Cập nhật thông tin chi tiết về Đảng Bộ Huyện Kbang Long Trọng Khai Mạc Đại Hội Đại Biểu Lần Thứ Ix, Nhiệm Kỳ 2022 – 2025 – Truyền Hình Gia Lai mới nhất trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Như tin đã đưa, sáng ngày 3/8, Đảng bộ huyện Kbang đã long trọng tổ chức khai mạc Đại hội đại biểu lần thứ IX, nhiệm kỳ 2020 – 2025. Dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội, đồng chí Hồ Văn Niên – Ủy viên dự khuyết BCH Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh đã đề nghị huyện Kbang tập trung triển khai 4 chương trình trọng tâm để đảm bảo hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới bền vững.
Báo cáo chính trị tại Đại hội nêu rõ: Dưới sự chỉ đạo sâu sát của các cấp, với quyết tâm chính trị cao của toàn Đảng bộ, cả hệ thống chính trị và sự chung sức, đồng lòng của các tầng lớp Nhân dân, huyện Kbang đã vượt qua khó khăn, thách thức và đạt được những kết quả tích cực. Trong đó, đã thực hiện đạt và vượt 19/21 chỉ tiêu của Nghị quyết Đại hội VIII Đảng bộ huyện. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2015 – 2020 đạt 7,85%/năm. Tổng giá trị sản xuất trên 4.500 tỷ đồng. Thu nhập bình quân đầu người đạt trên 38 triệu đồng/người. Sản xuất nông nghiệp có bước phát triển với tốc độ tăng trưởng tăng 1,23 lần so với đầu nhiệm kỳ. Trong nhiệm kỳ, huyện Kbang đã huy động được trên 1.800 tỷ đồng để thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới và đang tập trung để về đích nông thôn mới vào cuối năm 2020. Văn hóa – xã hội có nhiều tiến bộ; bình quân giai đoạn 2016 – 2020 giảm giảm 4,28%/năm và phấn đấu đến cuối năm toàn huyện chỉ còn 5,31% hộ nghèo. Quốc phòng – an ninh được giữ vững. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được triển khai thực hiện nghiêm túc; nhất là việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII gắn với thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị đã góp phần xây dựng Đảng bộ huyện ngày càng trong sạch,vững mạnh.
Phát biểu chỉ đạo tại Đại hội, đồng chí Hồ Văn Niên – Ủy viên dự khuyết BCH Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, ghi nhận, biểu dương và chúc mừng những kết quả quan trọng mà huyện Kbang đã đạt được trong nhiệm kỳ qua; thể hiện rõ nét sự lãnh đạo của cấp ủy, điều hành của các cấp chính quyền song sự phát triển của huyện Kbang chưa tương xứng với tiềm năng của địa phương. Bí thư Tỉnh ủy Hồ Văn Niên nêu rõ: Trước những khó khăn, thách thức trong thời gian tới, đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Kbang phải tiếp tục cố gắng, đoàn kết, đổi mới với quyết tâm chính trị cao nhất; kịp thời nắm bắt thời cơ, kế thừa những kết quả đã đạt được, kinh nghiệm thực tiễn, từ đó xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp đồng bộ để thực hiện thắng lợi chỉ tiêu đã đề ra. Trước hết, đồng chí Hồ Văn Niên đề nghị huyện Kbang phải tiếp tục huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; nâng cao hơn nữa vai trò của cấp ủy, chính quyền và sự chung tay của người dân trong công tác quản lý, bảo vệ rừng. Cùng với đó là phát huy những tiềm năng, thế mạnh ở địa phương để hướng đến mục tiêu xây dựng huyện nông thôn mới bền vững.
Đồng chí Hồ Văn Niên nhấn mạnh: “Để thực hiện mục tiêu “phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, du lịch và xây dựng huyện nông thôn mới bền vững” như Chủ đề Đại hội, huyện cần rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch, kế hoạch về nông – lâm nghiệp – thủy sản. Tập trung ứng dụng khoa học – công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, nâng cao giá trị gia tăng, chất lượng sản phẩm; phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững. Khai thác, quản lý tốt nguồn nước từ hồ, đập thủy điện, thủy lợi trên địa bàn. Quan tâm phát triển công nghiệp chế biến gắn với nâng cao chất lượng dịch vụ, thương mại. Nâng cao chất lượng hoạt động của mô hình hợp tác xã kiểu mới, mô hình “nông hội” gắn với phát triển du lịch nông thôn; xây dựng thương hiệu một số sản phẩm nông nghiệp đặc thù của huyện. Đẩy mạnh kêu gọi thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, du lịch; tăng cường xúc tiến, quảng bá, liên kết phát triển du lịch; khai thác tốt các điểm du lịch lịch sử – văn hóa, sinh thái đã được đầu tư, quy hoạch. Đầu tư nâng cấp thị trấn Kbang đủ điều kiện đạt tiêu chí đô thị loại IV trong 5 năm đến. Tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, phát huy tối đa nội lực để sớm hoàn thành mục tiêu xây dựng huyện nông thôn mới; củng cố vững chắc các tiêu chí nông thôn mới và tiếp tục phấn đấu đạt được các tiêu chí nâng cao, đảm bảo mục tiêu xây dựng nông thôn mới bền vững”.
Đồng chí Hồ Văn Niên cũng nêu rõ: Cùng với phát triển kinh tế, phải tập trung giải quyết có hiệu quả và bền vững các vấn đề an sinh xã hội; trọng tâm là chăm lo, hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ phát triển kinh tế; bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống; ưu tiên nguồn lực đầu tư cho công tác giảm nghèo bền vững, hạn chế tình trạng tái nghèo, nhất là vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn. Xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân; đảm bảo giữ vững quốc phòng – an ninh, tạo tiền đề thuận lợi để huyện phát triển trong thời gian tới. Để thực hiện được các nhiệm vụ trọng tâm trên, Bí thư Tỉnh ủy Hồ Văn Niên đề nghị từng cán bộ, đảng viên phải có trách nhiệm giữ gìn, phát huy truyền thống quý báu của các thế hệ đi trước để chăm lo xây dựng Đảng bộ thật sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến của tổ chức đảng từ huyện đến cơ sở.
Trên tinh thần đoàn kết, dân chủ và tập trung trí tuệ cao, tại Đại hội, các đại biểu đã bầu 35 đồng chí vào Ban Chấp hành khóa Đảng bộ huyện Kbang khóa IX, nhiệm kỳ 2020 – 2025. Đồng thời, lấy phiếu tín nhiệm và thống nhất giới thiệu đồng chí Trương Văn Đạt – Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Kbang khóa VIII để bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy Kbang khóa IX. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Kbang cũng đã họp phiên thứ Nhất để bầu các chức danh chủ chốt của Đảng bộ huyện.
Chúng tôi sẽ tiếp tục thông tin những nội dung quan trọng của Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Kbang lần thứ IX, nhiệm kỳ 2020 – 2025 trong bản tin sau.
Đức Hải, Thanh Sáng
Lượt xem: 462
Lượt xem: 462
Đại Hội Đại Biểu Đảng Bộ Huyện Thiệu Hóa Lần Thứ Xx
(TTV) – Sáng 30/7, Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Thiệu Hóa lần thứ XX, nhiệm kỳ 2020-2025 đã chính thức khai mạc.
Về dự và chỉ đạo Đại hội có các đồng chí: Đỗ Trọng Hưng – Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội Thanh Hóa; Đỗ Minh Tuấn – Phó Bí thư Tỉnh ủy. Dự đại hội có các đồng chí nguyên lãnh đạo tỉnh qua các thời kỳ: Trịnh Trọng Quyền, Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Nguyên Bí thư Tỉnh ủy; Lê Ngọc Hân, Nguyên Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Nguyên Chủ tịch HĐND tỉnh; Đinh Tiên Phong, Nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy, Nguyên Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh; các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy: Nguyễn Văn Phát, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy; Trịnh Tuấn Sinh, Bí thư Đảng ủy Khối các Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh; Lê Anh Xuân, Bí thư Thành ủy TP Thanh Hóa; đại diện lãnh đạo HĐND tỉnh, Ủy ban MTTQ tỉnh, các sở, ngành, đơn vị của tỉnh và 255 đại biểu đại diện cho gần 9.000 đảng viên trên địa bàn huyện.
Nhiệm kỳ 2015 – 2020, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân huyện Thiệu Hóa đã nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện đạt và vượt 24/28 chỉ tiêu so với mục tiêu Nghị quyết Đại hội XIX đề ra. Nổi bật là, tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân giai đoạn 2016 – 2020 đạt 13,7%; thu nhập bình quân đầu người năm 2020 ước đạt 42,6 triệu đồng, đạt mục tiêu Đại hội đề ra. Cơ cấu các ngành kinh tế chuyển dịch đúng hướng. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới ước đến hết năm 2020 có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội được tăng cường. Văn hóa – xã hội chuyển biến tiến bộ, an sinh xã hội được chăm lo, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện. Quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được quan tâm, phát huy được tinh thần đoàn kết trong Đảng, trong Nhân dân. Các tổ chức cơ sở Đảng được củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu.
Phát huy kết quả đạt được, nhiệm kỳ 2020 – 2025, Đảng bộ huyện Thiệu Hóa tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực và sức chiến đấu ca Đảng bộ, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh toàn diện; huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững; phấn đấu đến năm 2025 trở thành huyện khá, đến năm 2030 trong nhóm các huyện dẫn đầu của tỉnh. Đại hội đã đề ra 27 chỉ tiêu chủ yếu, xác định 3 chương trình trọng tâm, gồm: chương trình phát triển sản xuất nông nghiệp sạch, quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao theo chuỗi giá trị gắn với xây dựng nông thôn mới nâng cao; chương trình phát triển công nghiệp gắn với phát triển đô thị; và chương trình nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. 2 khâu đột phá gồm: đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội đồng bộ, theo hướng hiện đại; cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và phát triển doanh nghiệp.
Đồng chí Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội Thanh Hóa nhấn mạnh: Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đại hội là bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa mới. Do vậy, các đại biểu tham dự Đại hội nêu cao tinh thần trách nhiệm, phát huy dân chủ, sáng suốt lựa chọn những cán bộ tiêu biểu, xuất sắc, có uy tín, trách nhiệm cao, đủ phẩm chất, năng lực lãnh đạo tham gia vào Ban Chấp hành khóa mới.
Tiếp nối và phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang, tinh thần đoàn kết, chủ động sáng tạo, đồng chí Phó Bí thư Thường thực Tỉnh ủy tin tưởng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyên Thiệu Hóa sẽ nỗ lực phấn đấu, tranh thủ thời cơ, vượt qua khó khăn thách thức, xây dựng Thiệu Hóa thành huyện vững về chính trị, giàu về kinh tế, đẹp về văn hóa, mạnh về quốc phòng an ninh, sớm trở thành huyện khá của tỉnh, xứng đáng với niềm tin yêu, kỳ vọng của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh.
Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Thiệu Hóa lần thứ XX, nhiệm kỳ 2020-2025 sẽ bế mạc vào ngày mai, 31/7./.
Bản tin Thời sự tối TTV
Bài Dự Thi Tìm Hiểu Đảng Csvn Theo Chủ Đề Từ Đại Hội Đến Đại Hội (1)
“TÌM HIỂU VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM , ĐẢNG BỘ TỈNH LÂM ĐỒNG VÀ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT”.
Họ và Tên: DƯƠNG THỊ TRINH PHÚC
Đơn vị: Trường PT Dân Tộc Nội Trú Tỉnh Lâm Đồng
Câu 1: Từ ngày thành lập đến nay Đảng Cộng Sản ViệtNam đã qua bao nhiêu lần Đại hội đại biểu toàn quốc? Hãy nêu thời gian, địa điểm tổ chức Đại hội, số lượng đại biểu tham dự và kết quả chung của từng Đại hội? Cho biết tên đồng chí Tổng Bí thư Dảng Cộng Sản ViệtNam qua các kỳ Đại hội?
Trả lời:
Kể từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã trải qua 11 kỳ Đại hội. Mỗi kỳ Đại hội Đảng là một mốc lịch sử quan trọng ghi nhận những thắng lợi, thành tựu và những bài học kinh nghiệm của Cách mạng ViệtNamdưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đại hội lần thứ I:
Củng cố hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương, từ trong nước đến nước ngoài.
Đại hội lần thứ I (Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng cộng sản Đông Dương) diễn ra từ 27 đến 31-3-1935, tại Nhà số 2 Quan Công Lộ, Ma Cao, Trung Quốc. Số lượng đảng viên trong cả nước lúc đó là 600, số lượng tham dự Đại hội có 13 đại biểu. Đại hội I đã bầu Tổng Bí thư là đồng chí Lê Hồng Phong. Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội gồm 13 đồng chí. Trong điều kiện chế độ thống trị của Pháp – Nhật ở Đông Dương, cơ quan đầu não của Đảng luôn luôn bị địch đánh phá, hầu hết uỷ viên trong BCH bị địch bắt. BCH trung ương đã phải kiện toàn lại, qua các kỳ họp của BCHTW, các đồng chí Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Trường Chinh đã được bầu làm Tổng bí thư.
Đảng Cộng sản Đông Dương là Đảng của giai cấp vô sản Đông Dương. Đông Dương là một thuộc địa, công nghệ kém cỏi, thợ thuyền ít, nông dân và tiểu tư sản chiếm phần đông, nhiệm vụ của Đảng không những phải thu phục đa số thợ thuyền, mà còn cần phải thu phục quảng đại quần chúng nông dân và tiểu tư sản thành thị. Những người cộng sản Đông Dương chính là con cháu của các dân tộc ở Đông Dương, thành tâm đấu tranh vì quyền lợi của quảng đại quần chúng, của Tổ quốc đồng bào sống trên bán đảo Đông Dương. Trong điều kiện đó Đảng Cộng sản Đông Dương phải là “đảng của dân chúng bị áp bức, đội tiên phong cho cuộc dân tộc giải phóng”.
Đại hội đã thông qua một loạt nghị quyết quan trọng: Nghị quyết Chính trị; các nghị quyết về công tác quần chúng với từng đối tượng cụ thể: công nhân, nông dân, binh lính, phụ nữ, dân tộc thiểu số, thanh niên, đội tự vệ; Nghị quyết về công tác phản đế liên minh, xây dựng đội tự về, công tác cứu tế đỏ; Nghị quyết về các chương trình hành động; Nghị quyết về công tác đã qua của Ban Chỉ huy kiêm Ban Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Đông Dương; Nghị quyết về hệ thống tổ chức, quyền hạn và nhiệm vụ của Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương; thông qua Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương, Điều lệ của Tổng Công hội đỏ Đông Dương, Điều lệ Nông hội làng, Điều lệ của Đông Dương phản đế liên minh, Điều lệ Hội Cứu tế đỏ Đông Dương, Điều lệ của Thanh niên Cộng sản Đoàn Đông Dương.
Đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu thắng lợi căn bản của cuộc đấu tranh gìn giữ và khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng từ cơ sở đến trung ương. Đây là một điều kiện cơ bản và cần thiết để Đảng bước vào một thời kỳ đấu tranh mới với một đội ngũ đã được tôi luyện.
Đại hội lần thứ II:
Đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn.
Diễn ra từ ngày 11 đến 19-2-1951, tại Xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang. Số lượng đảng viên trong cả nước có 766.349, số lượng tham dự Đại hội: 158 đại biểu. Chủ tịch Đảng được bầu tại Đại hội là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tổng bí thư được bầu tại Đại hội là Đồng chí Trường Chinh. Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại đại hội gồm 29 uỷ viên và Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội gồm 7 uỷ viên.
Từ năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương là người tổ chức và lãnh đạo cách mạng của cả ba nước ViệtNam, Lào, Cam Pu Chia. Đến nay, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước có những thay đổi khác nhau. Mỗi nước cần và có thể thành lập một chính đảng cách mạng theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Đại hội quyết định tổ chức Đảng Lao Động ViệtNamvà đưa Đảng ra hoạt động công khai.
Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 19 uỷ viên chính thức và 10 uỷ viên dự khuyết. Bộ Chính trị của Trung ương Đảng gồm có 7 uỷ viên chính thức và một uỷ viên dự khuyết. Chủ tịch Đảng là Hồ Chí Minh. Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản ViệtNamlà Trường Chinh. Đây là lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương được bầu hợp thức trong một Đại hội đại biểu toàn quốc.
Đại hội đã quyết nghị đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên gọi mới là Đảng Lao động Việt Nam, thông qua Chính cương, Tuyên ngôn và Điều lệ mới của Đảng. Đây là lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương của Đảng được bầu hợp thức trong một Đại hội có đầy đủ đại biểu toàn quốc. Ban Chấp hành Trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng giữa hai kỳ đại hội, chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đại hội, bổ sung thêm các chủ trương chính sách mới cho thích hợp với những biến đổi mới của tình hình, để biến nghị quyết của Đại hội thành hiện thực đưa kháng chiến đến thắng lợi.
Đại hội lần thứ III:
Xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà ở miềnNam.
Thời gian diễn ra đại hội từ ngày 5 đến 12-9-1960, tại Thủ đô Hà Nội. Số lượng đảng viên trong cả nước: 500.000, số lượng tham dự Đại hội: 525 đại biểu. Chủ tịch Đảng được bầu tại Đại hội: Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bí thư Thứ nhất được bầu tại Đại hội là đồng chí Lê Duẩn. Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 47 uỷ viên. Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 11 uỷ viên.
Đại hội đã xác định đường lối chung của Đảng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là “đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn và truyền thống phấn đấu anh dũng, lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em do Liên Xô đứng đầu, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hoà bình ở Đông – Nam Á và thế giới”.
Đại hội lần thứ IV:
Thống nhất đất nước – cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội
Cách mạng ViệtNamchuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất, thực hiện chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa. Những yêu cầu mới của cách mạng đang đặt ra đối với sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, đã họp trù bị từ ngày 29-11 đến ngày 10-12-1976. Từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976, Đại hội họp công khai tại Thủ đô Hà Nội. 1008 đại biểu thay mặt hơn 1.550.000 đảng viên của 38 đảng bộ tỉnh, thành và cơ quan trực thuộc Trung ương trong cả nước đã về dự Đại hội. Trong số đại biểu đó có 214 đại biểu vào Đảng trước Cách mạng Tháng Tám 1945, 200 đại biểu đã từng bị đế quốc giam cầm, 39 đại biểu là anh hùng các lực lượng vũ trang và anh hùng lao động, 142 đại biểu là nữ, 98 đại biểu thuộc dân tộc thiểu số… Đến dự Đại hội có 29 đoàn đại biểu của các đảng cộng sản, đảng công nhân, của phong trào giải phóng dân tộc và các tổ chức quốc tế.
Tổng bí thư được bầu tại Đại hội là Đồng chí Lê Duẩn. Ban Chấp hành Trung ương được bầu tại Đại hội: 101 uỷ viên, Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 14 uỷ viên. Nhiệm vụ chính: Là Đại hội thống nhất đất nước – cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản ViệtNamvà thông qua Điều lệ mới của Đảng gồm 11 chương và 59 điều. Điều lệ đã rút gọn 10 nhiệm vụ của đảng viên thành 5 nhiệm vụ, đặt lại chức Tổng Bí thư thay chức Bí thư thứ nhất, quy định nhiệm kỳ của Ban Chấp hành Trung ương là năm năm…
Đại hội lần thứ IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc; là đại hội tổng kết những bài học lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; là đại hội thống nhất Tổ quốc đưa cả nước tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã không xác định mục tiêu của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ và phạm sai lầm trong việc xác định bước đi về xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, về cải tạo xã hội chủ nghĩa, về quan điểm quản lý kinh tế, v.v.. Vì thế, trong quá trình thực hiện Nghị quyết của Đại hội, chúng ta gặp những khó khăn rất lớn và tình hình kinh tế – xã hội xấu đi.
Đại hội lần thứ V:
Xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn lãnh thổ ViệtNam
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng họp từ ngày 27 đến 31-3-1982, tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1033 đại biểu, thay mặt cho hơn 1.727.000 đảng viên hoạt động trong 35.146 đảng bộ cơ sở. Dự Đại hội có 14 đại biểu đã từng tham gia các tổ chức tiền thân của Đảng; hơn 40% đại biểu đang hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế; 102 đại biểu hoạt động trong các cơ sở sản xuất công nghiệp; 118 đại biểu đại diện cho 27 tộc người ở tuyến đầu biên giới phía bắc và phía tây nam; 79 đại biểu là Anh hùng lao động, Anh hùng lực lượng vũ trang, chiến sĩ thi đua; 1/3 đại biểu có trình độ đại học và trên đại học, 26 tiến sĩ và phó tiến sĩ, 14 giáo sư, phó giáo sư và nhiều đại biểu hoạt động trong các lĩnh vực văn học- nghệ thuật. Đến dự đại hội có 47 đoàn đại biểu quốc tế.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm có 116 uỷ viên chính thức. Bộ Chính trị gồm có 13 uỷ viên chính thức và 2 uỷ viên dự khuyết. Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản ViệtNamlà đồng chí Lê Duẩn. Ngày 14-7-1986, Ban Chấp hành Trung ương họp phiên đặc biệt. Đồng chí Trường Chinh được bầu giữ chức Tổng Bí thư thay đồng chí Lê Duẩn từ trần ngày 10-7-1986.
Từ Đại hội lần thứ IV đến Đại hội lần thứ V của Đảng là những năm đầu cả nước bước vào kỷ nguyên xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ViệtNamxã hội chủ nghĩa. Trong khoảng thời gian đó, trên đất nước ta đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng được ghi đậm nét vào lịch sử của Đảng và của dân tộc. Nhân dân ta đã phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn chồng chất, giành được nhiều thắng lợi trên lĩnh vực bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước. Song, chúng ta cũng đang gặp những khó khăn mới. Công tác lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội của Đảng và Nhà nước ta cũng phạm nhiều khuyết điểm. Tình hình khủng hoảng về kinh tế – xã hội ở nước ta đã xuất hiện. Thực trạng của đất nước đang đòi hỏi Đảng phải kiểm điểm lại đường lối, chủ trương, đánh giá khách quan thành tựu và khuyết điểm, vạch rõ những nhiệm vụ, mục tiêu, chủ trương và biện pháp lớn để khai thác tiềm năng của đất nước, khắc phục những khó khăn và khuyết điểm, giải quyết đúng những vấn đề quan trọng và cấp bách về xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, về sản xuất và đời sống, v.v. nhằm tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.
Đại hội khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của Đại hội lần thứ IV, vạch ra chiến lược kinh tế – xã hội, những kế hoạch phát triển, những chủ trương, chính sách và biện pháp thích hợp trong từng chặng đường.
Đại hội lần thứ V của Đảng là kết quả của một quá trình tập hợp ý kiến của toàn Đảng để đề ra nhiệm vụ, phương hướng… nhằm giải quyết những vấn đề gay gắt, nóng bỏng đang đặt ra của cách mạng ViệtNam. Đại hội đánh dấu một sự chuyển biến mới về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường đấu tranh “Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”.
Đại hội lần thứ VI:
Thực hiện đổi mới đất nước (khởi xướng đưa đất nước tiến hành công cuộc đổi mới)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp từ ngày 15 đến 18-12-1986, tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1.129 đại biểu, thay mặt gần 1,9 triệu đảng viên trong cả nước, trong số đó có 925 đại biểu của 40 tỉnh, thành, đặc khu; 172 đại biểu các đảng bộ trực thuộc Trung ương; 153 đại biểu nữ; 115 đại biểu các dân tộc thiểu số;50 đại biểu là Anh hùng lực lượng vũ trang và Anh hùng lao động; 72 đại biểu là công nhân trực tiếp sản xuất;…Đến dự Đại hội có 32 đoàn đại biểu quốc tế.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 124 uỷ viên chính thức. Bộ Chính trị gồm 13 uỷ viên chính thức và một uỷ viên dự khuyết.Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản ViệtNam. Các đồng chí Trường Chinh, Phạm văn Đồng, Lê Đức Thọ được giao nhiệm vụ Cố vấn cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội VI là Đại hội kế thừa và quyết tâm đổi mới, đoàn kết tiến lên của Đảng ta. Đại hội “khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học”.
Chấp hành Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VI, trên lĩnh vực kinh tế, Ban Chấp hành Trung ương Đảng triển khai cùng một lúc bốn mặt hoạt động có liên hệ khăng khít với nhau: xây dựng và thực hiện ba chương trình kinh tế lớn; tiếp tục công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; đổi mới tổ chức cán bộ.
Đại hội lần thứ VII:
Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đưa đất nước đi theo con đường đổi mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, họp từ ngày 24 đến 27-6-1991, tại Hội trường Ba Đình, Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1.176 đại biểu, thay mặt cho hơn 2 triệu đảng viên trong cả nước. Có hơn 30 đoàn đại biểu quốc tế tham dự Đại hội.
Đại hội VII là Đại hội của trí tuệ- đổi mới, dân chủ- kỷ cương- đoàn kết; là Đại hội lần đầu tiên thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội một lần nữa khẳng định Đảng Cộng sản ViệtNamlà đội tiên phong của giai cấp công nhân ViệtNam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 146 uỷ viên. Bộ Chính trị gồm có 13 uỷ viên. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản ViệtNam. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 (khoá VII) bầu bổ sung 4 uỷ viên Bộ Chính trị.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Namđược tiến hành trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những diễn biến phức tạp. Đất nước ta phải đương đầu với các hoạt động phá hoại của các lực lượng thù địch ở cả ngoài nước và ở trong nước. Nhờ những thành tựu bước đầu của gần năm năm đổi mới, chúng ta đã đứng vững và tiếp tục tiến lên, mặc dù còn nhiều khó khăn. Đất nước vẫn chưa chấm dứt được sự khủng hoảng về kinh tế – xã hội. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000; Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng; (Điều lệ Đảng sửa đổi).
Cương lĩnh đã vạch rõ quan niệm của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta sẽ xây dựng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ để thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện dân giàu nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa, điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế, xã hội kém phát triển, chiến thắng những lực lượng cản trở việc thực hiện mục tiêu đó, trước hết là các lực lượng thù địch chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh cũng nêu lên những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, về hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng.
“Đảng Cộng sản ViệtNamlà đội tiên phong của giai cấp công nhân ViệtNam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, và của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Đại hội đã thông qua Điều lệ của Đảng (sửa đổi). Điều lệ gồm 12 chương 47 điều.
Đại hội lần thứ VIII:
Thực hiện đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, quá độ lên chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã họp nội bộ từ ngày 22 đến 26-6-1996 và họp công khai từ ngày 28-6 đến 1-7-1996 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.198 đại biểu thay mặt cho hơn 2 triệu đảng viên cùng các đồng chí cố vấn Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí đại diện lão thành cách mạng, đại diện các bà mẹ Việt Nam anh hùng, các nhân sĩ trí thức tiêu biểu cho trí tuệ, bản lĩnh và sức mạnh đoàn kết của toàn Đảng toàn dân. Dự Đại hội còn có gần 40 đoàn đại biểu quốc tế đại diện các đảng anh em và bầu bạn trên thế giới.
Đại hội VIII đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII gồm có 170 uỷ viên chính thức. Bộ Chính trị gồm 19 uỷ viên. Tổng Bí thư là đồng chí Đỗ Mười. Các đồng chí Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh, Võ Chí Công được giao nhiệm vụ Cố vấn cho Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân ta, vì tình hữu nghị và sự hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Đại hội có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh dân tộc và tương lai của đất nước vào lúc chúng ta sắp bước vào thế kỷ XXI.
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp là nhiệm vụ hàng đầu bảo đảm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Để thực hiện nhiệm vụ hàng đầu đó, từ sau Đại hội VIII, Bộ Chính trị đã chuẩn bị và triệu tập Hội nghị lần thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội lần thứ IX:
Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ViệtNamxã hội chủ nghĩa.
Đại hội lần thứ IX diễn ra từ 19-4 đến 22-4-2001, tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1.168 đại biểu, thay mặt cho hơn 2 triệu đảng viên trong cả nước. Có 34 đoàn đại biểu quốc tế tham dự đại hội. Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam là Đại hội “Trí tuệ, Dân chủ, Đoàn kết, Đổi mới”, là Đại hội có ý nghĩa lịch sử trọng đại, thể hiện ý chí kiên cường và niềm hy vọng lớn lao của cả dân tộc Việt Nam vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội đánh dấu chặng đường 15 năm đổi mới và 10 năm thực hiện Chiến lược kinh tế – xã hội 1991-2000, là Đại hội đầu tiên của Đảng trong thế kỷ XXI.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 150 uỷ viên. Bộ Chính trị gồm có 15 uỷ viên. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản ViệtNam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX diễn ra trong bối cảnh loài người đã kết thúc thế kỷ XX và bước sang thế kỷ XXI, dân tộc ta đứng trước những thời cơ lớn đan xen với nhiều thách thức lớn. Đại hội xác định mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đã thông qua Báo cáo Chính trị, Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001-2010 và Phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2001-2005 của Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII trình Đại hội. Đại hội đã thông qua toàn văn Điều lệ Đảng bổ sung, sửa đổi.
Đại hội lần thứ X:
Đại hội Trí tuệ, đổi mới, đoàn kết và phát triển bền vững
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản ViệtNamhọp từ ngày 18 đến ngày 25-4-2006 tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1.176 đại biểu thay mặt cho hơn 3,1 triệu đảng viên trong toàn Đảng, trong đó có 144 đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, 1.023 đại biểu được bầu từ đại hội các Đảng bộ trực thuộc Trung ương và 9 đại biểu của Đảng bộ ngoài nước do Trung ương chỉ định theo quy định của Điều lệ Đảng.
Đại hội X của Đảng có nhiệm vụ nhìn thẳng vào sự thật để kiểm điểm, đánh giá khách quan, toàn diện thành tựu và những yếu kém, khuyết điểm, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm (2001 – 2005), Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm (2001-2010) và nhìn lại 20 năm đổi mới; từ đó tiếp tục phát triển và hoàn thiện đường lối, quan điểm, định ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm tới (2006-2010); phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng; bổ sung, sửa đổi một số điểm trong Điều lệ Đảng; bầu Ban Chấp hành Trung ương khoá X.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X gồm 160 Uỷ viên chính thức và 21 Uỷ viên dự khuyết. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã bầu Bộ Chính trị gồm 14 đồng chí, Ban Bí thư Trung ương Đảng gồm 8 đồng chí. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu lại làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X. Đồng chí Nguyễn Văn Chi, Uỷ viên Bộ Chính trị được bầu làm Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương Đảng khoá X.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã thông qua Báo cáo Chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006-2010. Báo cáo nhấn mạnh, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết nhất trí, chung sức, chung lòng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, nêu cao ý chí và quyết tâm tiếp tục đổi mới, hình thành đồng bộ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, phát huy cao nhất các nguồn lực, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và nâng cao chất lượng phát triển, phấn đấu thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm 2006 – 2010, đưa đất nước ta vững bước tiến lên trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đại hội lần thứ XI:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản ViệtNamdiễn ra từ ngày 11 đến ngày 19/1/2011, tại Trung tâm Hội nghị quốc gia, Hà Nội, trong đó họp phiên trù bị vào ngày 11/1 và tiến hành Đại hội chính thức từ ngày 12/1 đến ngày 19/1.
Tham dự Đại hội có 1377 đại biểu, đại diện cho hơn 3,6 triệu đảng viên sinh hoạt ở gần 54000 tổ chức cơ sở Đảng. Ngoài đại biểu chính thức, Trung ương Đảng mời các vị nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Phó Chủ tịch nước, nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ, đại diện bà mẹ Việt Nam anh hùng, đại diện nhân sĩ, trí thức tiêu biểu, đại diện các tôn giáo, thế hệ trẻ và các ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa X đến dự Đại hội.
Chủ đề chính thức của Đại hội XI là “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.”
Chiều ngày 17 tháng 1, Đại hội đã tiến hành bỏ phiếu bầu cử Ban Chấp hành Trung ương khóa XI tại hội trường gồm 175 Ủy viên chính thức và 25 Ủy viên dự khuyết. Theo Quy chế bầu cử tại đại hội đã được thông qua ở phiên trù bị, việc bầu cử được thực hiện bằng hình thức bỏ phiếu kín, theo nguyên tắc tập trung dân chủ, bình đẳng, trực tiếp. Người trúng cử phải đạt số phiếu đa số quá bán. Sau đó, chiều ngày 18/1, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI họp bầu Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Ban Bí thư, và Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Sáng ngày 19 tháng 1, Tổng Bí thư khóa XI là ông Nguyễn Phú Trọng đã ra mắt đại hội, phát biểu và chủ trì cuộc họp báo quốc tế sau đó.
DANH SÁCH CÁC TỔNG BÍ THƯ ĐCSVN
1. Trần Phú: được bầu làm TBT vào tháng 10/1930.
2. Lê Hồng Phong: bầu tại ĐH I.
3. Hà Huy Tập: 10/1936.
4. Nguyễn Văn Cừ: 3/1938.
5. Trường Chinh: 11/1940, chính thức tại HN trung ương VIII (5/1941) ĐH II
6. Lê Duẩn: ĐH III (9/1960, ĐH IV (12/1976, ĐH V (3/1982), (14/7/1986: qua đời)
7. Nguyễn Văn Linh: ĐH VI (12/1986).
8. Đỗ Mười: ĐH VII (6/1991), ĐH VIII (6/1996).
9. Lê Khả Phiêu: tại HN TƯ lần thứ IV (12/1997)
10. Nông Đức Mạnh: ĐH IX (4/2001), ĐH X (4/2006).
11. Nguyễn Phú Trọng: ĐH XI (1/2011).
* Các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc:
Câu 2: Từ sau ngày giải phóng đến năm 2015, Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng đã tổ chức bao nhiêu lần Đại hội Đảng: Hãy nêu thời gian tổ chức Đại hội, số lượng đại biểu tham dự, Số lượng BCH Đảng bộ và đồng chí nào làm bí thư qua các kỳ Đại hội?
Trả lời:
Kể từ ngày Giải phóng đến năm 2015, Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng đã trải qua 10 kỳ Đại hội.
Hoàng Ngọc Trung Hiếu @ 23:49 30/10/2015 Số lượt xem: 329
Vì Sao Người Trẻ Bị Đột Quỵ? – Truyền Hình Gia Lai
Theo số liệu của Hội Tim mạch Việt Nam, cứ 4 người từ 25 – 49 tuổi thì có một người tăng huyết áp và đây là nguyên nhân chính gây nên đột quỵ ở người trẻ.
Theo chia sẻ của chúng tôi Mai Duy Tôn, Giám đốc Trung tâm Đột quỵ, Bệnh viện Bạch Mai, số bệnh nhân trẻ chiếm gần 10% số bệnh nhân đột quỵ nói chung tại trung tâm. Đây là con số không nhỏ và có xu hướng ngày càng gia tăng.
Khi bệnh nhân bị đột quỵ não, các triệu chứng sẽ xảy ra ngay lập tức sau vài phút hoặc sau vài giờ. Các dấu hiệu có thể thấy như: Đột ngột có cảm giác tê hay yếu liệt ở mặt, tay hoặc chân; Đột ngột không nói được, giọng nói bị méo hoặc bệnh nhân bị nói nhảm, vô nghĩa, không hiểu được lời nói; Đột ngột mất thị lực, đặc biệt khi triệu chứng xuất hiện ở một bên mắt; Đột ngột đau đầu dữ dội; Chóng mặt, cơ thể bị mất thăng bằng hoặc không thể thực hiện vận động theo ý muốn…
Cũng theo chúng tôi Mai Duy Tôn, khoảng 1/3 các ca đột quỵ xuất hiện sau khi có một hoặc nhiều cơn đột quỵ nhẹ hay còn gọi là cơn thiếu máu não thoáng qua. Cơn thiếu máu não thoáng qua xảy ra do tình trạng ngừng tạm thời việc cung cấp máu lên não. Các dấu hiệu như mất thị lực đột ngột, yếu một cánh tay hoặc chân trong ít phút có thể xuất hiện do các cơn thiếu máu não thoáng qua. Sau đó, khả nặng vận động có thể sớm trở lại, điều này tạo nên cảm giác chủ quan cho người bệnh, tuy nhiên sẽ rất nguy hiểm nếu bỏ qua. Đây thường là dấu hiệu cảnh báo sớm của bệnh lý đột quỵ não.
Tuy nhiên, phần lớn bệnh nhân nhập viện muộn và hệ lụy là mất đi cơ hội hồi phục trong giờ vàng. Lý do của việc đến viện muộn là do người trẻ thường chủ quan, không nhận diện rõ các dấu hiệu điển hình của đột quỵ và không nghĩ là đột quỵ có thể xảy ra ở người trẻ tuổi. Khi đến viện muộn, họ đã làm mất đi cơ hội vàng để phục hồi và để lại hệ lụy đáng tiếc về sức khỏe, trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Đột quỵ não có thể đe dọa đến tính mạng và dẫn đến tàn tật vĩnh viễn. Vì vậy, chúng tôi Mai Duy Tôn lưu ý: điều tối quan trọng khi phát hiện người thân có dấu hiệu đột quỵ là cần hành động nhanh để kịp đến viện trong giờ vàng.
Những việc cần thực hiện ngay
– Lập tức gọi xe cứu thương: Gọi 115 là lựa chọn thông minh nhất khi người thân của bạn bị đột quỵ. Xe cứu thương 115 sẽ đưa người thân của bạn đến địa điểm có thể thực hiện kỹ thuật cấp cứu bệnh nhân đột quỵ chuẩn nhất và nhanh nhất. Thêm vào đó, nhân viên y tế của 115 được trang bị kiến thức y tế để xử lý các tình huống khẩn cấp khác nhau, họ có thể hỗ trợ cứu sống bệnh nhân trên đường đến bệnh viện và có khả năng làm giảm các tác động của đột quỵ não.
– Phải nói “đột quỵ não” với cấp cứu 115: Khi bạn gọi 115 và yêu cầu trợ giúp, hãy thông báo cho người điều hành rằng bạn nghi ngờ bệnh nhân bị đột quỵ não. Nhân viên cấp cứu 115 sẽ được chuẩn bị phương tiện y tế phù hợp và chọn bệnh viện chuyên điều trị đột quỵ não trước khi họ chuyển bệnh nhân.
– Phải theo dõi các triệu chứng và hỏi chuyện người bệnh: Người thân của bạn có thể không giao tiếp được tại bệnh viện. Vì vậy, trong khi chờ xe cứu thương đến hãy hỏi người bệnh càng nhiều thông tin càng tốt. Hỏi về tất cả các loại thuốc mà người bệnh đang dùng, tình trạng sức khỏe, có dị ứng gì không? Ghi lại tất cả các triệu chứng bao gồm: thời điểm đột quỵ, tiền sử bệnh tật của người bệnh như tăng huyết áp, bệnh tim, ngừng thở khi ngủ, tiểu đường… Những thông tin này rất hữu ích khi bác sĩ khai thác bệnh sử…
– Hãy khuyến khích người bệnh nằm xuống: Nếu người bệnh đang ngồi hoặc đứng, hãy khuyến khích họ nằm nghiêng với tư thế đầu cao. Để giữ cho người bệnh thoải mái, hãy nới lỏng quần áo của họ. Tư thế này giúp tăng cường lưu lượng máu đến não. Tuy nhiên, nếu người bệnh bị ngã thì đừng cố di chuyển họ.
– Thực hiện hồi sinh tim phổi (CPR): Một số người bệnh có thể bất tỉnh trong cơn đột quỵ não. Nếu điều này xảy, hãy đánh giá tình trạng hô hấp của họ, xem họ có còn thở không. Nếu bạn không thể bắt được mạch, hãy bắt đầu thực hiện hồi sinh tim phổi…
– Phải bình tĩnh: Cố gắng giữ bình tĩnh trong suốt quá trình chờ cứu thương 115 đến.
Những điều không nên làm
– Không được cho người bệnh uống thuốc: Mặc dù aspirin là chất làm loãng máu, tuy nhiên không được cho người bệnh uống aspirin hay bất kỳ một loại thuốc nào khác. Cục máu đông chỉ là một trong vô số nguyên nhân dẫn đến đột quỵ não. Đột quỵ não cũng có thể do một mạch máu vỡ trong não gây ra. Vì vậy, khi không biết người thân bị mắc loại đột quỵ thì tuyệt đối không cho họ uống bất kỳ loại thuốc nào.
– Không cho bệnh nhân ăn hoặc uống bất cứ thứ gì: Tránh đưa thức ăn hoặc nước uống cho người bị đột quỵ não. Bởi vì bệnh nhân đột quỵ não thường không tỉnh táo và có thể có rối loạn nuốt. Do đó, cho người bệnh ăn hoặc uống có thể dẫn đến tình trạng nghẹn, gây sặc dẫn đến suy hô hấp và hệ quả là viêm phổi.
– Không cho người bệnh tự đi xe đến bệnh viện: Các triệu chứng đột quỵ não rất khó để nhận biết ngay từ đầu. Người bệnh có thể nhận ra có gì đó không ổn, nhưng không nghi ngờ đột quỵ não. Nếu bạn phán đoán người bệnh đang bị đột quỵ não thì tuyệt đối không để người bệnh tự đi xe đến viện mà hãy gọi 115 và chờ sự giúp đỡ.
“Với với người trẻ, để giảm nguy cơ đột quỵ cần khám sức khỏe định kỳ để tầm soát các yếu tố nguy cơ, nếu có cần điều trị sớm. Điều trị tăng huyết áp, các bệnh lý chuyển hóa, béo phí… nên thay đổi thói quen, sinh hoạt khoa học, bỏ thuốc lá, bỏ rượu. Với bệnh nhân trong gia đình có người từng bất thường mạch máu, tăng đông nên được tư vấn bởi các bác sĩ chuyên khoa để được sàng lọc loại trừ yếu tố nguy cơ” – chúng tôi Mai Duy Tôn khuyến cáo.
Theo VTV
Lượt xem: 31
Lượt xem: 31
Bạn đang xem bài viết Đảng Bộ Huyện Kbang Long Trọng Khai Mạc Đại Hội Đại Biểu Lần Thứ Ix, Nhiệm Kỳ 2022 – 2025 – Truyền Hình Gia Lai trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!