ không phản ứng với các vật lạ không phải là vi sinh vật; đồng thời chúng phản ứng theo một cơ chế giống hệt nhau khi vi sinh vật xâm nhập tái đi tái lại. Các thành phần chính của miễn dịch bẩm sinh bao gồm: (1) các hàng rào vật lý và hoá học như da, niêm mạc, các chất kháng khuẩn được tiết ra trên các bề mặt này; (2) các tế bào thực bào (tế bào trung tính, đại thực bào) và tế bào NK (tế bào giết tự nhiên);(3) các protein trong máu, bao gồm các thành phần của hệ thống bổ thể và các chất trung gian khác của phản ứng viêm; và (4) các protein gọi là cytokin có vai trò điều hoà và phối hợp các hoạt động của tế bào trong hệ miễn dịch bẩm sinh. Cơ chế hoạt động của hệ miễn dịch bẩm sinh chỉ đặc hiệu cho những cấu trúc chung của từng nhóm vi sinh vật và không đặc hiệu cho những khác biệt tinh tế trong từng nhóm này. Hệ miễn dịch bẩm sinh tạo ra những phản ứng đầu tiên chống lại sự xâm nhập của vi sinh vật.
Ngược với hệ miễn dịch bẩm sinh, có những đáp ứng miễn dịch khác được kích thích bởi sự tiếp xúc với vi sinh vật và tạo ra cường độ tăng dần nếu sự tiếp xúc này được lặp đi lặp lại. Bởi vì dạng đáp ứng này chỉ xuất hiện sau khi vi sinh vật xâm nhập cơ thể nên nó được gọi là miễn dịch thu được. Tính chất đặc biệt của đáp ứng miễn dịch thu được là tính đặc hiệu đối với từng phân tử và khả năng “nhớ” khi phân tử đó xâm nhập trở lại cơ thể để tạo ra một đáp ứng mạnh hơn nhiều so với lần xâm nhập đầu tiên. Hệ miễn dịch thu được có khả năng nhận diện và phản ứng lại với nhiều vật lạ có bản chất nhiễm trùng hoặc không nhiễm trùng. Ngoài ra, nó còn có khả năng tuyệt vời trong việc phân biệt sự khác nhau rất nhỏ giữa các vật lạ này và vì vậy mà nó còn được gọi là miễn dịch đặc hiệu. Các thành phần của miễn dịch thu được là tế bào lymphô và các sản phẩm của chúng. Những chất lạ tạo ra đáp ứng miễn dịch đặc hiệu hoặc chịu tác động của hệ miễn dịch này được gọi là kháng nguyên. Theo thói quen, các thuật ngữ “đáp ứng miễn dịch” và “hệ thống miễn dịch” thường dùng cho đáp ứng miễn dịch thu được, trừ khi có những nhấn mạnh riêng khác đến miễn dịch bẩm sinh.
Hình 1.1. Miễn dịch bẩm sinh và thu được
Các cơ chế của miễn dịch tự nhiên cung cấp sức đề kháng ban đầu đối với nhiễm trùng. Đáp ứng miễn dịch thu được đến muộn hơn với sự hoạt hoá tế bào lymphô. Mức độ mạnh hay yếu của đáp ứng miễn dịch bẩm sinh và thu được phụ thuộc từng loại nhiễm trùng.
Bảng 1.2. Đặc điểm của miễn dịch bẩm sinh và miễn dịch thu được
Đặc điểm
Bẩm sinh
Thu được
Tính đặc hiệu
Đối với cấu tạo chung của nhóm vi sinh vật
Đối với kháng nguyên có hoặc không nhiễm trùng
Tính đa dạng
Ít
Rất nhiều
Tính nhớ
Không
Có
Tính không đáp ứng với bản thân
Có
Có
Các thành phần tham gia
Hàng rào lý hoá
Da, niêm mạc, các hoá chất kháng khuẩn
Tế bào lymphô niêm mạc; kháng thể ở niêm mạc
Các protein máu
Bổ thể
Kháng thể
Tế bào
Thực bào, tế bào NK
Tế bào lymphô
Các thành phần của đáp ứng miễn dịch bẩm sinh và thu được thường xen lẫn với nhau trong một cơ chế đề kháng chung của cơ thể thông qua nhiều loại tế bào và phân tử. Riêng miễn dịch bẩm sinh có thể giúp cơ thể thoát kh ỏi sự tấn công của một số vi sinh vật, nhưng nhiều vi sinh vật gây bệnh có khả năng vượt qua hàng rào miễn dịch này nên sự loại trừ chúng cần đến một cơ chế đề kháng mạnh hơn nhiều, đó là miễn dịch thu được. Có hai mối liên kết quan trọng giữa miễn dịch bẩm sinh và thu được. Thứ nhất, miễn dịch bẩm sinh có khả năng kích thích đáp ứng miễn dịch thu được và ảnh hưởng đến bản chất của miễn dịch thu được. Đáp ứng của miễn dịch thu được có sử dụng nhiều cơ chế hiệu quả của miễn dịch bẩm sinh để loại trừ vi sinh vật và có khả năng tăng cường hoạt động kháng khuẩn của miễn dịch thu được.
Miễn dịch bẩm sinh về mặt di truyền thuộc hệ thống đề kháng cổ nhất của cơ thể chủ, còn miễn dịch thu được thì mới có được nhờ tiến hoá về sau.
Ở động vật có xương sống, sức đề kháng của cơ thể chủ chống lại vi sinh cơ thể chủ yếu được đảm trách bởi miễn dịch bẩm sinh, bao gồm các thực bào, và các phân tử protein lưu động trong máu. Miễn dịch thu được bao gồm tế bào lymphô và kháng thể, xuất hiện đầu tiên ở loài xương sống có hàm và càng biệt hoá đối với các loài tiến hoá về sau.
Các kiểu đáp ứng miễn dịch thu được
Có hai kiểu đáp ứng miễn dịch thu được, đó là đáp ứng thể dịch và đáp ứng qua trung gian tế bào. Cả hai kiểu này đều có sự tham gia của rất nhiều thành phần của hệ thống miễn dịch với mục đích là loại trừ nhiều loại vi sinh vật khác nhau ra khỏi cơ thể (Hình 1.2). Miễn dịch dịch thể được thực hiện qua trung gian của những phân tử hiện diện trong máu và dịch niêm mạc có tên là kháng thể, được sản xuất bởi tế bào lymphô B (còn gọi là tế bào B). Kháng thể có khả năng nhận diện kháng nguyên vi sinh vật, trung hoà tính gây bệnh và tác động lên vi sinh vật để loại trừ nó qua nhiều cơ chế hiệu quả khác nhau. Miễn dịch dịch thể là cơ chế đề kháng chủ yếu chống lại các vi sinh vật ngoại bào cũng như độc tố của chúng theo cơ chế kháng thể liên kết với các vi sinh vật hoặc độc tố để xúc tiến việc loại trừ. Bản thân kháng thể là những phân tử được chuyên môn hoá, những tuýp kháng thể khác nhau có thể tạo ra nhiều cơ chế loại bỏ kháng nguyên khác nhau. Một số tuýp kháng thể có khả năng xúc tiến hoạt động thực bào, một số khác lại kích thích tế bào bạch cầu sản xuất ra các chất trung gian của phản ứng viêm. Miễn dịch qua trung gian tế bào (còn gọi là miễn dịch tế bào) là kiểu đáp ứng được thực hiện qua trung gian của tế bào lymphô T (còn gọi là tế bào T). Các vi sinh vật nội bào như virus và một số vi khuẩn có khả năng sống và nhân lên trong đại thực bào cũng như một số tế bào chủ khác, vì thế chúng không chịu tác động trực tiếp của kháng thể lưu động trong máu. Sự đề kháng chống lại những vi sinh vật kiểu này là chức năng của miễn dịch tế bào.
Hình 1.2. Các kiểu miễn dịch thu được
Trong miễn dịch dịch thể, tế bào B tiết ra kháng thể để ngăn chặn nhiễm trùng và loại bỏ các vi khuẩn ngoại bào. Trong miễn dịch qua trung gian tế bào, tế bào T hoạt hóa đại thực bào để tiêu diệt vi khuẩn đã bị ăn vào bên trong tế bào này hoặc tế bào T gây độc trực tiếp tiêu diệt tế bào đã bị nhiễm khuẩn.
Miễn dịch b ảo vệ chống lại một vi sinh vật có thể được tạo ra nhờ kích thích của vi sinh vật đó hoặc nhờ truyền kháng thể hoặc tế bào lymphô đặc hiệu từ bên ngoài vào (Hình 1.3). Cách thức tạo kháng thể qua kích thích trực tiếp với vật lạ được gọi là miễn dịch chủ động vì cá thể tiếp xúc với vật lạ đã đóng vai trò chủ động trong việc đáp ứng với kháng nguyên. Những cá thể hoặc tế bào lymphô chưa từng được tiếp xúc với một kháng nguyên nào đó được gọi là “nguyên vẹn” hay “nguyên” (naive). Còn những cá thể được tiếp xúc với một kháng nguyên vi sinh vật nào đó rồi và sau đó được bảo vệ chống lại những lần tiếp xúc khác được gọi là miễn nhiễm (immune).
Hình 1.3. Miễn dịch chủ động và thụ động
Miễn dịch chủ động được tạo ra khi cơ thể chủ tiếp xúc với vi sinh vật hoặc kháng nguyên vi sinh vật, trong khi đó miễn dịch thụ động được vay mượn nhờ truyền kháng thể hay tế bào lymphô T đặc hiệu. Cả hai loại đều tạo ra sức đề kháng đối với vi sinh vật nhưng chè có miễn dịch chủ động là có tính nhớ miễn dịch.
Người ta cũng có thể mang tính miễn dịch đến cho một cá thể bằng cách truyền huyết thanh hoặc t ế bào lymphô từ một cá thể khác đã được gây miễn dịch. Cách làm này được gọi là truyền miễn dịch thụ động, thường hay thực hiện trên động vật thí nghiệm. Cơ thể nhận sau đó sẽ có tính miễn dịch chống lại kháng nguyên tương ứng mặc dù chưa lần nào tiếp xúc với kháng nguyên này. Do đó kiểu miễn dịch này được gọi là miễn dịch thụ động. Gây miễn dịch thụ động là một phương pháp hữu ích để cung cấp sức đề kháng nhanh, không phải chờ cho đến khi miễn dịch chủ động xuất hiện. Một ví dụ của miễn dịch thụ động là truyền kháng thể từ mẹ sang con trong thời kỳ bào thai giúp cho đưa trẻ chống lại nhiễm trùng trong thời kỳ chờ đợi miễn dịch chủ động của trẻ hình thành. Người ta cũng đã dùng phương pháp miễn dịch thụ động để chống lại độc tố vi khuẩn gây chết người (ví dụ độc t ố uốn ván) bằng cách truyền kháng thể từ con vật đã được gây miễn dịch bởi vi sinh vật đó. Kỹ thuật truyền miễn dịch thụ động (hay còn gọi là tạo miễn dịch vay mượn) cũng có thể thực hiện với những tế bào và phân tử khác nhau miễn là chúng có năng lực miễn dịch đặc hiệu. Thật ra, thuật ngữ “miễn dịch dịch thể” (humoral immunity) ban đầu được định nghĩ a như một kiểu miễn dịch có thể truyền được sang cho con vật chưa nhiễm bằng chất dịch trong máu có chứa kháng thể và không có tế bào (tức là huy ết thanh hoặc huyết tương mà từ cổ gọi là thể dịch – humor). Cũng vậy, miễn dịch qua trung gian tế bào (cell-mediated immunity) được định nghĩa là một dạng miễn dịch có thể truyền sang cho cá thể chưa nhiễm dưới dạng tế bào (lymphô T) chứ không phải dịch thể.
Năm 1890, Emil von Behring và Shibasaburo Kitasato đã trình diễn thí nghiệm đầu tiên về miễn dịch dịch thể. Họ cho thấy rằng, nếu huyết thanh của con vật đã khỏi bệnh bạch hầu được truyền cho con vật chưa nhiễm thì con vật này sẽ có khả năng đề kháng đặc hiệu đối với bệnh bạch hầu. Thành phần hiệu lực trong huyết thanh lúc đó được gọi là kháng độc tố vì nó trung hoà tác dụng bệnh lý của độ c tố bạch hầu. Đầu những năm 1890, Karl Landsteiner và các nhà nghiên cứu khác chứng minh rằng không phải chỉ có độc tố mà những chất không có nguồn gốc vi sinh vật khác cũng có thể tạo ra đáp ứng miễn dịch dịch thể. Từ các thí nghiệm đó, người ta đã đưa ra một thuật ngữ mới là “kháng thể” (antibody) để chỉ thành phần protein huyết thanh tạo ra tính miễn dịch dịch thể. Những chất liên kết v ới kháng thể và tạo ra sự sản xuất kháng thể được gọi là “kháng nguyên” (antigen). Năm 1900, Paul Ehrlich đã đưa ra một lý thuyết mới về tính đặc hiệu của phản ứng kháng nguyên – kháng thể, mà những bằng chứng thực nghiệm cho lý thuyết này đã lần lượt được đưa ra trong suốt 50 năm kể từ khi có phát hiện của Lansteiner. Lý thuyết của Ehrlich về sự khớp nhau về mặt lý hoá của kháng nguyên và kháng thể rất có giá trị vào thời kỳ đầu của miễn dịch học. Sự nhấn mạnh về kháng thể trong lý thuyết này đã dẫn đến sự thừa nhận chung tầm quan trọng của miễn dịch dịch thể, miễn dịch được trung gian bởi những chất hiện diện trong các dịch cơ thể.
Lý thuyết tế bào về miễn dịch được Metchnikoff đưa ra. Trình diễn của ông v ề sự thực bào xảy ra xung quanh chiếc gai hồng được đâm vào cơ thể trong suốt của ấu trùng sao biển được xuất bản năm 1893. Đây có lẽ là bằng chứng thực nghiệm đầu tiên về vai trò đáp ứng tế bào đối với vật lạ xâm nhập vào cơ thể. Các quan sát của Sir Almroth Wright vào đầu những năm 1900 cho thấy rằng, trong huyết thanh miễn dịch có những y ếu tố thúc đẩy sự thực bào vi khuẩn bằng cách bọc xung quanh vi khuẩn, điều này làm người ta tin rằng kháng thể đã chu ẩn bị vi khu ẩn để thực bào dễ bắt giữ hơn, quá trình này được gọi là opsonin hoá. Những người theo trường phái tế bào này không chứng minh được rằng tính đặc hiệu của miễn dịch đối với vi sinh vật cũng thể hiện được qua miễn dịch tế bào. Lý thuyết tế bào trong miễn dịch đã được kh ẳng định vào những năm 1950, khi George Mackaness chứng tỏ rằng, sự đề kháng đối với một loài vi sinh vật nội bào, con Listeria monocytogenes, có thể vay mượn bằng cách truyền tế bào chứ không phải truyền huyết thanh. Chúng ta biết rằng tính đặc hiệu của miễn dịch tế bào là do lymphô, tế bào này có chức năng làm nhạc trưởng để điều khiển các tế bào khác như đại thực bào nhằm loại bỏ vi sinh vật.
Trên lâm sàng, tính miễn dịch đối với một vi sinh vật bị nhiễm trước đây có thể đo được một cách gián tiếp b ằng cách định lượ ng các sản phẩm của miễn dịch hiện diện trong cơ thể (ví dụ kháng thể đặc hiệu trong huyết thanh) hoặc chiết xuất các chất từ cơ thể vi sinh vật và đánh giá phản ứng của cơ thể đối với các chất này. Một phản ứng của cá thể đối với một kháng nguyên vi sinh vật nào đó chỉ xảy ra nếu trước đó cá thể đã tiếp xúc với kháng nguyên này rồi; khi đó cá thể được gọi là đã được “mẫn cảm” đối với kháng nguyên đó. Người ta cho rằng các cá thể được mẫn cảm có khả năng tạo ra đáp ứng miễn dịch bảo vệ đối với vi sinh vật đó.
Các đặc điểm chính của đáp ứng miễn dịch thu được
Tất cả đáp ứng dịch thể và tế bào đối với vật lạ có nhiều tính chất cơ bản phản ánh tính chất của tế bào lymphô làm trung gian cho phản ứng này (Bảng 1.3).
Bảng 1.3. Các đặc điểm chính của đáp ứng miễn dịch thu được
Đặc điểm
Ý nghĩa chức năng
Đặc hiệu
Đảm bảo các kháng nguyên khác nhau tạo ra đáp ứng đặc hiệu riêng cho chúng
Đa dạng
Cho phép hệ thống miễn dịch đáp ứng được nhiều loại kháng nguyên
Nhớ
Dẫn đến đáp ứng mạnh hơn đối với kháng nguyên đã từng tiếp xúc
Chuyên môn hoá
Tạo ra đáp ứng tối ưu chống lại nhiều loại vi sinh vật khác nhau
Tự giới hạn
Cho phép hệ thống miễn dịch đáp ứng được với các kháng nguyên mới xâm nhập
Không phản ứng với bản thân
Ngăn ngừa các tổn thương đối với cơ thể chủ trong suốt quá trình phản ứng với kháng nguyên lạ
Tính đặc hiệu và đa dạng
Đáp ứng miễn dịch đặc hiệu cho từng kháng nguyên khác nhau và cả ngay cho từng thành phần cấu trúc của kháng nguyên như protein, polysaccharide hoặc đại phân tử (Hình 1.4). Những thành phần này của kháng nguyên được gọi là quyết định kháng nguyên hay epitop. Tính đặc hiệu này có được là nhờ trên màng của các tế bào lymphô riêng lẻ có những thụ thể riêng để nhận diện những cấu trúc kháng nguyên khác nhau. Trong cơ thể được gây miễn dịch có nhiều clôn tế bào lymphô với tính đặc hiệu khác nhau tồn tại, chúng có thể nhận diện và đáp ứng lại tất cả kháng nguyên ngoại lai. Khái niệm này là nền tảng của lý thuyết chọn clôn mà chúng ta sẽ đề cập đến về sau này.
Hình 1.4. Tính đặc hiệu, nhớ, và tự giới hạn của đáp ứng miễn dịch
Kháng nguyên X và Y tạo ra sự sản xuất các kháng thể khác nhau (tính đặc hiệu). Đáp ứng lần thứ hai đối với kháng nguyên X thì nhanh hơn và mạnh hơn (nhớ). Mức độ kháng thể giảm dần theo thời gian sau mỗi lần gây miễn dịch (tự giới hạn). Người ta cũng thấy có hiện tượng tương tự thế này đối với miễn dịch tế bào.
Tổng số tính đặc hiệu của tế bào lymphô trong một cơ thể là một con số cực kỳ lớn và được gọi là kho lymphô (lymphocyte repertoire). Người ta ước tính rằng hệ thống miễn dịch của mộ t cá thể có thể phân biệt từ 107 đến 109 quyết định kháng nguyên khác nhau. Điều này tạo nên tính đa dạng của kho lymphô. Một hệ quả có thể thấy là các diện kết hợp kháng nguyên của kháng thể và th ụ thể kháng nguyên trên tế bào lymphô cũng có cấu trúc rất đa dạng tương ứng với kho lymphô này.
Nhớ miễn dịch
Sự tiếp xúc của hệ miễn dịch với kháng nguyên lạ làm tăng cường đáp ứng với kháng nguyên đó khi nó xâm nhập cơ thể các lần sau. Đáp ứng các lần lặp lại về sau đối với một kháng nguyên được gọi là đáp ứng miễn dịch thứ cấp. Đáp ứng này thường nhanh hơn, mạnh hơ n và khác về chất so với đáp ứng s ơ cấp khi cơ thể tiếp xúc kháng nguyên lần đầu tiên (xem Hình 1.4). Nhớ miễn dịch có được một phần là do cứ mỗi lần tiếp xúc với cơ thể thì kháng nguyên mở r ộng clôn lymphô đặc hiệu cho kháng nguyên đó. Đồng thời, sự kích thích tế bào lymphô nguyên vẹn của kháng nguyên tạo ra các tế bào nhớ tồn tại lâu dài. Tế bào nhớ có tính chất đặc biệt làm cho chúng loại bỏ kháng nguyên hiệu quả hơn so với tế bào lymphô nguyên vẹn. Ví dụ, tế bào lymphô B nhớ sản xuất kháng thể liên kết với kháng nguyên với ái lực mạnh hơn so v ới tế bào B chư a từng tiếp xúc với kháng nguyên đó. Tế bào T nhớ cũng có kh ả năng trở về nơi nhiễm trùng nhanh hơn tế bào T nguyên vẹn (tức chưa từng tiếp xúc kháng nguyên).
Chuyên môn hoá
Hệ thống miễn dịch đáp ứng một cách đặc biệt và khác nhau đối với từng vi sinh vật sao cho có thể tạo hiệu quả tối đa cho cơ chế đề kháng. Như vậy, miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào được hình thành một cách khác nhau dưới sự kích thích của những loại vi sinh vật khác nhau hoặc các giai đoạn nhiễm trùng khác nhau (ngoại bào và nội bào) của một vi sinh vật để bảo vệ cơ thể chủ chống lại loại vi sinh vật đó vào giai đoạn nhiễm trùng đó. Và ngay trong từng kiểu miễn dịch dịch thể hay tế bào thì bản chất của kháng thể hay tế bào T được tạo ra cũng khác nhau tùy loại vi sinh vật kích thích.
Tự giới hạn
Tất cả đáp ứng miễn dịch bình thường sẽ phai nhạt dần theo thời gian để trả lại hệ miễn dịch ở trạng thái nghỉ ban đầu, tình trạng này gọi là hằng định nội môi (homeostasis). Tình trạng cân bằng dịch thể được duy trì chủ yếu là vì đáp ứng miễn dịch được khởi động bởi kháng nguyên và nhắm đến loại trừ kháng nguyên, và như vậy tức là loại trừ nguyên nhân gây hoạt hoá tế bào lymphô. Ngoài ra, kháng nguyên và đáp ứng miễn dịch còn kích thích cơ chế điều hoà nhằm ức chế chính đáp ứng này.
Không phản ứng với bản thân
Một trong những tính chất quan trọng của hệ miễn dịch của người bình thường là khả năng nhận biết, đáp ứng và loại bỏ kháng nguyên lạ (không phải của bản thân) và không phản ứng lại để gây hại cho cơ thể (bản thân). Tính chất không đáp ứng miễn dịch này còn được gọi là dung nạp. Dung nạp đối với kháng nguyên bản thân, tức tự dung nạp, được duy trì bởi nhiều cơ chế. Những cơ chế này bao gồm loại bỏ tế bào lymphô có mang thụ thể đặc hiệu cho kháng nguyên bản thân và cho phép tế bào lymphô tiêu diệt các kháng nguyên tự thân có khả năng tạo ra phản ứng chống lại bản thân. Những bất thường về khả năng tự dung nạp có thể dẫn đến đáp ứng miễn dịch đối với kháng nguyên bản thân (tự kháng nguyên) và hình thành các bệnh tự miễn.
Các thành phần tế bào của hệ thống miễn dịch thu được
Sự khởi động và phát triển đáp ứng miễn dịch thu được bao giờ cũng đòi hỏi kháng nguyên phải được bắt giữ và trình diện cho tế bào lymphô. Tế bào chịu trách nhiệm làm việc này được gọi là tế bào trình diện kháng nguyên (APC). Tế bào trình diện kháng nguyên được chuyên môn hoá cao nhất là tế bào hình sao (dendritic), chúng bắt giữ những vi sinh vật từ bên ngoài xâm nhập vào, vận chuyển những kháng nguyên này đến các cơ quan lymphô và trình diện kháng nguyên cho những tế bào T để khởi động đáp ứng miễn dịch.
Sự hoạt hoá tế bào lymphô bởi kháng nguyên dẫn đến sự hình thành nhiều cơ chế loại bỏ kháng nguyên. Sự loại bỏ kháng nguyên đòi hỏi sự tham gia của những tế bào gọi là tế bào hiệu quả. Tế bào lymphô hoạt hoá, thực bào đơn nhân, và một số bạch cầu khác có thể làm chức năng tế bào hiệu quả trong những đáp ứng miễn dịch khác nhau.
Tế bào lymphô và những tế bào hỗ trợ của hệ miễn dịch được tập trung tại các cơ quan lymphô; ở đó chúng tương tác với nhau để tạo ra đáp ứng miễn dịch. Tế bào lymphô cũng hiện diện trong máu. Từ máu chúng có thể theo máu tuần hoàn đến các mô lymphô và các vị trí ngoại biên nơi kháng nguyên thường xâm nhập để loại trừ chúng.
Hình 1.5. Các tiểu quần thể lymphô bào
Lymphô bào B nhận diện kháng nguyên hoà tan và phát triển thành tế bào tiết kháng thể. Lymphô bào T giúp đỡ nhận diện kháng nguyên trên bề mặt của tế bào trình diện kháng nguyên và tiết ra cytokin để kích thích các cơ chế của phản ứng miễn dịch và viêm. Lymphô bào T gây độc nhận diện kháng nguyên trên tế bào nhiễm trùng và giết những tế bào này. Tế bào NK (giết tự nhiên) dùng những thụ thể (chưa được xác định đựợc hoàn toàn) để nhận diện và giết tế bào đích, ví dụ tế bào nhiễm trùng.
Các giai đoạn của đáp ứng miễn dịch thu được
Quá trình đáp ứng miễn dịch thu được có thể chia thành nhiều giai đoạn khác nhau: nhận diện kháng nguyên, hoạt hoá tế bào lymphô, và giai đoạn hiệu quả (loại trừ kháng nguyên). Sau đó là sự trở lại hằng định n ội môi và duy trì tính nhớ miễn dịch (Hình 1.6). Tất cả đáp ứng miễn dịch đều được khởi đầu bằng nhận diện kháng nguyên đặc hiệu. Sự nhận diện này dẫn đến hoạt hoá tế bào lymphô và sau đó là hình thành các cơ chế hiệu quả để làm chức năng loại bỏ kháng nguyên. Sau khi kháng nguyên được loại bỏ, đáp ứng miễn dịch dịu đi và trở lại tình trạng hằng định nội môi.
Hình 1.6. Các giai đoạn của đáp ứng miễn dịch thu được
Ba giai đoạn đầu có tên là nhận diện kháng nguyên, hoạt hoá tế bào lymphô và hiệu quả (loại bỏ kháng nguyên). Đáp ứng tắt dần và các tế bào lymphô được kháng nguyên kích thích sẽ chết dần do hiện tượng chết lập trình (apoptosis), những tế bào đặc hiệu kháng nguyên còn lại là tế bào nhớ. Thời gian của mỗi giai đoạn thay đổi tuỳ theo bối cảnh đáp ứng. Trục y tượng trưng cho cường độ của đáp ứng. Mô hình này áp dụng cho cả miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào.
Nhận diện kháng nguyên
Mỗi cá thể sở hữu một lượng tế bào lymphô với rất nhiều clôn khác nhau. Mỗi clôn mang sẵn những yếu tố để nhận diện và đáp ứng v ới một quy ết định kháng nguyên nhất định. Khi kháng nguyên xâm nhập cơ thể nó tìm đến clôn lymphô tương ứng và hoạt hoá nó (Hình 1.7). Quan niệm cơ bản này được gọi là thuyết chọn clôn (clonal selection hypothesis), lần đầu tiên được Niels Jerne đưa ra vào năm 1955 và được Macfarlane Burnet làm sáng tỏ vào năm 1957. Đây là giả thuyết giải thích tại sao hệ thống miễn dịch lại có thể đáp ứng với một số lượng rất l ớn các loại kháng nguyên khác nhau. Theo giả thuyết này, các clôn lymphô đặc hiệu kháng nguyên đã có sẵn trong cơ thể trước khi tiếp xúc với kháng nguyên. Những tế bào trong cùng clôn mang thụ thể kháng nguyên giống hệt nhau và khác với tế bào của clôn khác. Mặc dù rất khó để xác định giới hạn trên của s ố lượng quyết định kháng nguyên mà hệ miễn dịch của một cá thể động vật có vú có thể nhận diện được, nhưng người ta thường cho rằng con số này là vào khoảng từ 107 đến 109. Đây là con số ước lượng hợp lý đối với số lượng protein thụ thể kháng nguyên được sản xuất và do đó người ta cho rằng số lượng clôn tế bào lymphô hiện diện trong cơ thể cũng như thế. Kháng nguyên lạ sẽ tương tác với clôn tế bào lymphô đặc hiệu cho kháng nguyên đó tồn tại sẵn trong mô lymphô để tạo ra đáp ứng miễn dịch.
Hình 1.7. Thuyết chọn clôn
Mỗi kháng nguyên (x hoặc y) chọn một clôn lymphô đặc hiệu đã có sẵn và kích thích sự tăng sinh, biệt hoá của clôn đó. Sơ đồ này chỉ trình bày quá trình lymphô B phát triển thành tế bào hiệu quả và tiết ra kháng thể, nhưng nguyên lý này cũng áp dụng cho cả tế bào T.
Những nguyên lý cơ bản của thuyết chọn clôn đã dần được chứng minh một cách thuyết phục qua nhiều thí nghiệm và tạo nên nền tảng cho quan niệm hiện nay về sự nhận diện kháng nguyên của tế bào lymphô đặc hiệu.
Hoạt hoá tế bào lymphô
Sự hoạt hoá tế bào lymphô đòi hỏi 2 tín hiệu khác nhau: tín hiệu thứ nhất là kháng nguyên và tín hiệu thứ hai là các sản phẩm vi sinh vật hoặc là các thành phần của đáp ứng miễn dịch bẩm sinh đối v ới vi sinh vật (Hình 1.8). Ý tưởng này được gọi là thuyết hai tín hiệu đối với sự hoạt hoá lymphô bào. Yêu cầu về kháng nguyên (tức tín hiệu 1) nhằm đảm bả o tính đặc hiệu của đáp ứng miễn dịch. Còn yêu cầu về kích thích phụ do sản phẩm vi khuẩn hoặc của đáp ứng bẩm sinh đối với vi khuẩn nhằm đảm bảo phản ứng chỉ được tạo ra khi cần thiết (tức để chống vi khuẩn hoặc chất có hại khác) chứ không chống lại các chất vô hại bao gồm kháng nguyên bản thân.
Hình 1.8. Yêu cầu hai tín hiệu đối với hoạt hoá lymphô bào
Sự nhận diện kháng nguyên của lymphô bào cung cấp tín hiệu 1 cho sự hoạt hoá, và các thành phần của vi sinh vật hoặc các chất tạo ra trong quá trình đáp ứng miễn dịch bẩm sinh cung c ấp tín hiệu 2. Trong hình này, tế bào lymphô là tế bào B, nhưng đối với tế bào T cũng có nguyên lý như vây.
Đáp ứng của lymphô bào đối với kháng nguyên và tín hiệu thứ hai bao gồm sự tổng hợp các protein mới, tăng sinh tế bào, và biệt hoá thành tế bào hiệu quả và tế bào nhớ.
Giai đoạn hiệu quả của đáp ứng miễn dịch: loại bỏ kháng nguyên
Trong suốt giai đoạn hiệu quả của đáp ứng miễn dịch, các lymphô bào đã được kháng nguyên hoạt hoá sẽ tạo ra những chức năng hiệu quả để tiến đến việc loại bỏ kháng nguyên. Kháng thể loại bỏ kháng nguyên ngoại bào và tế bào T loại bỏ kháng nguyên nội bào. Chức năng này của kháng thể và tế bào T thường yêu cầu sự tham gia của các tế bào hiệu quả khác không thuộc hệ lymphô và cả cơ chế đề kháng của miễn dịch bẩm sinh. Như vậy, cũng những cơ chế miễn dịch bẩm sinh đó hoạt động như phòng tuyến đầu tiên nhưng về sau lại còn tham gia vào phòng tuyến thứ hai của miễn dịch thu được để loại bỏ kháng nguyên ra khỏi cơ thể. Thật ra, như đã nói ở trên, một chức năng quan trọng của đáp ứng miễn dịch thu được là nhằm tăng cường cơ chế hiệu quả của miễn dịch bẩm sinh và hướng những cơ chế hiệu quả này vào các mô hoặc tế bào chứa kháng nguyên lạ.
Tính hằng định nội môi: giảm dần đáp ứng miễn dịch
Vào cuối đáp ứng miễn dịch, hệ thống miễn dịch trở lại trạng thái nghỉ cơ bản do phần lớn các tế bào tiền thân (progeny) của lymphô bị kháng nguyên kích thích đã chết do hiện tượng chết lập trình (apoptosis). Chết lập trình là một dạng chết sinh lý được chuẩn bị trước, trong đó nhân tế bào bị đặc lại và vỡ ra từng mảnh, màng bào tương nổi bọt, không còn sự tách biệt của lớp lipid màng và tế bào chết nhanh chóng bị thực bào mà các chất nội bào không cần bị giải phóng ra ngoài (quá trình chết này ngược với kiểu chết hoại tử, trong đó nhân và màng bào tương bị phân giải và các chất nội bào bị vỡ ra ngoài tạo ra một phản ứng viêm tại chỗ). Một lượng lớn tế bào lymphô đã bị kháng nguyên kích thích sẽ chết đi theo kiểu lập trình. Giải thích điều này, người ta cho rằng có lẽ do sự tồn tại của lymphô bào phụ thuộc vào kháng nguyên và các yếu tố phát triển do kháng nguyên khởi động nên khi đáp ứng miễn dịch loại bỏ hết kháng nguyên thì tế bào lymphô không còn nhận được những kích thích cần thiết cho sự sống.
Các Bước Nghiên Cứu Xã Hội Học Thực Nghiệm Vận Dụng Trong Nghiên Cứu Truyền Thông Đại Chúng Và Công Chúng « Thành
Nguồn:https://persephone247.wordpress.com/2015/07/10/cac-buoc-nghien-cuu-xa-hoi-hoc-thuc-nghiem-van-dung-trong-nghien-cuu-truyen-thong-dai-chung-va-cong-chung/
Những vấn đề của truyền thông đại chúng và công chúng là đối tượng nghiên cứu quan trọng của lĩnh vực xã hội học truyền thông đại chúng. Hoạt động của hệ thống truyền thông đại chúng luôn chịu sự tác động từ hai phía, phía thứ nhất là các thiết chế xã hội mà phương tiện đó là công cụ và phía thứ hai là công chúng. Bài viết này nhằm bước đầu tìm hiểu và xác lập một số bước cơ bản trong nghiên cứu xã hội học thực nghiệm vận dụng cho nghiên cứu truyền thông đại chúng và công chúng – lĩnh vực nghiên cứu được nhiều người quan tâm. Từ đó người viết mạnh dạn đề xuất một số hướng để thực hiện nghiên cứu xã hội học truyền thông đại chúng ở Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay.
MỞ ĐẦU
Trong vài thập niên gần đây, truyền thông đại chúng đem đến những vai trò to lớn trong xã hội hiện đại. Cùng với sự phát triển vượt bậc về mặt kỹ thuật- công nghệ, các phương tiện truyền thông đại chúng ngày càng truyền tải thông tin một cách rộng rãi, nhanh chóng kịp thời và thể hiện những ưu thế nổi trội trong quá trình tương tác với công chúng. Truyền thông đại chúng là một trong ba loại quá trình truyền thông xét theo quy mô và tính chất của một bên là phát và truyền tin với một bên là nhận và phản hồi thông tin. Thuật ngữ “truyền thông đại chúng” hay “công chúng” ngày nay thường được nhắc đến một cách rộng rãi, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu từ các ngành khoa học khác nhau trong đó có xã hội học.
Tiếp cận truyền thông đại chúng từ góc độ xã hội học là một trong những lĩnh vực quan trọng trong nghiên cứu truyền thông hiện nay. Trong khả năng hạn hẹp, người viết mong muốn bước đầu xác lập một số khái niệm, các bước nghiên cứu thực nghiệm cơ bản ở lĩnh vực này. Từ việc cố gắng xác lập một số lý thuyết về các bước nghiên cứu xã hội học thực nghiệm, người viết sẽ tiến hành vận dụng cho nghiên cứu về truyền thông đại chúng và công chúng, từ đó đề xuất một số hướng nghiên cứu về truyền thông đại chúng trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay.
CÁC BƯỚC CƠ BẢN TRONG NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC THỰC NGHIỆM
Trong xã hội học, tri thức thực nghiệm được thực hiện bằng các cuộc điều tra thực tế. Đó là phương tiện chủ yếu để thu thập các tài liệu cần thiết cho sự phân tích lý luận về mọi biểu hiện phức tạp của đời sống, nhằm đề xuất và hoàn thiện những quyết định, quản lý các quá trình xã hội.
Tài liệu do các cuộc điều tra xã hội học thực nghiệm thu được không phải là những tài liệu tùy tiện. Nó bám sát yêu cầu của xã hội học với tính cách một ngành khoa học, nghĩa là nó phù hợp với một trình độ nhất định của lý luận xã hội học chung và với lý luận xã hội học chuyên ngành.
Để đạt được kết quả nghiên cứu chính xác, hiệu quả cao, người nghiên cứu phải trải qua 4 bước cơ bản khi tiến hành nghiên cứu xã hội học thực nghiệm [1].
Để xác định mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu phải làm rõ các nhóm vấn đề cần nghiên cứu. Bước này tiến hành như sau: Tìm hiểu tư liệu, xem xét những kết quả đã thu được trong lĩnh vực cần nghiên cứu. Người nghiên cứu không chỉ tìm hiểu những vấn đề này trên khía cạnh kinh nghiệm mà còn phải tiếp cận vấn đề theo một hệ thống nhất định. Đây là bước nghiên cứu có tính chất khoa học. Người nghiên cứu cần coi trọng việc trao đổi ý kiến với những người làm công tác thực tế để có những nhận định ban đầu về hiện trạng của vấn đề. Sau khi tìm hiểu các nhóm vấn đề cụ thể thì mới hình thành hệ thống các vấn đề cần nghiên cứu, qua đó giúp nhà xã hội học phát huy khả năng sáng tạo của mình. Nếu vấn đề đặt ra có nhiều khía cạnh thì phải phân loại ra thành những vấn đề chính phụ. Làm tốt việc phân loại sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho xử lý kết quả.
Bước thứ hai, khi tiến hành nghiên cứu xã hội học thực nghiệm cần phân biệt đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu. Khách thể là các lĩnh vực xã hội trong đó diễn ra các hoạt động xã hội, có thể là những hiện tượng xã hội hay một bộ phận cấu thành các quan hệ xã hội trong toàn bộ xã hội. Trong nghiên cứu có thể đề cập đến một tập hợp cá thể chính là khách thể nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu có thể là một trong nhiều yếu tố của khách thể. Tính chất của khách thể đặt ra những vấn đề mà các nghiên cứu thực nghiệm xã hội học dựa trên cơ sở lý thuyết xã hội học cần giải quyết, đó chính là tên đề tài cần nghiên cứu. Nhiệm vụ của nghiên cứu trả lời cho câu hỏi: nghiên cứu vì mục đích gì. Mục đích của đối tượng được triển khai ở những nhiệm vụ cụ thể là những khía cạnh, những biểu hiện trong khách thể nghiên cứu.
Từ việc xác định nhiệm vụ mục đích nghiên cứu, sẽ tiến hành xây dựng giả thuyết nghiên cứu. Giả thuyết nghiên cứu là những dự định hay tình huống mà ta sẽ đối chiếu vào việc nghiên cứu. Giả thuyết cho ta một khái niệm tương đối hoàn chỉnh về các hiện tượng của những vấn đề xã hội cũng như những khách thể cần nghiên cứu, hoặc cho ta những ý niệm về thực tiễn, về xu hướng phát triển có tính chất quy luật của khách thể. Giả thuyết được xây dựng nên bằng kiến thức lý luận và thực tiễn kết hợp với khả năng suy đoán của nhà nghiên cứu. Yêu cầu căn bản là sau khi nghiên cứu xong phải xem giả thiết nghiên cứu có đúng không, có nghĩa là giả thiết có tương đối hoàn chỉnh về cơ bản có phù hợp một phần hay không phù hợp với nghiên cứu thực tế thu được.
Sau khi xây dựng giả thiết nghiên cứu thì ta tiến hành xây dựng mô hình nghiên cứu. Mô hình lý thuyết là một hệ thống có kết cấu đồng nhất với kết cấu của khách thể nghiên cứu. Có nhiều loại mô hình lý thuyết như: mô hình tiếng, mô hình thể hiện bằng hình vẽ, mô hình thể hiện bằng bảng, mô hình bằng đồ thị hay mô hình thể hiện bằng thống kê toán. Ví dụ, đối với nghiên cứu xã hội học thực nghiệm cho truyền thông đại chúng và công chúng, ta cần đọc kỹ lý thuyết về mô hình truyền thông ; lý thuyết xã hội học truyền thông đại chúng cùng với các hệ thống khác trong lý thuyết nghiên cứu và cụ thể hóa nó xét trên thực tế.
Sau khi xác định mô hình lý thuyết thì tiến hành định nghĩa các khái niệm nghiên cứu. Các khái niệm nghiên cứu chính là sự cụ thể hóa các tính chất trọng tâm của lý thuyết.
Bước thứ ba đó là bước tiến hành định nghĩa các khái niệm, thao tác hóa các khái niệm. Sau khi trình bày các khái niệm người nghiên cứu phải làm thao tác các khái niệm. Cách làm này gọi là thao tác hóa các khái niệm thành chỉ báo để đo lường trong nghiên cứu xã hội học thực nghiệm về truyền thông đại chúng. Trong điều tra công chúng, thao tác hóa các khái niệm thành chỉ báo chính là bước đầu tiên để điều tra công chúng.
Bước thứ tư, sau khi thao tác hóa các khái niệm ta tiếp tục lựa chọn phương pháp nghiên cứu. Việc lựa chọn các phương pháp nghiên cứu sau khi trình bày các sơ đồ lý thuyết và các khái niệm nghĩa là các phương pháp nghiên cứu phải phù hợp với những nội dung lý thuyết đặt ra. Có nhiều phương pháp nghiên cứu như: nghiên cứu định lượng (được thực hiện bằng bảng hỏi), nghiên cứu định tính (thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn sâu, phỏng vấn nhóm, phân tích văn bản, phương pháp quan sát…)
VẬN DỤNG CHO NGHIÊN CỨU TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG VÀ CÔNG CHÚNG
3.1. Lịch sử nghiên cứu truyền thông đại chúng
Việc nghiên cứu về lĩnh vực truyền thông đại chúng đã nhận được sự quan tâm của các nhà khoa học xã hội, đặc biệt là các nhà xã hội học trên thế giới. Các công trình nghiên cứu về truyền thông đại chúng đã được bắt đầu tiến hành từ đầu thế kỷ XX, với cột mốc đáng quan tâm là những chiến dịch tuyên truyền của Hitler trên các phương tiện truyền thông đại chúng từ năm 1933 trở đi [2] . Còn trong công trình “Bùng nổ truyền thông – sự ra đời một ý thức hệ mới”, các tác giả đã nhận định rằng “trong thập kỷ 40 các kỹ thuật truyền thông lại chịu một ngọn roi quất mạnh để chúng chồm lên, khiến cho người ta có thể nói đến một sự bùng nổ thật sự của truyền thông.”[3]
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về truyền thông đại chúng và công chúng từ những năm 1930 đến nay bởi nhiều ngành khoa học xã hội. Ở lĩnh vực xã hội học, truyền thông đại chúng được nghiên cứu như một quá trình xã hội, làm sáng tỏ mối liên hệ giữa truyền thông đại chúng và xã hội. Silbermann cho rằng, xã hội học về truyền thông đại chúng là bộ môn chuyên phân tích về hiện tượng truyền thông đại chúng và ý nghĩa của truyền thông đại chúng đối với cuộc sống của xã hội [4].
Các lĩnh vực nghiên cứu truyền thông trên thế giới gắn với các quan điểm nghiên cứu khác nhau qua bốn giai đoạn chính.[5]
Giai đoạn một bắt đầu từ thế kỷ XX đến cuối thập niên 30 của thế kỉ trước. Vào giai đoạn này những người thuộc trường phái Frankfurt của Đức cho rằng truyền thông đại chúng đặc biệt ở Mỹ đã biến các cá nhân thành những khối đại chúng, làm tan rã những khối xã hội truyền thống. Lập luận của Frankfurt là họ tiêu xài xã hội như thế nào thì sản phẩm xã hội như thế. Câu hỏi lớn được đặt ra cho giới nghiên cứu lúc bấy giờ là vai trò và tầm quan trọng của truyền thông đại chúng đối với xã hội. Nhiều nhà nghiên cứu trong giai đoạn này thực hiện các nghiên cứu thực nghiệm để chứng minh khả năng tác động trực tiếp của truyền thông đến công chúng (Laswell, 1927; Hovland et. al., 1953). Hiệu ứng của truyền thông trong giai đoạn này được xem như “mũi kim tiêm” hoặc “viên đạn thần kỳ”, nghĩa là có sức mạnh vạn năng trong việc tác động đến nhận thức và hành vi của khán thính giả. Người ta có một cái nhìn bi quan về truyền thông đại chúng vì các phương tiện này tạo nên một xã hội giống nhau đặc biệt ở đô thị và công nghiệp.
Giai đoạn thứ hai từ năm 40 đến 60 của thế kỉ trước, người ta đưa ra những đánh giá bớt bi quan hơn về truyền thông đại chúng. Người ta cho rằng truyền thông địa chúng ít tác dụng trong các cuộc vận động cử tri, và truyền thông đại chúng không tác dụng hoàn toàn theo “mũi kim tiêm” mà tác động gián tiếp thông qua nhiều bước trung gian trong đó bước trung gian đóng vai trò là máy lọc hay những người hướng dẫn dư luận.
Giai đoạn ba từ những năm 60 của thế kỉ XIX cho đến hết thế kỉ XX, người ta không chỉ nghiên cứu công chúng mà còn mở rộng sang phân tích thông điệp, phân tích quá trình truyền thông, nghiên cứu bản thân các nhà truyền thông như nguồn gốc xã hội của các nhà truyền thông, tính chất xã hội của các nhà truyền thông. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu truyền thông trong thế kỷ XX cũng quan tâm đến việc tìm hiểu hoạt động của các hãng truyền thông nói riêng và ngành công nghiệp truyền thông nói chung. Theo McDowell (2005), những nghiên cứu này bao gồm nghiên cứu về ngành công nghiệp âm nhạc (Burnett, 1996; Negus, 1999), ngành công nghiệp truyền hình (Gershon, 1997; Sinclair, Jacka & Cunningham, 1996), ngành công nghiệp phim ảnh (Hoskin, McFayden, Finn, 1997; Wasko, 1994), viễn thông (Mansell, 1993).
Giai đoạn thứ 4 bắt đầu từ đầu thế kỉ XXI cho đến nay với sự xuất hiện của internet, truyền thông không còn là vấn đề của từng địa phương mà trở thành một trong các yếu tố quan trọng của quá trình toàn cầu hóa. Sự tiến bộ của công nghệ điện tử đã tạo cho thế giới một ngôi nhà chung, các kênh truyền, mạng xã hội tạo nên một cuộc cách mạng về thông tin báo chí – một không gian báo chí mà trước đó chưa bao giờ có. Bản thân quá trình toàn cầu hóa cũng tác động một cách sâu rộng đến truyền thông. Cùng với những công nghệ mới, nhiều học giả đưa ra giả thiết truyền thông tự sẽ tự quản lý chính mình chứ không còn chịu sự chi phối của luật pháp từng quốc gia nữa. Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu về truyền thông đề xuất đầu tư nhiều hơn cho hạ tầng kiến trúc của công nghệ nhằm phát triển thông tin vì cả lợi ích kinh tế lẫn xã hội. Đến cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, truyền thông đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động mang tính toàn cầu như vận động dân chủ, nhân quyền, bảo vệ môi trường, sức khỏe người lao động, an toàn hạt nhân, ứng dụng kỹ thuật công nghệ truyền thông mới…
Ở Việt Nam, tình hình nghiên cứu về truyền thông của các nhà xã hội học, trong đó có thể kể đến các nghiên cứu về xã hội học truyền thông của tác giả Mai Quỳnh Nam như: Đề tài NCKH 2006 – Mối quan hệ giữa truyền thông đại chúng và công chúng trong điều kiện hiện nay, Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội, Tạp chí XHH số 1, 1996, Về vấn đề nghiên cứu hiệu quả của truyền thông đại chúng, tạp chí XHH số 4 năm 2001, Báo thiếu nhi dân tộc và công chúng thiếu nhi dân tộc, tạp chí XHH số 4 năm 2002, Truyền thông và phát triển nông thôn,Tạp chí XHH số 4 năm 2003…; các công trình của tác giả Trần Hữu Quang như: Chân dung công chúng truyền thông (qua khảo sát xã hội học tại TPHCM), 2001; Xã hội học báo chí, 2006.
Quá trình truyền thông đại chúng là một quá trình xã hội đặc thù bao gồm ba thành tố là: Hoạt động truyền thông; các nhà truyền thông; và công chúng độc giả hoặc khán thính giả. Chính ba thành tố này cũng trở thành đối tượng và khách thể nghiên cứu nói chung cho các ngành khoa học nghiên cứu về lĩnh vực truyền thông. Tuy nhiên, ngành xã hội học ở Việt Nam đã có những bước tiến khi xác lập những lĩnh vực nghiên cứu chính của bộ môn xã hội học truyền thông đại chúng bao gồm ba nội dung trên và thêm nội dung thứ tư là nghiên cứu về các tác động xã hội của truyền thông đại chúng.[6]
3.2. Vận dụng nghiên cứu xã hội học thực nghiệm cho truyền thông đại chúng và công chúng
Xã hội học truyền thông đại chúng được nghiên cứu như một quá trình xã hội. Các phương tiện truyền thông đại chúng được phân tích như một thiết chế xã hội. Nhiệm vụ của ngành xã hội học là làm sáng tỏ mối liên hệ giữa truyền thông đại chúng và xã hội (tác động của truyền thông đại chúng với xã hội như thế nào và ngược lại).
Những đối tượng nghiên cứu của xã hội học truyền thông đại chúng bao gồm:
Nghiên cứu các tổ chức và các nhà truyền thông
Phân tích nội dung các thông điệp truyền thông
Nghiên cứu công chúng
Nghiên cứu tác động xã hội của truyền thông đại chúng (truyền thông đại chúng và dư luận xã hội; truyền thông đại chúng và xã hội hóa cá nhân)
Thứ nhất, nghiên cứu về các nhà truyền thông cũng là một đối tượng của xã hội học truyền thông đại chúng. Đối tượng này gồm 4 nhóm: những người lãnh đạo, quản lý, điều hành; những người sáng tạo; nhà báo; các kỹ thuật viên. Thực ra thì phần lớn các công trình điều tra thực nghiệm trong lĩnh vực này đều được tiến hành ở giới nhà báo (kể cả báo in lẫn truyền hình và phát thanh), vì nhóm này chính là đội ngũ nòng cốt trong hoạt động thông tin đại chúng.
Trong lịch sử nghiên cứu xã hội học về giới truyền thông, lúc đầu người ta tập trung khái niệm các nhà truyền thông, về những đặc điểm cá nhân và xã hội của họ. Song về sau, trên cơ sở nhận thức rằng hoạt động truyền thông đại chúng là lao động tập thể cho nên người ta chưa nghĩ đến cơ cấu xã hội vốn là yếu tố bao trùm lên lĩnh vực truyền thông.
Có ba hướng chính để nghiên cứu người làm truyền thông. Đó là: nguồn gốc xã hội, nguồn gốc đào tạo; sản phẩm truyền thông đại chúng là kết quả của lao động tập thể cho nên ngừơi nghiên cứu vừa phân tích hoạt động của cá nhân trong tập thể và tác động của tập thể với cá nhân trong truyền thông đại chúng; nghiên cứu tính chất của lao động trong hoạt động truyền thông, cơ cấu tổ chức của hoạt động truyền thông.
Thứ hai, về lĩnh vực nghiên cứu về nội dung truyền thông, đó là hoạt động nghiên cứu tất cả những thông điệp (văn tự hay phi văn tự) xuất hiện trên truyền thông đại chúng. Nghiên cứu nội dung truyền thông là một hướng rất bổ ích cho thấy nhiều mặt của đời sống xã hội và cả sự biến đổi của xã hội vào từng thời kỳ nhất định. Việc nghiên cứu nội dung truyền thông được thực hiện bằng phương pháp phân tích nội dung. Phương pháp này được thực hiện theo hướng định lượng hoặc định tính hoặc kết hợp cả hai cách. Người nghiên cứu phân biết rõ phương pháp phân tích nội dung thực nghiệm và phương pháp phân tích nội dung tín hiệu học. Mục đích của việc phân tích nội dung của một văn bản nào đó là nhằm tìm hiểu sâu xa hơn về động cơ, ý định của tác giả trong thông điệp của họ mang tới cho công chúng, có nghĩa là người nghiên cứu cần định lượng hóa các chỉ tiêu trong văn bản (trên giấy in, những thước phim truyền hình, những ảnh trên báo chí…). Để làm được những định lượng hóa, người nghiên cứu cần xác định được hệ thống khái niệm và từ khóa rồi lấy đó làm cơ sở cho việc phân tích nói trên. Việc phân tích nội dung cần dựa theo những nguyên tắc chính xác, xác định rõ khái niệm để bảo đảm rằng những nhà nghiên cứu khác nhau tiến hành phân tích nội dung một loại thông điệp giống nhau trong một thời gian cùng xuất hiện trong một kênh nào đó mang đến những kết quả giống nhau.
Phân tích nội dung được áp dụng rộng rãi trên các kênh của truyền thông đại chúng, tất nhiên việc áp dụng phương pháp này trên các kênh cần dựa trên sự nhận thức với đặc điểm của từng kênh tức là cách cung cấp thông điệp trên từng kênh cụ thể. Vì vậy đặc điểm của từng kênh được trở thành dấu hiệu căn bản cho sự phân tích.
Thứ ba, về nghiên cứu công chúng truyền thông. Ở Việt Nam hiện nay, các hướng nghiên cứu thường tập trung ở nghiên cứu công chúng, ảnh hưởng xã hội của truyền thông đại chúng đến công chúng. Nghiên cứu công chúng là lĩnh vực cơ bản, xuyên suốt trong quá trình phát triển của xã hội học truyền thông đại chúng trong 4 giai đoạn nghiên cứu truyền thông đại chúng.
Bước tiếp theo, khi tiến hành nghiên cứu xã hội học thực nghiệm cần phân biệt đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu. Khách thể nghiên cứu ở đây chính là tập hợp công chúng nói chung, và đối tượng nghiên cứu có thể là một trong nhiều yếu tố của công chúng (như hành vi, cách thức tiếp nhận…) của công chúng.
Sau khi xây dựng giả thiết nghiên cứu thì ta tiến hành xây dựng mô hình nghiên cứu. Đối với nghiên cứu xã hội học thực nghiệm cho truyền thông đại chúng và công chúng, ta cần đọc kỹ lý thuyết về mô hình truyền thông; lý thuyết xã hội học truyền thông đại chúng; lý thuyết về công chúng truyền thông cùng với các hệ thống khác trong lý thuyết nghiên cứu và cụ thể hóa nó xét trên thực tế.
Sau khi xác định mô hình lý thuyết thì tiến hành định nghĩa các khái niệm, thao tác hóa các khái niệm trở thành chỉ báo để đo lường trong nghiên cứu xã hội học thực nghiệm về truyền thông đại chúng. Với điều tra công chúng, thao tác hóa các khái niệm thành chỉ báo chính là bước đầu tiên để điều tra công chúng.
Chúng ta cần coi công chúng như một tập hợp xã hội rộng lớn được tạo thành bởi nhiều giới, nhiều tầng lớp xã hội khác nhau đang sống trong những quan hệ xã hội nhất định, tức là đặt họ trong bối cảnh xã hội, trong các điều kiện sống cũng như trong mối quan hệ cụ thể của họ. Người nghiên cứu cần nhấn mạnh nhiều đến bối cảnh xã hội của công chúng trong quá trình truyền thông đại chúng, dù nhận thấy rằng phần lớn công chúng là nặc danh trong mắt các nhà truyền thông nhưng các nhà truyền thông và các nhà nghiên cứu lại cố gắng chỉ ra các đặc điểm chung trong các hoạt động giao tiếp đại chúng của họ, có nghĩa là những người cùng chung một bối cảnh xã hội, có chung những điều kiện của bối cảnh xã hội, các giá trị và các chuẩn mực chung và các tương đồng xã hội khác như: giới tính; độ tuổi; học vấn; điều kiện gia đình… thì vẫn có những đặc điểm chung trong giao tiếp.
Những dấu hiệu đầu tiên để điều tra công chúng là các đặc điểm khái niệm nhân khẩu xã hội (giới tính, văn hóa, điều kiện xã đình, trình độ học vấn, việc làm, nghề nghiệp, thị hiếu, quan hệ xã hội của công chúng).
Sau đó người nghiên cứu tiến hành khảo sát cách thức đọc báo, nghe đài, xem truyền hình của công chúng, tìm những phản ứng, ý kiến thái độ của họ đối với các kênh, chuyên mục, thông điệp truyền thông.
Người nghiên cứu cần đi sâu hơn nữa vào việc lý giải sự khác biệt giữa các giới, các tầng lớp xã hội khác nhau trong việc và tiếp nhận nội dung thông điệp của tờ báo, đài phát thanh hay truyền hình.
Trước đây người ta quan tâm nhiều đến cách ứng xử của công chúng với các phương tiện truyền thông. Về sau người ta kết nối các ứng xử của họ với cơ cấu xã hội tức là đặt ứng xử của công chúng vào bối cảnh xã hội của họ (nông thôn hay đô thị, trình độ học vấn, văn hóa, nghề nghiệp như thế nào…). Đồng thời hiện nay những nhà nghiên cứu cũng quan tâm đến thị hiếu của công chúng như là một yếu tố quan trọng trong khi tiến hành nghiên cứu.
Các hướng nghiên cứu nói trên cần được xem xét trong sự tương tác với các thiết chế truyền thông đại chúng vì các thiết chế này được coi là nơi cung cấp thông tin để nói cho công chúng biết. Thiết chế truyền thông đại chúng vừa mang những tính chất chung của thiết chế xã hội vừa mang những đặc điểm riêng gắn với truyền thông đại chúng. Khi nghiên cứu thiết chế truyền thông cần chú ý đến những đặc điểm của nó:
1) Sản xuất và phân phối tin tức, tạo ra các kênh để các thành viên trong xã hội giao lưu kết nối với nhau
2) Mang đặc điểm điển hình- hoạt động trong lĩnh vực công cộng, mở rộng cho mọi người không hạn chế ai, tạo nên một không gian công cộng. (Ví dụ với công chúng thì thiết chế mở này chủ yếu tác động đến công chúng vào thời gian rỗi)
3) Các phương tiện truyền thông đại chúng chịu sự chi phối và chế định của pháp luật theo nhiều cách khác nhau
3.3. Những hạn chế còn tồn tại trong nghiên cứu xã hội học thực nghiệm về truyền thông đại chúng ở Việt Nam hiện nay
Tri thức thực nghiệm là một đòi hỏi tất yếu trong nghiên cứu xã hội học, người làm nghiên cứu xã hội học phải dựa trên cơ sở các thực chứng, nắm vững lý thuyết chuyên ngành và các lý thuyết chung về xã hội học. Các nghiên cứu thực chứng đóng một vai trò rất quan trong và nghiên cứu xã hội học cho phép các nhà nghiên cứu có thể đánh giá được khái niệm, điều chỉnh hệ thống lý luận và sự “vận động” của lý thuyết vào những thời điểm nghiên cứu nhất định (các biến đổi xã hội sẽ dẫn đến sự biến đổi của các quy phạm xã hội học), vì vậy việc quan trọng của người nghiên cứu là phải làm tốt thao tác hóa khái niệm để cho ra được các chỉ báo cụ thể và dễ hiểu.
Theo chúng tôi Mai Quỳnh Nam, một nhược điểm hạn chế của nghiên cứu xã hội học thực nghiệm vẫn còn tồn tại hiện này vấn đề khái quát hóa là trong các phân tích thực nghiệm còn rất hạn chế. Vì vậy khi triển khai các vấn đề nghiên cứu cần xác định đây là nghiên cứu tổng quan hay là nghiên cứu trường hợp để có được những hướng tiếp cận vấn đề đúng đắn nhất.
Mặc dù Việt Nam đã mở cửa và giao lưu với thế giới được một thời gian dài nhưng riêng trong lĩnh vực nghiên cứu truyền thông, chúng ta chưa thật sự hội nhập với các lĩnh vực nghiên cứu trên thế giới. Khoảng cách giữa nghiên cứu truyền thông trong nước và quốc tế có thể được lý giải bởi các nguyên nhân sau:
Đào tạo báo chí và truyền thông hiện nay ở nước ta vẫn được quan niệm là đào tạo nghề. Vì vậy phần lớn thời gian của các chương trình đào tạo dành cho việc hoàn thiện các kỹ năng làm báo và làm truyền thông cho sinh viên chứ chưa chú trọng đến khía cạnh nghiên cứu. Bên cạnh đó nguồn tài liệu tham khảo chưa có nhiều. Hiện nay chỉ có một số ít sách tham khảo và giáo trình có sự kết nối và cập nhật thông tin về nghiên cứu truyền thông trên thế giới.
Nghiên cứu về báo chí nói riêng và truyền thông nói chung của Việt Nam chịu ảnh hưởng của trường phái báo chí Xô Viết (cả một thế hệ các nhà báo, các nhà đào tạo truyền thông được học tập và nghiên cứu ở Liên Xô). Đây là thế mạnh, nhưng cũng là điểm yếu vì các thế hệ sau trong lĩnh vực nghiên cứu truyền thông không có được kiến thức nền tảng từ các nước phương Tây.
Cuối cùng là rào cản về ngôn ngữ. Bước sang thế kỷ XXI, trong bối cảnh chính trị, kinh tế trên thế giới có nhiều chuyển biến, truyền thông ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn và các mối quan tâm trong nghiên cứu truyền thông đa dạng hơn. Trong đó, những nghiên cứu về truyền thông tại các quốc gia đang phát triển hoặc tại các quốc gia có những điểm khác biệt về chính trị – kinh tế so với các quốc gia Âu Mỹ, ví dụ như Việt Nam, được đánh giá là khá thu hút. Tuy nhiên trình độ ngoại ngữ của một số người công tác trong lĩnh vực xã hội học truyền thông tại Việt Nam còn hạn chế, dẫn đến những cản trở khi tiếp cận các nguồn tài liệu tham khảo từ nước ngoài cũng như trong quá trình làm việc và giao tiếp đã hoạt động nghiên cứu.
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU CỦA TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG Ở VIỆT NAM
Truyền thông và phát triển: Việt Nam là một quốc gia đang phát triển. Chúng ta có rất nhiều vấn đề cần đương đầu như xóa đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, bảo vệ môi trường, chống tham nhũng, phát triển cho phụ nữ, quyền trẻ em… [7]. Các nghiên cứu có thể thực hiện theo hướng này là: Cơ sở hạ tầng của truyền thông, viễn thông và vai trò đối với chất lượng sống cũng như khả năng sản xuất của nền kinh tế; Chính sách của nhà nước và các chủ trương truyền thông; Nội dung truyền thông về các vấn đề phát triển và khả năng tác động thực tế. Tuy nhiên, khi giới thiệu các kết quả nghiên cứu này với các nước phương Tây lưu ý rằng, truyền thông và phát triển là vấn đề có tính hai mặt. Một mặt, báo chí & truyền thông là công cụ hiệu quả, nhưng mặt khác, việc nhà nước điều khiển báo chí (dù với mục đích nào) cũng hạn chế sự độc lập và vai trò của báo chí. Truyền thông và các vấn đề văn hóa – xã hội: Trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay, một trong các vấn đề được bàn cãi nhất là có hay không sự ảnh hưởng và tác động của văn hóa phương Tây thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Sự có mặt của các tên tuổi truyền thông phương Tây qua các tạp chí nhượng quyền, các kênh phát trên truyền hình cáp, phim ảnh, hàng hóa tại Việt Nam hiện nay ảnh hưởng như thế nào đến lối sống và văn hóa Việt Nam? Liệu văn hóa phương Tây sẽ thắng thế, hay sẽ có một nền văn hóa mới trong đó có sự kết hợp giữa văn hóa truyền thống và văn hóa phương Tây? Công nghệ truyền thông mới, ví dụ như Internet, có khả năng giúp cho nền văn hóa bản địa tác động ngược trở lại văn hóa phương Tây? Bên cạnh các vấn đề về văn hóa, truyền thông cũng có ảnh hưởng sâu sắc đến các vấn đề xã hội như: tội ác, bạo lực, khiêu dâm, sự lệch lạc xã hội, sự bất bình đẳng về giới tính, bất bình đẳng trong thông tin, chủ nghĩa tiêu dùng…
Truyền thông trong việc xây dựng hình ảnh quốc gia: Nhờ vào truyền thông, mỗi quốc gia đều có khả năng xây dựng hình ảnh của mình để không bị hòa tan trong quá trình toàn cầu hóa. Xây dựng hình ảnh quốc gia là một trong các khía cạnh nghiên cứu khá thú vị hiện nay của truyền thông. Từ việc tìm hiểu các lý thuyết về việc xác lập một quốc gia đến việc xây dựng các chiến lược truyền thông và triển khai trên thực tế đều rất hữu ích không chỉ cho riêng giới nghiên cứu mà còn cho chính các quốc gia.
Các hướng nghiên cứu trên không phải hoàn toàn mới. Ít nhiều thì các nghiên cứu tại Việt Nam đã bàn đến các vấn đề nêu trên. Tuy nhiên, để hội nhập với thế giới, các nhà nghiên cứu cần đặt những mối quan tâm của mình trong bối cảnh thế giới hiện nay và quá trình toàn cầu hóa chứ không chỉ giới hạn ở phạm vi trong nước. Bên cạnh đó, các nghiên cứu truyền thông hiện đại đều mang tính liên thông với các ngành khác như chính trị học, kinh tế học, xã hội học… đồng thời ở hướng nghiên cứu nào cũng nên lưu ý đến sự phát triển của những công nghệ mới trong truyền thông.
KẾT LUẬN
Như vậy, khi xem xét các lĩnh vực nghiên cứu truyền thông, cần đặt nó trong mối quan hệ xã hội, gắn với các thiết chế truyền thông và bối cảnh xã hội. Dựa trên bối cảnh ấy để xem xét và nghiên cứu bốn nội dung chính của truyền thông là công chúng của các phương tiện truyền thông đại chúng, các tổ chức và các nhà hoạt động truyền thông, phân tích nội dung của các thông điệp truyền thông, và nghiên cứu về ảnh hưởng cũng như tác động xã hội của các phương tiện truyền thông đại chúng. Bên cạnh đó, cũng cần lưu ý thêm các cấp độ truyền thông liên cá nhân và truyền thông tập thể để hiểu rõ hơn những vấn đề của truyền thông đại chúng.
Có thể thấy rằng, xã hội học thực nghiệm đã được trở thành một trong những hướng nghiên cứu quan trọng trên thế giới. Xã hội học thực nghiệm đã đặt được những nền tảng về nghiên cứu truyền thông với các hướng nghiên cứu ở Việt Nam. Qua đó, truyền thông có thể vận dụng kế thừa và ngày càng làm sáng tỏ các khái niệm, các quan điểm khi nghiên cứu lĩnh vực truyền thông.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Michael Schudson, 2003, Sức mạnh của tin tức truyền thông (bản dịch cuốn The Power of News, Harvard, Harvard University Press, 1995, người dịch: Thế Hùng, Trà My), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Philippe Breton, Serge Proulx, 1996, Bùng nổ truyền thông, sự ra đời một ý thức hệ mới, bản dịch củaVũ Đình Phòng, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
Mai Quỳnh Nam, Bài giảng Các phương pháp thiết kế và triển khai nghiên cứu truyền thông, Lớp CHBCK5, chúng tôi 2013
Trần Hữu Quang, Chân dung công chúng truyền thông (qua khảo sát xã hội học tại TPHCM), NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Trung tâm Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương, 2001
Trần Hữu Quang, Xã hội học báo chí, NXB Trẻ, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Trung tâm Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương, 2006
Trần Hữu Quang, 2008, Truyền thông đại chúng trong xã hội hiện đại, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số 7 và 8, Xuân Mậu Tý, 7 – 2, tr. 16 – 19.
Trần Hữu Quang, Xã hội học truyền thông đại chúng, NXB Đại Học Mở Bán công TP. Hồ Chí Minh, 1997
Trần Hữu Quang, Công chúng chúng tôi với các phương tiện truyền thông đại chúng, tạp chí về phụ nữ, số 2/1998
Trần Hữu Quang, Khảo sát mức độ theo dõi các phương tiện truyền thông đại chúng ở chúng tôi tạp chí xã Hội học số 2/1998
Truyền thông phát triển – Một hướng đi mới cho báo chí ở các nước đang phát triển, Nguyễn Minh Nguyệt, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 12, 2008
[1] PGS. TS Mai Quỳnh Nam, Bài giảng Các phương pháp thiết kế và triển khai nghiên cứu truyền thông, CHBCK5, chúng tôi 2013
[2] Trần Hữu Quang, 2001, tr. 21
[3] Philippe Breton, Serge Proulx, 1996, tr. 10
[4] Trần Hữu Quang, Xã hội học báo chí, NXB Trẻ, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Trung tâm Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương, 2006
[5] PGS. TS Mai Quỳnh Nam, Bài giảng Các phương pháp thiết kế và triển khai nghiên cứu truyền thông, CHBCK5, chúng tôi 2013
[6] PGS. TS Mai Quỳnh Nam, Bài giảng Các phương pháp thiết kế và triển khai nghiên cứu truyền thông, CHBCK5, chúng tôi 2013
Có Nên Học Bác Sĩ Y Học Cổ Truyền?
Xin chào các bậc phụ huynh và các em.
Lưu ý bài viết này chỉ dành cho các bạn chuẩn bị bước vào ngưỡng cửa đại học
Tôi xin tự giới thiệu, tôi từng học chuyên ngành Bác sĩ y học cổ truyền – trường Đại học Y Hà Nội. Tôi viết bài này với hy vọng có thể gửi 1 chút kinh nghiệm đã qua của chính cá nhân tôi về lĩnh vực lựa chọn ngành học của con em các bạn sau khi đã học hết chương trình phổ thông.
Nhiều em học sinh, thậm chí cả các bậc phụ huynh có con tốt nghiệp phổ thông, chuẩn bị ngưỡng cửa vào đại học. Trước mắt các em là cả 1 tương lai, vậy phải chọn ngành nào và học ngành nào để sau này các em có thể làm việc với nghề mình đã học.
Nhiều người tự thắc mắc có nên cho con em học bác sĩ y học cổ truyền không? Tôi xin đưa ra đây 1 vài thông tin để cho bạn tự lựa chọn cho chính mình:
Tổng quan
Trước hết, y học cổ truyền đào tạo bác sĩ, y sỹ, điều dưỡng … y học cổ truyền, khám chữa bệnh bằng những phương pháp YHCT (Thuốc nam, thuốc bắc, châm cứu, xoa bóp….)
Luật pháp quy định như thế nào?
Theo quy định mới nhất của bộ y tế ban hành và có hiệu lực năm 2016: sau khi bạn học và tốt nghiệp bác sỹ y học cổ truyền, bạn chỉ được khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền, không được khám chữa bệnh trong lĩnh vực khác. (Thông tư 41/2015 sửa đổi – phần phụ lục đính kèm) và các trường đại học y dược cũng không nhận đào tạo sau đại học chuyên ngành khác cho bằng bằng bác sĩ y học cổ truyền (mà chỉ đào tạo sau đại học y học cổ truyền).
Cũng theo quy định này, sau khi bạn tốt nghiệp, bạn phải công tác trong 1 cơ sở khám chữa bệnh có giường bệnh nội trú, thời gian công tác đủ 18 tháng, bạn mới được cấp giấy phép hành nghề, lúc đó chữ kí của bạn vào bệnh án mới có giá trị pháp lý, và có quyền khám chữa bệnh trên bệnh nhân. Vấn đề ở chỗ, sau khi ra trường, bạn có xin vào được làm hợp đồng ở 1 cơ sở khám chữa bệnh như vậy không?
Cũng theo thông tư này, bạn tốt nghiệp bác sĩ y học cổ truyền hệ chính quy học 6 năm, sau khi tốt nghiệp, vai trò sẽ tương tự như 1 bạn y sỹ y học cổ truyền học 3 năm, chỉ hơn các bạn đó 2 chữ bác sĩ, và kiến thức y khoa về mặt bệnh học.
Thông cáo 878/KCB-QLHN ngày 31/7/2018:Không mở rộng phạm vi hoạt động chuyên môn đối với bác sĩ y học cổ truyền
Cập nhật ngày 28/07/2020: Cơ hội mới cho sinh viên Y học cổ truyền
+ Lượng đào tạo lớn
Thực trạng hiện nay:
Hiện trạng hiện nay, trên toàn quốc có nhiều trường đại học y chính quy, đào tạo bác sĩ y học cổ truyền, hàng năm số lượng sinh viên tốt nghiệp bác sỹ y học cổ truyền rất nhiều.
Tôi xin đơn cử tại Hà Nội, Trường học viện Y học cổ truyền Việt Nam, 1 khóa học tốt nghiệp bác sỹ chính quy khoảng 800 sinh viên (bằng cả 1 khóa tốt nghiệp bác sỹ tại Đại học Y Hà Nội (gồm Y đa khoa, Y cổ truyền, RHM, YHDP).
Chưa kể, số lượng y sỹ y học cổ truyền, lương y, bác sĩ y học cổ truyền học bên Trung Quốc, 1 năm số lượng sinh viên đó tốt nghiệp sẽ tồn dư.
+ Nhu cầu đầu ra Nhu cầu thực tế cần tuyển bác sĩ y học cổ truyền tại các bệnh viện y học cổ truyền, hoặc khoa y học cổ truyền của bệnh viện đa khoa rất thấp.
Đơn cử, tại sở y tế Nam Định năm 2016: tuyển dụng viên chức ngạch bác sỹ ngành Y tế năm 2016, có 111 chỉ tiêu, trong đó không có 1 chỉ tiêu nào dành cho bác sĩ y học cổ truyền.
2.Tương quan với ngành bác sĩ khác
Nhưng nếu bạn học Bác sĩ đa khoa, sau tốt nghiệp bạn có quyền được học tất cả các chuyên ngành nếu muốn ( nội, ngoại, sản, nhi, mắt, da liễu, nội tiết, huyết học, y học cổ truyền, y học dự phòng, sinh hóa, chẩn đoán hình ảnh, …. ) có nghĩa là sau khi bạn học Bác sĩ đa khoa, thì bạn có quyền học định hướng bất kỳ ngành nào mà bạn muốn.
Hiện tại, một số trường ngành bác sĩ y học cổ truyền điểm trúng tuyển cũng khá cao, ngang ngửa với bác sĩ đa khoa, nên bạn có thể cho con bạn học trường điểm không cao nhưng là ngành đa khoa con bạn sẽ có nhiều cơ hội làm việc hơn
Tất nhiên, nếu bạn có cơ hội cho con bạn làm trong lĩnh vực y học cổ truyền (gia đình bạn gia truyền, có mối quan hệ xin việc…) thì bạn cũng có thể cân nhắc học ngay từ đầu.
3.Thực trạng điều trị y học cổ truyền:
+ Điều trị bằng thuốc đông y:
– Nếu con bạn không trong gia đình truyền thống, thì việc phát triển và kinh nghiệm điều trị thuốc y học cổ truyền sẽ mất thời gian, vì con bạn sẽ phải tự đúc rút…
– Thuốc y học cổ truyền hiện nay khá nhiều trôi nổi, nếu bạn từng qua khoa Chống độc – Bệnh Viện Bạch Mai, bạn sẽ thấy ở đây bệnh nhân ngộ độc thuốc đông y khá nhiều (do nguồn thuốc không rõ ràng, do bảo quản….)
Tất nhiên, không ai dám phủ nhận hiệu quả điều trị thực sự của thuốc đông y, trước đây các cụ chỉ cần 3-5 thang, nhưng giờ 10 thang có khi bệnh nhân cũng chưa đáp ứng gì.
+ Điều trị không dùng thuốc (châm cứu, xoa bóp…)
– Nếu bạn học tốt, bạn có thể điều trị bệnh nhân ngay khi bạn còn là sinh viên.
Theo tôi, bạn muốn con bạn học bác sĩ y học cổ truyền, xin hãy cân nhắc nhiều khía cạnh, nếu gia đình bạn có truyền thống, hoặc có mối quan hệ, có cơ hội cho con bạn phát triển trong lĩnh vực y học cổ truyền, thì việc học xong con bạn không phải quá lăn tăn.
Nhưng nếu con bạn không thuộc các diện trên, tôi khuyên bạn hãy cho con bạn học bác sĩ đa khoa, bác sĩ răng hàm mặt thì cơ hội ra trường xin việc của con bạn sẽ nhiều hơn nhiều. Thậm chí sau khi đã tốt nghiệp, bạn muốn con bạn làm YHCT, bạn có thể cho con bạn học thêm 1 năm định hướng YHCT, con bạn vừa vũng kiến thức tây y, vừa làm được đông y.
Mong bạn có sự lựa chọn tốt nhất cho mình.
Cách Xử Lí Hàng Về Trước Hóa Đơn Về Sau
Trong thực tế khi phát sinh việc trao đổi mua bán hàng hóa,đã có rất nhiều trường hợp giao hàng trước còn hóa đơn về sau, trường hợp này làm cho nhiều kế toán rất khó khăn trong việc xử lý,hạch toán.Mình xin chia sẻ cách xử lý và hạch toán như sau:
1. Căn cứ vào phiếu nhập kho các bạn hạch toán vào sổ theo giá tạm tính chưa có thuế
Nợ 152 (153, 156): Số lượng nhập x Giá tạm tính Có 111 (112,331…): Số lượng nhập x Giá tạm tính
2. Khi hóa đơn về, căn cứ vào hóa đơn, tiến hành hạch toán như sau: a) Nếu giá mua = Giá tạm tính:
Nơ TK133: Theo số tiền thuế trên hóa đơn. Có Tk 111,112,331: Số lượng mua x Giá mua x % Thuế suất
– Điều chỉnh tăng Nợ TK 152, 156: Số lượng x (Giá mua – Giá tạm tính) Có TK 111,112,331: Số lượng mua x (Giá mua – Giá tạm tính)
c) Nếu giá mua < Giá tạm tính
– Phản ánh thuế: Nợ TK 133: Có TK 111,112,331: Số lượng mua x Giá mua x % Thuế suất
– Điều chỉnh giảm: Nợ TK 111,112,331: Số lượng x (Giá tạm tính – Giá mua) Có TK 152, 156: Số lượng x (Giá tạm tính – Giá mua)
Chú ý:
Để chứng mình được việc là hàng về trước hóa đơn về sau, cần chuẩn bị các giấy tờ sau:
– Hợp đồng/Thoả thuận với các bên, các phiếu nhập, phiếu xuất kho, chứng từ chuyển tiền,…). – Trong hợp đồng phải ghi rõ: Thời điểm giao hàng, thời điểm giao nhận hoá đơn, chứng từ cho hàng đi đường (bên bán sử dụng Phiếu xuất kho kiêm lệnh vận chuyển/điều động, sau khi giao nhận đủ, thanh toán tiền mới xuất Hoá đơn GTGT).
Ví dụ thực tế trường hợp hàng về trước hóa đơn về sau:
Công ty tôi mua hàng nhưng người bán không lập hóa đơn giao cho công ty tôi ngay mà đến cuối tháng quyết toán số hàng đã cung cấp trong tháng sau đó qua tháng sau người bán mới xuất 1 hóa đơn giao cho công ty tôi (có khi hai tháng sau mới có hóa đơn nhưng hàng hóa công ty tôi đã bán hết).
1. Hàng công ty tôi mua vào nhập kho và sau đó bán, lập hóa đơn bán nhưng chưa có hóa đơn mua hàng như vậy có sai không?
2. Nếu sai thì sẽ bị xử lý như thế nào về thuế GTGT và TNDN (thuế GTGT có được khấu trừ, đưa vào chi phí đối với các hóa đơn mua hàng này không? Nếu không xem như hàng bán mà không có giá vốn tương ứng?)
3. Có văn bản nào quy định về vấn đề nêu trên không?
Xin cám ơn!
Khi xuất hóa đơn bán cho người khác, nghĩa là có đầu vào thì mới có đầu ra. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay vẫn có nhiều trường hợp hàng về trước, hóa đơn về sau hoặc ngược lại và việc xảy ra trường hợp như của Doanh nghiệp bạn nêu trong thư hỏi cũng không nằm ngoài thực tế. Theo quy định của Bộ Luật dân sự, Luật Thương mại, Luật thuế GTGT, Luật Quản lý thuế và Luật Kế toán thì Hóa đơn GTGT là chứng từ xác thực việc mua/ bán hàng hóa, dịch vụ. Với hàng mua vào, chỉ có hóa đơn GTGT do người bán xuất cho DN rồi thì mới được viết hóa đơn GTGT bán cho người mua khâu sau và chỉ khi đó mới được khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Doanh nghiệp của bạn bán hàng rồi mới nhận được hóa đơn của người bán giao cho là sai phạm, đó là bán “khống”. Nếu đã kê khai khấu trừ thuế đầu vào thì bị loại ra và xử phạt về hành vi gian lận thuế. Về nguyên tắc, đối với các lô hàng thuộc loại này cũng không được tính vào chi phí khi tính thuế TNDN.
Xét thực tế nhiều trường hợp có Hợp đồng kinh tế có điều khoản thỏa thuận giao hàng qua điện thoại khi có yêu cầu ,định kỳ cuối mỗi tháng đối chiếu thanh toán ,xuất hóa đơn 01 lần.Hàng nhận về đã làm thủ tục nhập kho ,có phiếu nhập,có ghi sổ, tuy chưa có hóa đơn đầu vào trong khi bán cho người mua DN đã xuất ngay hóa đơn…. có doanh thu,tính đủ thuế GTGT ,đã kê khai đầu ra,nếu không cho tính chi phí giá vốn thì rất vô lý…
Tổng cục thuế có văn bản hướng dẫn quyết toán thuế theo đó doanh nghiệp khai và tự chịu trách nhiệm thì vẫn chấp nhận cho tính chi phí .Công văn số 7250/2010 và 518/2011 có đề cập vấn đề này,các bạn có thể tìm đọc và tham khảo.
Bạn đang xem bài viết Đại Cương Về Miễn Dịch Học trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!