Xem Nhiều 6/2023 #️ Đề Tài Phương Pháp Sử Dụng Đồ Dùng Trực Quan Trong Dạy Học Lịch Sử # Top 8 Trend | Sansangdethanhcong.com

Xem Nhiều 6/2023 # Đề Tài Phương Pháp Sử Dụng Đồ Dùng Trực Quan Trong Dạy Học Lịch Sử # Top 8 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Đề Tài Phương Pháp Sử Dụng Đồ Dùng Trực Quan Trong Dạy Học Lịch Sử mới nhất trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

PHỊNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO BUƠN ĐƠN TRƯỜNG THCS LÊ HỒNG PHONG NGƯỜI THỰC HIỆN: Lê Thị Hoà MỤC LỤC TRANG Lời cảm ơn............................................................................................ .......2 Phiếu nhận xét, xếp loại SKKN.....................................................................3 PHẦN MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài...........................................................................................5 Mục đích nghiên cứu đề tài....................................................................7 Phương pháp nghiên cứu.......................................................................7 PHẦN NỘI DUNG Cơ sở lý luận của vấn đề............... ........................................................9 Cơ sở thực tiễn của vấn đề............... .....................................................10 Thực trạng của vấn đề...........................................................................10 Các biện pháp để giải quyết vấn đề................................................................9 Hiệu quả của SKKN....................................................................................16 PHẦN KẾT LUẬN Kết luận ..................................................................................................18 Bài học kinh nghiệm...............................................................................19 Dự kiến về cải tiến cấu trúc thơi gian tới ...............................................19 Đề nghị, kiến nghị....................................................................................19 Tài liệu tham khảo......................................................................................21 Lời cảm ơn! Trân trọng cảm ơn phòng Giáo dục huyện Buôn Đôn đã tổ chức viết Sáng kiến kinh nghiện để cho giáo viên có dịp nói lên những ý kiến tâm huyết của mình cũng như có dịp trao đổi học hỏi những kinh nghiệm cùng bạn bè, đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường THCS Lê Hồng Phong luôn tạo điều kiện giúp đỡ để tôi hoàn thành đề tài của mình. Chân thành cảm ơn các bạn bè đồng nghiệp giúp đỡ, gĩp ý để tôi hoàn thành đề tài của mình. Trong thời gian nghiên cứu và đưa ra những kinh nghiẹâm của mình chăc cũng còn có nhiều thiếu sót, Rất mong sự góp ý của quý cấp lãnh đạo để cho đề tài của tôi hoàn thiện và có tính khả thi cao hơn nữa. Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn! PHỊNG GD & ĐT BUƠN ĐƠN CỘNG HỒ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRƯỜNG THCSLê Hồng Phong Độc lập – Tự do – Hạnh phúc PHIẾU NHẬN XÉT, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Tên đề tài: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học mơn lịch sử Tác giả: Lê Thị Hồ Chức vụ: Dạy mơn lịch sử Bộ phận cơng tác: Tổ xã hội HỘI ĐỒNG KHGD TRƯỜNG Nhận xét: .. Xếp loại:. Ngày. tháng năm 2009 HĐKH TRƯỜNG PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BUƠN ĐƠN Nhận xét: .. Xếp loại:. Ngày. tháng năm 2009 TRƯỞNG PHỊNG A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1/ Lý do chọn đề tài: Cùng với sự phát triển của xã hội lồi người, cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ như một luồng giĩ mới thổi vào và làm lay động nhiều lĩnh vực trong cuộc sống. Hơn bao giờ hết con người đang đứng trước những diễn biến thay đổi to lớn, phức tạp về lịch sử xã hội và khoa học- kỹ thuật. Nhiều mối quan hệ mâu thuẫn của thời đại cần được giải quyết trong đĩ cĩ mâu thuẫn yêu cầu ngành GD- ĐT nĩi chung và người thầy chúng ta nĩi riêng phải giải quyết ngay, đĩ là mâu thuẫn giữa quan hệ sức ép của khối lượng tri thức ngày càng tăng và sự tiếp nhận của con người cĩ giới hạn, bởi vì sự nhận thức của con người nĩi chung là tuyệt đối và khơng cĩ giới hạn song sự thu nhận, hiểu biết kiến thức của mỗi con người đều hữu hạn và tương đối. Như chúng ta đã biết, mơn lịch sử cĩ vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ. Từ những hiểu biết về quá khứ, học sinh hiểu rõ truyền thống dân tộc, tự hào với thành tựu dựng nước và giữ nước của tổ tiên và từ đĩ xác định nhiệm vụ trong hiện tại cĩ thái độ đúng đối với sự phát triển hợp quy luật cuả tương lai. Như chúng ta thấy, con đường nhận thức ngắn nhất sẽ là con đường “Đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng” và phương tiện hết sức cần thiết để đi được trên “Con đường” nhận thức này chính là các “Dụng cụ trực quan”. Đặc biệt trong hướng dạy học mới hiện nay, “Hướng tích cực hố hoạt động học tập của học sinh”, yêu cầu người giáo viên phải biết tạo điều kiện cho học sinh tự tìm tịi, khai thác kiến thức, biết điều khiển hoạt động nhận thức của mình bằng các “Đồ dùng trực quan”, chính vì thế mà “Đồ dùng trực quan” đã trở thành một nhân tố khá quan trọng trong hoạt động dạy học, vì nĩ vừa là phương tiện giúp học sinh khai thác kiến thức, vừa là nguồn tri thức đa dạng, phong phú mà học sinh rất dễ nắm bắt. Chúng ta cũng biết, Hội nghị BCH TƯ Đảng lần thứ 2 khố VIII đã nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp GD-ĐT khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy- học đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh ” Trong việc đổi mới, cải tiến phương pháp dạy học, việc phát huy tính tích cực của học sinh cĩ ý nghĩa rất quan trọng. Bởi vì xét cho cùng cơng việc giáo dục phải được tiến hành trên cơ sở tự nhận thức,tự hành động. Giáo dục phải được thực hiện thơng qua hành động và hành động của bản thân (tư duy và thực tiễn). Vì vậy việc khơi dậy, phát triển ý thức, ý chí, năng lực, bồi dưỡng, rèn luyện phương pháp tự học là con đường phát triển tối ưu của giáo dục. Qua nhiều năm giảng dạy mơn lịch sử ở trường THCS đặc biệt là từ khi thực hiện thay sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy học tơi nhận thấy đây là một vấn đề bổ ích về lí luận cũng như thực tiễn. Nĩ cĩ ý nghĩa rất lớn đối với việc nâng cao chất lượng bộ mơn bởi vì đối tượng là học sinh THCS thì về mặt thể chất cũng như tinh thần, sự nhận thức, năng lực tư duy của các em đã phát triển ở mức độ cao hơn các em ở bậc tiểu học và các em ở lớp trên thì cao hơn các em ở lớp dưới. Nếu được khơi dậy đúng mức tính tích cực, sự chủ động trong học tập cũng như các hoạt động khác khơng những làm cho các em thu nhận được một lượng tri thức tốt nhất cho bản thân mà cịn là cơ sở vững chắc để các em bước vào bậc THPT – nơi mà các em sẽ phải cĩ năng lực tư duy và ý thức tự học cao hơn. Từ trước tới nay đã cĩ rất nhiều người đề cập đến vấn đề phát huy tích tính cực của học sinh trong học tập lịch sử từ bậc THCS đến đại học. Tuy nhiên những vấn đề mà các nhà nghiên cứu đưa ra chỉ áp dụng vào một bậc học cụ thể mà ít đi sâu vào một khối lớp cụ thể vi vậy trong khuơn khổ bài viết này tơi chỉ xin lưu ý đến một khía cạnh gắn liền với việc giảng dạy nhiều năm mơn lịch sử, đĩ là một số biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử với mục đích là gĩp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy mơn lịch sử ở trường THCS nơi tơi đang giảng dạy, đồng thời cũng là để trao đổi ,học tập kinh nghiệm của các thầy giáo,các đồng nghiệp nhằm nâng cao trình độ chuyên mơn cũng như phương pháp dạy học.Những vấn đề mà tơi nêu ra trên cơ sở được trang bị những kiến thức cơ bản nhất, phương pháp dạy học lịch sử cũng như việc sử dụng đồ dùng trực quan, thực nghiệm sư phạm ở trường THCS. Nếu thầy giáo chỉ làm chức năng truyền thụ kiến thức thì sẽ thực hiện phương châm “Thầy giáo là trung tâm’’ học sinh sẽ thụ động tiếp nhận kiến thức, sẽ học thuộc lịng những gì thầy giáo giảng và cho ghi cũng như trong sách đã viết. Đĩ chính là cách giảng dạy giáo điều, nhồi sọ biến giáo viên thành người thuyết trình, giảng giải và học sinh thụ động tiếp nhận những điều đã nghe, đã đọc. Cĩ nhà giáo dục đã gọi đĩ là cách “Nhai kiến thức rồi mớm cho học sinh”. Chúng ta đều biết rằng việc dạy học được tiến hành trong một quá trình thống nhất gồm hai khâu cĩ tác dụng tương hỗ nhau: giảng dạy và học tập. Cả việc giảng dạy và học tập đều là một quá trình nhận thức, tuân theo những quy luật nhận thức. Nhận thức trong dạy học được thể hiện trong hoạt động của giáo viên và học sinh đối với việc truyền thụ và tiếp thu một nội dung khoa học được quy định trong chương trình với những phương pháp dạy học thích hợp, những phương tiện hình thức cần thiết để đạt được kết quả nhất định đã đề ra. Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của việc phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập. Nhà giáo dục người Đức là Disterverg đã khẳng định đúng đắn rằng: “Người giáo viên tồi truyền đạt chân lí, người giáo viên giỏi dạy cách tìm ra chân lí”. Điều này cĩ nghĩa rằng người giáo viên khơng chỉ giới hạn cơng việc của mình ở việc đọc cho học sinh ghi chép những kiến thức cĩ sẵn, bắt các em học thuộc lịng rồi kiểm tra điều ghi nhớ của các em thu nhận được ở bài giảng của giáo viên hay trong sách giáo khoa. Điều quan trọng là giáo viên cung cấp cho các em những kiến thức cơ bản (bao gồm kiến thức khoa học, sự hiểu biết về các quy luật, nguyên lí và các phương pháp nhận thức) làm cơ sở định hướng cho việc tự khám phá các kiến thức mới, vận dụng vào học tập và cuộc sống. Vì vậy, việc cho các em quan sát đồ dùng trực quan rồi từ đĩ các em rút ra những nhận xét, tiếp thu tri thức, bồi dưỡng, rèn luyện về học tập là con đường phát triển tối ưu của giáo dục - đĩ chính là con đường lấy học sinh làm trung tâm, làm chủ thể của việc nhận thức với sự hướng dẫn, giáo dục tích cực cĩ hiệu quả của giáo viên, điều này được thực hiện trên cơ sở hoạt động tích cực, tự giác của học sinh. Đây là tính ưu việt của phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh được gọi là phương pháp dạy học mới để phân biệt với phương pháp dạy học cũ hay cịn gọi là kiểu dạy học truyền thống. Xuất phát từ tình hình thực tế đất nước, đặc biệt là trước cơng cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển như vũ bão, việc chỉnh lý chương trình giáo dục và thay đổi nội dung sách giáo khoa là một vấn đề rất cấp thiết và vơ cùng quan trọng. Chính vì lẽ đĩ mà “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Nhằm để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục và chương trình giáo dục đổi mới hiện nay, người giáo viên cần phải đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với hướng dạy học “Lấy học sinh làm trung tâm”. Một trong những phương pháp đặc trưng bộ mơn Lịch sử là phương pháp “Sử dụng dụng cụ trực quan” trong giảng dạy. Từ thực tế cho thấy chuẩn bị “Đồ dùng trực quan” làm dụng cụ trực quan là cơng tác rất khĩ khăn, rất cơng phu và rất tốn kém như: + Sử dụng “Đồ dùng trực quan” như thế nào để đảm bảo tính trực quan. + Sử dụng “Đồ dùng trực quan” như thế nào để đạt hiệu quả cao trong giảng dạy Lịch sử lại là một vấn đề càng khĩ khăn hơn. Đĩ cũng chính là vấn đề của mỗi người giáo viên Lịch sử đã và đang quan tâm hiện nay, với hy vọng gĩp phần nâng cao chất lượng giảng dạy bộ mơn lịch sử. Vì vậy mà trong bài viết này tơi xin trình bày: “Phương pháp sử dụng Đồ dùng trực quan trong giảng dạy Lịch sử” sẽ giúp cho việc dạy học theo phương pháp mới và việc thực hiện chương trình giáo dục mới sẽ đạt hiệu quả cao hơn như mong muốn. 2. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài: Về lí luận và thực tiễn, việc phát huy tính tích cực của học sinh trong việc sử dụng đồ dùng trực quan trong học tập mơn lịch sử là điều cần thiết và quan trọng để nâng cao hiệu quả giáo dục. Đĩ chính là lí do chủ yếu để nghiên cứu vấn đề này. Nội dung gồm: a. Cơ sở lí luận của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy-học lịch sử b. Thực tiễn của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy -học ở trường THCS. c. Những biện pháp sư phạm để phát huy sử dụng đồ dùng trực qua cĩ hiệu quả. 3. Phương pháp nghiên cứu: a- Đối tượng nghiên cứu. - Nội dung chương trình SGK, sách bài tập lịch sử THCS . - Đối tượng HS THCS đặc biệt là HS lớp 9. - Giáo viên dạy bộ mơn và thực trạng việc sử dụng đồ dùng trực quan ở trường THCS hiện nay. b- Nhiệm vụ, mục đích. - Nhìn rõ thực trạng việc sử dụng đồ dùng trực quan ở trường THCS những ưu điểm, nhược điểm. - Nguyên tắc và phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan. - Rút ra những yêu cầu chung và bài học kinh nghiệm khi sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy gắn với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học lịch sử. c- Phương pháp nghiên cứu. - Điều tra, phán đốn. - Phương pháp phân tích, tổng hợp. - Phương pháp thực nghiệm. - Phương pháp khảo sát đánh giá. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ Cơ sở lí luận của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường THCS. Hiện nay cĩ nhiều quan niệm, ý kiến khác nhau về vấn đề phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học nĩi chung, dạy học lịch sử nĩi riêng Việc xây dựng cơ sở lí luận là điều quan trọng trong thực tiễn dạy học bộ mơn. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đối với học sinh lớp 9 là lớp cuối bậc THCS vì vậy mục tiêu giáo dục đặt ra ở đây là các em phải nắm được những kiến thức cơ bản nhất lịch sử dân tộc cũng như lịch sử thế giới được xuyên suốt từ lớp 6 đến lớp 9. Các em phải được rèn luyện ở mức độ cao hơn khả năng tự học, tự nhận thức và hành động cũng như cĩ những tìm tịi trong tư duy,sáng taọ. So sánh kiểu dạy học truyền thống và phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh thơng qua việc tiếp cận, làm việc với đồ dùng trực quan chúng ta thấy rõ những điều khác biệt cơ bản trong quá trình dạy và học. Xin trích dẫn một vài ví dụ của giáo sư Phan Ngọc Liên và tiến sĩ Vũ Ngọc Anh để thấy rõ sự khác biệt đĩ: KIỂU DẠY HỌC TRUYỀN THỐNG PPDH PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HS 1. Cung cấp nhiều sự kiện, được xem là tiêu chí cho chất lượng giáo dục. 2. GV là nguồn kiến thức duy nhất, phần lớn thời gian trên lớp dành cho GV thuyết trình, giảng giải, HS thụ động tiếp thu kiến thức thơng qua nghe và ghi lại lời của GV. 3. Học sinh chỉ làm việc một mình trên lớp, ở nhà hoặc với GV khi kiểm tra. 4. Nguồn kiến thức thu nhận được của HS rất hạn hẹp, thường giới hạn ở các bài giảng của GV, SGK 5. Hình thức tổ chức dạy học chủ yếu ở trên lớp 1. Cung cấp những kiến thức cơ bản được chọn lựa phù hợp với yêu cầu, trình độ của HS, nhằm vào mục tiêu đào tạo. 2. Ngồi bài giảng của GV ở trên lớp HS được tiếp xúc với nhiều nguồn kiến thức khác, vốn kiến thức đã học, kiến thức của bạn bè, SGK, tài liệu tham khảo, thực tế cuộc sống. 4. Nguồn kiến thức của HS thu nhận rất phong phú, đa dang: Lời nĩi, tài liệu viết, đồ dùng trực quan, di tích lịch sử, phịng truyền thống, nhân chứng lịch sử.... 5. Dạy ở trên lớp, ở thực địa, ở bảo tàng, các hoạt động ngoại khố.... (Trích “ Áp dụng phương pháp dạy học phát huy tính tích cựccủa HS trong mơn lịch sử). GS. Phan Ngọc Liên và TS Vũ Ngọc Anh. NXB Đại học SP, Hà Nội 2002 Như vậy qua so sánh hai kiểu dạy học trên thì ta thấy phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh sẽ đem lại hiệu quả cao hơn .Tuy nhiên nĩ địi hỏi giáo viên và học sinh phải được “Tích cực hố’’ trong quá trình dạy- học, phải chủ động sáng tạo. Muốn đạt được điều đĩ GV cần áp dung nhiều phương pháp dạy - học trong đĩ cĩ phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan. Cần phải tiếp thu những điểm cơ bản cĩ tính nguyên tắc của cách dạy truyền thống song phải luơn luơn đổi mới, làm một cuộc cách mạng trong người dạy và người học để khắc phục sự bảo thủ, thụ động như: Giáo viên chỉ chuẩn bị giảng những điều học sinh dễ nhớ, học sinh chỉ chú trọng ghi lời giảng của giáo viên và kiến thức trong sách để trình bày lại khi kiểm tra. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ: Trước sự đổi mới từng ngày, từng giờ của tri thức khoa học, cùng với sự bùng nổ nhanh về kiến thức qua các phương tiện thơng tin đại chúng đặc biệt là của internet thì việc truyền thụ kiến thức cho học sinh địi hỏi phải chính xác, kịp thời và cĩ hệ thống, cĩ định hướng là nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên. Chính vì vậy, để dạy tốt một tiết học giáo viên khơng ngừng phải nghiên cứu, tìm tịi nâng cao sự hiểu biết của mình, và phải cĩ kĩ năng sử dụng các tư liệu đặc biệt là đồ dùng trực quan minh họa cho tiết dạy. Tri thức và tầm hiểu biết của người giáo viên được thể hiện qua quá trình giáo dục và giảng dạy. Kiến thức giáo viên truyền thụ cho học sinh phải chính xác, đảm bảo yêu cầu cơ bản của mục tiêu giáo dục của cấp học. Phải tổ chức học tập một cách linh hoạt, chủ động sáng tạo để học sinh tự mình khám phá và chiếm lĩnh kiến thức. Trong những năm gần đây các phương tiện, đồ dung cho dạy trên lớp của giáo viên tơi thấy đã cĩ sự đầu tư và đổi mới. Song phương pháp, tổ chức một số giáo viên cịn lúng túng, chưa xây dựng quy trình và kế hoạch một cách cụ thể nên hiệu quả chưa cao. Chất lượng dạy và học cĩ chuyển biến nhưng chưa mạnh. Từ yêu cầu thực tiễn đĩ, người giáo viên cần phải học tập, tìm hiểu tự bồi dưỡng cho mình phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan để nâng cao hiệu quả trong dạy học lịch sử để đáp ứng yêu cầu hiện nay. III. THỰC TRẠNG CỦA VẦN ĐỀ: Thực tiễn của việc dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong trường THCS hiện nay. Trong vài năm gần đây, bộ mơn lịch sử nĩi chung và mơn lịch sử lớp 9 nĩi riêng trong trường THCS đã được chú trọng hơn trước. Điều đĩ được thể hiện ở chỗ mơn lịch sử được xếp ngang hàng với các mơn khác như Lí , Hố được tổ chức thi học kì cũng được thi tập trung theo lịch và đề của phịng giáo dục, việc ra đề cũng được chú trọng hơn, việc thi tuyển học sinh giỏi các cấp được tổ chức thường xuyên với quy mơ và chất lượng, sát với thực tế. Cung cấp thêm các trang thiết bị và tài liệu tham khảo phục vụ cho việc dạy và học. Tuy nhiên qua hơn 20 năm giảng dạy bộ mơn này tơi thấy rằng việc dạy học mơn lịch sử hiện nay vẫn cịn giặp rất nhiều khĩ khăn, nhưng trở ngại nhất là việc phát huy tính tích cực của học sinh trong việc quan sát, sử dụng đồ dùng trực quan, tuy đã được phổ biến, học tập bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ nhưng kết quả đạt được khơng đáng là bao. Điều đĩ đã dẫn đến chất lượng bộ mơn nĩi chung đối với học sinh lớp 9 nĩi riêng khi ra trường là khơng cao, chưa đáp ứng được nhu cầu giáo dục và mục tiêu đào tạo đặt ra. Thực trạng của vấn đề này cĩ thể giải thích ở những nguyên nhân cơ bản sau đây: Thứ nhất là vẫn tồn tại một quan niệm cố hữu cho rằng mơn Lịch sử cũng như Địa lí, Kĩ thuật, Thể dục, GDCD đều là những mơn phụ. Điều này được thể hiện việc quan tâm đến chất lượng bộ mơn từ cấp lãnh đạo chưa đúng mức. Theo tìm hiểu của cá nhân tơi nhiều trường giáo viên dạy Văn, Địa lí ..cĩ thể dạy sử do đĩ khơng đáp ứng yêu cầu của bộ mơn đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. Thứ hai là về cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và học tập tuy đã được đầu tư nhưng vẫn cịn thiếu so với yêu cầu giáo dục hiện nay về đồ dùng dạy học nhất là các trường vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khĩ khăn. Tình trạng dạy chay vẫn cịn khá phổ biến. Trong suốt quá trình học bộ mơn từ lớp 6 đến lớp 9 cả thầy và trị chưa bao giờ cĩ điều kiện tham quan một di tích lịch sử vì khơng cĩ kinh phí. Điều đĩ làm cho vốn kiến thức kiến thức của các em chỉ bĩ gọn trong sách vở và bài giảng . Nguyên nhân thứ ba là việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong học tập bộ mơn lịch sử cịn nhiều hạn chế một phần là do chính những cơ chế, những quy định từ cấp trên. Trong những năm trở lại đây mơn lịch sử được quan tâm nhiều hơn, đồ dùng, tài liệu học tập được cung cấp đầy đủ hơn nhưng do nhu cầu của xã hội nên học sinh ít thích học mơn lịch sử . Ngồi ra cách tổ chức một số cuộc thi cử cũng cịn nhiều hạn chế, đĩ là chỉ chú trọng về mặt kiểm tra lí thuyết mà coi nhẹ bài tập thực hành, ít chú ý đến việc phát triển năng lực sáng tạo. Cuối cùng điều quan trọng là ý thức trá

Sáng Kiến Kinh Nghiệm Phương Pháp Sử Dụng Đồ Dùng Trực Quan Trong Dạy Học Lịch Sử

ò mò, phát triển năng lực nhận thức. Từ đó làm cho các em khâm phục, học tập được đạo đức, tài năng của họ. Tuy nhiên phải chọn thời gian phù hợp để đưa chân dung của nhân vật lịch sử ra. Khi sử dụng, giáo viên phải phân tích, định hướng cho học sinh, tự mình đánh giá vai trò, tính cách của nhân vật . Ví dụ: Khi giảng bài "Cách mạng Việt Nam trước khi đảng cộng sản ra đời" dạy đến mục III. "Việt Nam Quốc dân đảng và cuộc khởi nghĩa Yên Bái" giáo viên cho học sinh quan sát chân dung của Nguyễn Thái Học và giới thiệu về tiẻu sử của vị lãnh tụ của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng sẽ gây được hứng thú cho học sinh trong việc tìm hiểu về tổ chức cũng như giáo dục cho học sinh tinh thần dũng cảm, sự hy sinh quên mình vì đất nước của những thế hệ cha anh đi trước hoặc khi dạy bài "Đảng cộng sản Việt Nam ra đời'' khi dạy đến mục "Luận cương chính trị 10 - 1930'' giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh Trần Phú. Sau đó cho học sinh phát biểu nêu lên sự hiểu biết về nhân vật lịch sử này, giáo viên kể cho các em nghe về tiểu sử, quá trình hoạt động cách mạng và khí tiết của người chiến sĩ cộng sản Trần Phú - Tổng bí thư đầu tiên của Đảng ta, Có thể là hình vẽ được giáo viên chuẩn bị trước, (như hình vẽ minh hoạ các sự kiện lịch sử , ...) Đối với hình vẽ: Ta cần cho học sinh tiến hành theo các bước sau: - Đọc tên và cho biết các sự kiện lịch sử trên hình vẽ . - Tìm hiểu mốc thời gian diễn ra sự kiện lịch sử, địa phương diễn ra sự kiện đó. - Rút ra nguyên nhân ý nghĩa, bài học lịch sử từ sự kiện đó. *) Tranh ảnh Lịch sử : Tranh ảnh trong SGK là một phần đồ dùng trực quan trong quá trình dạy học. Từ việc quan sát, học sinh sẽ đi tới công việc của tư duy trừu tượng. Thông qua quan sát miêu tả, tranh ảnh học sinh được rèn luyện kỹ năng diễn đạt , lựa chọn ngôn ngữ. Từ việc quan sát thường xuyên các tranh ảnh lịch sử , giáo viên luyện cho các em thói quen quan sát và khả năng quan sát vật thể một cách khoa học, có xem xét, phân tích, giải thích để đi đến những nét khái quát rút ra những kết luận lịch sử . Ví dụ : Khi dạy bài "Hoạt động của Nguyễn ái Quốc ở nước ngoài (1919- 1925)'' giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đang phát biểu ý kiến tại đại hội Tua (12- 1920). Sau khi tường thuật giáo viên cho học sinh cảm nhận được việc Nguyễn Ái Quốc bắt đầu tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lê nin để truyền bá vào Việt Nam từ đó có tình cảm tự hào về con người Nguyễn Ái Quốc hoặc là bài 19 "Phong trào cách mạng trong những năm 1930 -1935" mục "II. Phong trào cách mạng 1930 -1931 giáo viên cho các em quan sát bức ảnh Xô Viết Nghệ Tĩnh các em sẽ hiểu sâu sắc hơn không khí cũng như tinh thần đấu tranh của nhân dân Nghệ Tĩnh và từ đó các em rút ra ý nghĩa của phong trào... Như vậy việc sử dụng tranh ảnh vừa khai thác được nội dung lịch sử thể hiện trong tranh ảnh bổ sung cho bài giảng, vừa phát huy được năng lực tư duy cho HS, kích thích trí tưởng tượng phong phú, tạo hứng thú học tập cho các em + Cách sử dụng có hiệu quả: - Đọc tên bức tranh, xác định xem bức tranh đó thể hiện gì? Ở đâu? - Tường thuật lại diễn biến của sự kiện lịch sử . - Rút ra được nguyên nhân ý nghĩa và bài học lịch sử. Từ đó giáo dục lòng yêu nước biết ơn các anh hùng của dân tộc. b/ Mô hình: Dùng những vật liệu đơn giản để tạo ra những hiện vật, những sự kiện lịch sử đơn giản để minh hoạ cho tiết dạy sinh động hơn. Giáo viên giới thiệu mô hình đang sử dụng, mô hình là vật tượng trưng cho sự kiện lịch sử nào? . Dùng câu hỏi hướng dẫn học sinh quan sát, trả lời tìm ra các sự kiện lịch sử Ví dụ: Trong mô hình Cảnh Thoát Hoan thua chạy. Giáo viên đặt câu hỏi : Thoát Hoan phải thua chạy chui vào ống đồng trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ mấy và diễn ra vào năm nào? Hoặc khi dạy bài lịch sử lớp 6 về công cụ của người nguyên thuỷ giáo viên cho học sinh quan sát mô hình về các lưỡi cày, liềm, rìu đá...các em sẽ cảm nhân được rõ ràng hơn, nhớ lâu hơn và các em sẽ mô tả được chính xác hơn những công cụ của thời tiền sử. + Từ các mô hình giáo viên giúp học sinh hiểu và nắm chắc các kiến thức Lịch sử ... + Cách sử dụng có hiệu quả: - Giáo viên cho học sinh quan sát nhận biết đó là mô hình gì? - Mô hình đó gắn với sự kiện nào. - Rút ra ý nghĩa, bài học c/ Bản đồ, lược đồ: *) Bản đồ: Bản đồ là phương tiện trực quan rất quan trọng và sinh động trong dạy học lịch sử. Trên bản đồ lịch sử các sự kiện luôn được thể hiện một không gian, thời gian, địa điểm cùng một số yếu tố địa lí nhất định Ví dụ: Nếu chỉ dùng lời giáo viên khó có thể tạo cho học sinh biểu tượng về tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mà thực dân Pháp và cố vấn Mĩ cho là "một pháo đài bất khả xâm phạm", "một cối xay thịt Việt minh'. Nếu giáo viên biết kết hợp sử dụng bản đồ chiến trường Đông dương 1953-1954, bản đồ chiến dịch Điện Biên Phủ và một số hình ảnh khác thì học sinh có thể hiểu được khá rõ về vấn đề này: Điện Biên Phủ có núi cao bao bọc, hiểm trở, là vị trí chiến lược có thể kiểm soát cả chiến trường Lào và Bắc bộ . Thông qua quan sát bản đồ, đọc kí hiệu, liên hệ với kiến thức địa lý đã học, nội dung lịch sử được biểu diễn trên bản đồ sẽ được học sinh nhanh chóng nắm bắt, việc sử dụng bản đồ lịch sử còn góp phần phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ, đặc biệt là kĩ năng đọc bản đồ, củng cố thêm kiến thức về Địa lí . Chú ý: Khi sử dụng bản đồ nhất thiết phải giới thiệu cụ thể cho các em kí hiệu ghi trên bản đồ, đồng thời tập cho các em quan sát, đọc bản đồ và tìm hiểu nội dung lịch sử được thể hiện trên bản đồ . Việc học lịch sử nhất thiết phải có bản đồ: "Có bản đồ là có địa lý". Vậy học địa lý nhất thiết phải có bản đồ. Bản đồ vừa là phương tiện giúp các em khai thác kiến thức và là nguồn tri thức địa lý phong phú, nội dung địa lý đã được mã hoá trở thành một thứ ngôn ngữ đặc biệt đó là ngôn ngữ bản đồ. - Thông qua việc sử dụng bản đồ giáo viên hướng dẫn học sinh rèn luyện được các kỹ năng bản đồ. - Đọc tên bản đồ để biết đối tượng lịch sử được thể hiện trên bản đồ là gì. - Hiểu bản đồ, đọc được bản chú giải để biết cái người ta thể hiện đối tượng đó trên bản đồ như thế nào, bằng các ký hiệu gì ? Bằng màu sắc gì? ... - Xác định vị trí, phương hướng của các địa điểm trên bản đồ. - Cao hơn nữa giáo viên hướng dẫn học sinh biết dựa vào bản đồ, kết hợp với các kiến thức lịch sử để phân tích, so sánh, giải thích các mối quan hệ của các sự kiện giữa các đối tượng. " Mở đầu bằng bản đồ và kết thúc bằng bản đồ" *) Lược đồ: Trong giảng dạy lịch sử giáo viên có thể sử dụng lược đồ câm học sinh nhớ các sự kiện, địa danh diễn ra sự kiện và điền vào lược đồ với cách này học sinh sẽ khắc sâu trí nhớ. Cũng có thể giáo viên dùng những kí hiệu, biểu tượng để đính các địa danh, nơi diễn ra sự kiện nổi bật hoặc diễn biến của cuộc khởi nghĩa, chiến dịch... Giáo viên cũng có thể sử dụng lược đồ để trình bày diễn biến, sự kiện như sử dụng bản đồ - Thông qua lược đồ giúp học sinh hiểu và nhớ lâu hơn các sự kiện. - Bước đầu tập cho học sinh thể hiện các sự kiện đơn giản sau đó thực hành với các chiến dịch, các trận đánh có quy mô lớn hơn. d/ Băng video: Là loại phương tiện và thiết bị kỹ thuật hiện đại, tạo cho học sinh có những phương pháp học tập mới, biết quan sát, nghe, nhìn; có khả năng lĩnh hội kiến thức với chất lượng cao, tốc độ nhanh. Với loại phương tiện này người giáo viên đòi hỏi phải có sự chuẩn bị công phu: Phòng tối, tivi, đầu video... và cơ bản là phải hướng dẫn, chỉ đạo tốt học sinh mới lĩnh hội chắc kiến thức. Ví dụ: Khi dạy bài Chiến cuộc đông xuân 1953-1954 GV sử dụng băng video học sinh rất dễ dàng hiểu được quá trình chuẩn bị của quân và dân ta cũng như diễn biến của chiến dịch, HS tiếp thu bài nhanh, rất hứng thú với bài học hoặc bài 30 "Hoàn thành giải phóng miền Nam thống nhất đất nước 1973 - 1975" giáo viên sử dụng băng video thì học sinh dễ cảm nhận được hào khí của dân tộc, của 5 cánh quân cùng lúc vượt qua tuyến phòng thủ bên ngoài của địch tiến vào trung tâm Sài Gòn..., Diễn biến của chiến dịch như thế học sinh sẽ tiếp thu bài rất nhanh và sẽ nhớ lâu những hình ảnh mà mình đã được xem qua băng hình... đ/ Sử dụng đèn chiếu trong dạy học lịch sử: Sử dụng đèn chiếu là một phương pháp mới trong dạy học lịch sử. Một số tranh ảnh, phần bài học quan trọng giáo viên có thể pho to hoặc viết vào giấy trong sau đó đưa lên máy chiếu học sinh sẽ thấy thích thú hơn, nhớ lâu hơn khi được học trên máy chiếu . Ví dụ : Khi dạy bài Nhật bản tôi đã pho to màu một số hình ảnh trong bài như: tàu chạy trên đệm từ, trồng trọt theo phương pháp mới và khi dạy đến phần khoa học kĩ thuật đã minh hoạ bằng những hình ảnh này trên máy chiếu, học sinh đã rất thích thú phấn khởi, ngạc nhiên e/ Sử dụng giáo án điện tử: Đây là một phương pháp dạy học hiện đại nhất hiện nay, nó có thể giúp học sinh quan sát tất cả các đồ dùng như bản đồ, sơ đồ, lược đồ, tranh ảnh, mô hình và cả video clip một cách sinh động. Việc sử dụng các thiết bị dạy học này cũng không phải là điều dễ dàng, bản thân tôi cũng đã thực hiện dạy đối với lớp 9 trong năm học 2009 - 2010 qua đó tôi nhận thấy học sinh rất hứng thú với tiết học, học sinh thì đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, hiệu quả thu được rất cao, học sinh có thể quan sát các hình ảnh, thành tựu, các trận đánh, chiến dịch một cách rõ nét, sinh động và chân thực. Song để dạy được một giờ như vậy phải có sự chuẩn bị rất công phu, phải biết sử dụng các phương tiện hiện đại, phải sưu tầm nhiều loại tư liệu khác nhau (GV tránh tình trạng sử dụng quá nhiều hình ảnh, nếu lạm dụng sẽ làm cho tiết học kém hiệu quả vì chỉ giống như một tiết tham quan học sinh không nắm được kiến thức trọng tâm của bài học và việc sử dụng các hiệu ứng không phù hợp cũng dễ gây mất sự chú ý, tập của học sinh vào kiến thức cần đạt). - Mặt khác, ta có thể sử dụng máy chiếu như một đồ dùng trực quan để minh họa các hình ảnh, trình bày bản đồ.phục vụ cho tiết dạy đạt hiệu quả như mong muốn. Như vậy phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường THCS là một việc làm rất quan trọng, rất phong phú và có ý nghĩa lớn cần được mỗi thầy giáo, cô giáo quán triệt một cách sâu sắc và vận dụng sáng tạo trong công tác giảng dạy của mình, trong hoạt động nội khoá cũng như hoạt động ngoại khoá. Tuy nhiên để làm tốt việc này cần có sự chuyển biến mạnh mẽ mang tính cách mạng trong phương pháp dạy - học lịch sử và phải có thời gian kiểm nghiệm sự đúng đắn của nó so với kiểu dạy truyền thống. Mỗi giáo viên sau khi vận dụng các phương pháp dạy học này vào từng bài phải có sự nhận xét, đánh giá, rút kinh nghiệm và trao đổi, phổ biến với đồng nghiệp để khẳng định những biện pháp sư phạm trong việc nâng cao chất lượng bộ môn. Cần trách khuynh hướng "tách lí thuyết với thực tế"...đáp ứng được những yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá . V. HIỆU QUẢ CỦA SKKN: Qua việc áp dụng phương pháp sử dụng dụng cụ trực quan ở chương trình lịch sử 9 mới tôi nhận thấy kết quả khả quan như sau: - Phần lớn các em đã có ý thức học tập bộ môn và có phương pháp học tập tốt. - Các em đã hiểu rõ và nắm chắc các khái niệm, diễn biến của các chiến dịch. - Đại bộ phận các em đã hình thành được một số kỹ năng lịch sử đơn giản, hiểu, đọc và trình bày diễn biến trên lược đồ, bản đồ. - Cơ bản là các em biết quan sát tranh ảnh, hình vẽ để rút ra kiến thức cần nắm, biết phân tích bản đồ, sự kiện. - Cơ bản là các em biết tích cực, chủ động trong việc lĩnh hội các kiến thức lịch sử, giải thích, phân tích được các sự kiện lịch sử, biết liên hệ thực tế. * Kết quả cụ thể: Đây là năm thứ 5 áp dụng đổi mới phương pháp dạy học nhưng là năm thứ hai trường áp dụng rộng rãi các phương tiện và sử dụng nhiều đồ dùng trực quan trong dạy - học nói chung và đối với bộ môn lịch sử nói riêng. Qua việc áp dụng phương pháp sử dụng một số đồ dùng trực quan phù hợp với nội dung bài dạy ở một số lớp điển hình để thử nghiệm có kết quả như sau: - Năm học 2007 - 2008 ( trước khi áp dụng): Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu TB trở lên SL TL % SL TL % SL TL % SL TL % SL TL % 7a 27 2 7,4 6 22,22 11 70,38 8 23,6 19 70,37 7b 29 1 3,4 4 13,79 15 51,78 9 31,03 15 51,72 9a 30 1 3,3 5 16,6 18 57,4 6 20,00 24 80,00 9b 32 4 12,5 6 18,75 17 52,15 5 16,6 17 84,37 - Năm học 2008 - 2009 ( Sau khi áp dụng): + 100% học sinh có sách giáo khoa, sách bài tập thực hành, sách tham khảo. + Áp dụng nhiều phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan khác nhau đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử. + 90% học sinh thích học bộ môn Lịch sử Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu TB trở lên SL TL % SL TL % SL TL % SL TL % SL TL % 7a 31 5 16,12 15 48,33 8 25,88 3 9,67 28 90,33 7b 36 8 22,22 14 38,9 10 27,77 4 11,11 32 88,89 9a 32 5 15,62 12 37,51 13 40,62 2 6,25 27 93,75 9b 33 4 12,12 10 30,30 15 54,54 4 12,12 29 87,88 Học kì I năm học 2009 - 2010: Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu TB trở lên SL TL % SL TL % SL TL % SL TL % SL TL % 9a 35 5 14,3 10 28,6 18 57,1 2 5,71 33 94,28 9b 35 4 11,42 9 25,71 19 62,87 3 8,57 32 91,42 Như vậy so với phương pháp truyền thống thì hiệu quả của phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan phù hợp trong các tiết dạy mang lại hiệu quả cao. C . KẾT LUẬN : I KẾT LUẬN - Dụng cụ trực quan là phương tiện không thể thiếu được trong hoạt động dạy học. Bằng những dụng cụ trực quan sinh động, giáo viên sử dụng phương pháp tốt nhất giúp học sinh tự khai thác, lĩnh hội kiến thức, phát huy được vai trò chủ thể của học sinh trong quá trình học tập. - Những dụng cụ trực quan khi sử dụng trong giảng dạy cần phải có sự lựa chọn cho phù hợp với nội dung bài dạy, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh, đặc biệt là những dụng cụ trực quan tạo ấn tượng, giúp học sinh khắc sâu, nhớ kỹ, tái hiện lại những kiến thức đã học. - Về phương pháp sử dụng: phải sử dụng tinh tế, khéo léo phải đảm bảo tính trực quan, vừa đảm bảo tính khoa học. Điều đáng lưu ý là dụng cụ trực quan dù sinh động đến đâu cũng không thể giúp học học tốt nếu thiếu sự chỉ đạo tận tình của giáo viên bộ môn. Vậy với cương vị là người chỉ đạo, hướng dẫn, người giáo viên phải luôn tác động ý thức học tập của các em, phải khơi dậy trong các em sự tìm tòi, ham hiểu biết, sẵn sàng khám phá khoa học có như thế mới đem lại hiệu quả Điều cuối cùng là muốn thực hiện tốt phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy lịch sử, đòi hỏi người giáo viên ngoài năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm thì phải có ý thức trách nhiệm cao, phải có cái tâm mang đặc thù của nghề dạy học bởi vì phương pháp dù hay đến mấy nhưng người thầy không có trách nhiệm cao, không yêu nghề và thương yêu học sinh hết mực thì cũng không đem lại kết quả như mong muốn. Có như vậy chúng ta mới góp phần đào tạo thế hệ trẻ thành những người lao động làm chủ nước nhà: có trình độ văn hoá cơ bản, phẩm chất đạo đức tốt, có sức khoẻ, thông minh sáng tạo đáp ứng được những yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá . II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM KHI SỬ DỤNG PHƯƠNG TIỆN TRỰC QUAN: Đồ dùng trực quan được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan, sẽ kết hợp chặt chẽ cho được hai hệ thống tín hiệu với nhau: tai nghe, mắt thấy tạo điều kiện cho học sinh dẽ hiểu, nhớ lâu, phát triển năng lực chú ý quan sát, hứng thú của học sinh. Tuy nhiên nếu không sử dụng tốt, đúng mức và bị lạm dụng thì dễ làm học sinh phân tán sự chú ý, không tập trung vào các dấu hiệu cơ bản chủ yếu. Đồ dùng trực quan có nhiều loại. Mỗi loại lại có cách sử dụng riêng, nhưng phải chú ý các nguyên tắc cơ bản sau: 1/ Phải căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ, nội dung và hình thức của các loại bài học để lựa chọn dụng cụ trực quan cho thích hợp, không nên dùng quá nhiều dụng cụ trực quan cho một tiết dạy. 2/ Phải có phương phương pháp thích hợp đối với mỗi loại dụng cụ trực quan ( Như đã nêu ở trên). 3/ Trước khi sử dụng cần phải giải thích: Dụng cụ trực quan này nhằm mục đích gì? Giải quyết vấn đề gì? Nội dung gì? trong bài học. 4/ Đảm bảo tính trực quan, rõ ràng, thẩm mỹ, cần chú ý tới quy luật nhận thức, giáo dục thẩm mỹ cho học sinh. Không nên sử dụng dụng cụ trực quan quá cũ nát, các hình vẽ cẩu thả... 5/ Biết vận dụng, sử dụng dụng cụ trực quan tới các phương pháp dạy học khác: như nêu vấn đề, mô tả, diễn giải...cho nhuần nhuyễn, đạt hiệu quả cao. * Điểm khác biệt với phương pháp sử dụng dụng cụ trực quan trước đây là giáo viên phải biết hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức qua các dụng cụ trực quan, đồng thời qua việc sử dụng dụng cụ trực quan ta phải rèn luyện cho học sinh các kỹ năng cần thiết: Kỹ năng sử dụng bản đồ, sử dụng tranh vẽ, biểu đồ, kỹ năng thu thập tư liệu qua sách tham khảo... III. DỰ KIẾN VỀ CẢI TIẾN CẤU TRÚC THỜI GIAN TỚI. Với đề tài này tôi đã nghiên cứu, vận dụng từ năm học 2008 - 2009 đến nay và thấy kết quả rất khả quan. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện chỉ với tư cách cá nhân và chỉ có sự tham khảo đóng góp ‏ý kiến của bạn bè đồng nghiệp trong trường nên chắc chắn cũng còn nhiều khiếm khuyết. Tôi rất mong có sự giúp đỡ, xây dựng của các đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo để đề tài thêm hoàn thiện, có hiệu quả, nâng cao chất lượng bộ môn lịch sử nói riêng và góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới PPDH và thực hiện Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý và dạy học; Hưởng ứng phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực", và cuộc vận động " Hai không" với 4 nội dung của Bộ giáo dục và Đào tạo đang phát động. IV. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ. 1. Đối với phòng GD. Cần tham mưu với các cấp chính quyền để tạo điều kiện cho trường được xây thêm phòng học, phòng đa chức năng phục vụ cho những môn học. - Hỗ trợ để trường mua sắm thêm các trang thiết bị phục vụ dạy học như: Máy vi tính, hệ thống máy chiếu. 2. Đối với BGH nhà trường. BGH cần tổ chức tiến hành kiểm tra đánh giá một cách thường xuyên trong suốt năm học. Tất cả các giáo viên trong nhà trường đều phải được kiểm tra giờ dạy nhiều lần và kiểm tra giờ dạy của tất cả các môn đặc biệt kiểm tra việc sử dụng đồ dùng và hiệu quả của việc sử dụng của giáo viên. Hiệu trưởng có thể chọn các hình thức kiểm tra phù hợp với đối tượng và kế hoạch đã đề ra làm sao để có những thông tin chính xác nhất nhằm giúp cho giáo viên đổi mới phương pháp giảng dạy, nhằm cải thiện kết quả học tập của học sinh và khuyến khích giáo viên áp các phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học để đáp ứng khả năng học tập của tất cả các đối tượng học sinh trong lớp. Chỉ đạo bộ phận thư viện, thiết bị bố trí, sắp xếp các thiết bị phương tiện khoa học, tiện lợi để đáp ứng được nhu cầu sử dụng các thiết bị của giáo viên một cách tốt nhất. 3. Đối với Giáo viên - Có ý thức tự học, tự rèn, GV phải biết sử dụng phương tiện, đồ dùng phù hợp với nội dung, mục tiêu bài học và phải chú trọng cả 3 mặt: Kiến thức, kĩ năng, thái độ. - Tích cực tham gia các hoạt động chuyên môn do trường và cấp trên tổ chức, tham gia các lớp bồi dưỡng để nâng cao tay nghề cũng như khả năng sử dụng các đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử nói riêng và các môn học nói chung. Eahuar, tháng 2 năm 2010 Người thực hiện Leâ Thò Hoaø TÀI LIỆU THAM KHẢO 1/ Sách giáo khoa lịch sử. 2/ Sách giáo viên lịch sử 9. 3/ Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên. 4/ Sách bài tập lịch sử 9. 5/ Trao đổi kinh nghiệm giảng dạy (

Chuyên Đề Sử Dụng Một Số Phương Pháp Dạy Học Tích Cực Trong Dạy Học Lịch Sử Lớp 5

CHUYÊN ĐỀ SỬ DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC

TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ LỚP 5

Có nhiều phương pháp và cách thức tổ chức dạy học lịch sử tích cực nhằm phát huy tính chủ động, độc lập và sáng tạo của học sinh, điều đó có ý nghĩa thiết thực trong việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường TH hiện nay. Trong khuôn khổ bài viết này tôi nêu ra một số phương pháp mà qua quá trình vận dụng trong giảng dạy lịch sử cho hiệu quả khả quan, học sinh có thể nắm kiến thức và vận dụng kiến thức một cách linh hoạt và sáng tạo dựa vào năng lực của bản thân.

1. Quan điểm về phương pháp dạy học tích cực

Phương pháp dạy học tích cực là những phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính chủ động, độc lập và sáng tạo, hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học. Phương pháp dạy học tích cực có những đặc trưng cơ bản là:

– Người học tập trung cao độ trong học tập, chủ động tìm tòi khám phá nội dung học tập, chủ động giải quyết các vấn đề phù hợp với khả năng hiểu biết của mình, đề xuất các ý tưởng sáng tạo và tự nguyện trình bày, diễn đạt các ý kiến của mình. Theo lí thuyết kiến tạo, phương pháp dạy học tích cực chính là giúp cho “người học tự xây dựng những cấu trúc trí tuệ riêng cho mình về những tài liệu học tập, lựa chọn những thông tin phù hợp, giải nghĩa thông tin dựa trên vốn kiến thức đã có và nhu cầu hiện tại, bổ sung thêm những thông tin cần thiết để tìm ra ý nghĩa của tài liệu mới”, người học chính là chủ thể của quá trình nhận thức.

– Người dạy: linh hoạt, mềm dẻo, luôn tạo cơ hội để người học tham gia và làm chủ hoạt động nhận thức. Người dạy xây dựng được những môi trường có khả năng thúc đẩy người học tự điều khiển hoạt động học tập, cung cấp những nhiệm vụ học tập có mức độ phù hợp với từng học sinh, tạo điều kiện cho từng học sinh được phép lựa chọn, tự lập kế hoạch, tự đưa ra mục đích hoạt động, tự mình hoặc hợp tác để thực hiện nhiệm vụ học tập, cuối cùng tự nhận xét đánh giá kết quả học tập của bản thân. Người dạy chỉ là người tổ chức và hướng dẫn quá trình nhận thức.

– Nội dung bài dạy không đi sâu vào từng chi tiết cụ thể mà sắp xếp thành các vấn đề liên kết hoặc sắp xếp theo nguyên lí cơ chế để kích thích tư duy và tính chủ động sáng tạo trong cách giải quyết các vấn đề của người học.

2. Sử dụng một số phương pháp dạy học tích cực trong dạy học lịch sử ở trường TH

2.1. Phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi nhận thức để phát huy tính tích cực của học sinh

Câu hỏi nhận thức là câu hỏi khi đặt ra tạo được mâu thuẫn trong nhận thức của học sinh, để giải quyết mâu thuẫn đó, nếu chỉ sử dụng kiến thức cũ không giải quyết được mâu thuẫn, không trả lời được câu hỏi. Muốn trả lời câu hỏi phải tiếp thu những kiến thức mới do thầy gợi mở cung cấp, phải huy động nhiều thao tác tư duy mới giải quyết được câu hỏi.

a. Nêu câu hỏi đầu giờ học: Vào đầu giờ học, giáo viên có thể kiểm tra hay không kiểm tra kiến thức bài cũ. Trước khi cung cấp kiến thức của bài học mới, giáo viên nên nêu ngay câu hỏi định hướng nhận thức cho học sinh. Câu hỏi loại này thường là câu hỏi có tính chất bài tập, muốn trả lời cần phải huy động kiến thức cơ bản của toàn bài. Nêu câu hỏi đầu giờ học có 2 tác dụng lớn: thứ nhất là nó xác định rõ ràng nhiệm vụ nhận thức của học sinh trong giờ học, thứ hai là hướng học sinh vào những kiến thức trọng tâm của bài, huy động cao nhất các hoạt động của các giác quan học sinh trong quá trình học tập: nghe, nhìn, kết hợp với tư duy có định hướng. Đương nhiên khi đặt câu hỏi, không yêu cầu học sinh trả lời ngay mà chỉ sau khi giáo viên đã cung cấp đầy đủ sự kiện thì học sinh mới trả lời được.

b. Câu hỏi sử dụng trong quá trình giảng dạy: Trong quá trình giảng dạy, giáo viên còn phải biết đặt ra và giúp học sinh giải quyết các câu hỏi có tính chất nhận thức kiến thức. Một hệ thống câu hỏi tốt nêu ra trong quá trình giảng dạy phải phù hợp với khả năng của các em, kích thích tư duy phát triển, đồng thời tạo ra mối liên hệ bên trong của học sinh và giữa học sinh với giáo viên, tức là mỗi câu hỏi đưa ra, mỗi học sinh và cả giáo viên phải thấy rõ vì sao trả lời được, vì sao không trả lời được. Câu hỏi quá khó hay chưa đủ sự kiện, tư liệu để các em trả lời.

Những câu hỏi trong sách giáo khoa là cơ sở để giáo viên xác định kiến thức trong sách, đồng thời bổ sung để xây dựng hệ thống câu hỏi của bài. Câu hỏi phải có sự chuẩn bị từ khi soạn giáo án, có dự kiến nêu ra lúc nào? Học sinh sẽ trả lời như thế nào? Đáp án phải trả lời ra sao? Rõ ràng việc sử dụng câu hỏi trong dạy học còn là một nghệ thuật. Khi câu hỏi đặt ra bắt buộc học sinh phải suy nghĩ, phải kích thích được lòng ham hiểu biết, trí thông minh, sáng tạo của HS.

2.2. Phương pháp dạy học nêu vấn đề

a. Giáo viên dẫn dắt học sinh vào tình huống có vấn đề: Tình huống có vấn đề là trở ngại về trí tuệ của con người xuất hiện khi chủ thể chưa biết cách giải quyết, giải thích hiện tượng, sự vật, quy trình thực tế, khi chưa đạt tới mục đích bằng cách thức quen thuộc. Tình huống này kích thích con người tìm tòi cách giải quyết mới hay phải có hành động mới. Tình huống có vấn đề là quy luật của hoạt động có nhận thức sáng tạo có hiệu quả. Ta có thể diễn tả tình huống có vấn đề trong học tập lịch sử của học sinh như sự xuất hiện một mâu thuẫn mà học sinh đứng trước sự cần thiết phải tìm ra cái mới, cái chưa biết nhưng cần phải biết. Tình huống có vấn đề có thể là toàn bộ nội dung bài học hoặc là nội dung một mục. Cụ thể là về nội dung học sinh chưa biết một kiến thức nào đó, có thể là nguyên nhân (bùng nổ, thắng lợi hay thất bại), bản chất của của các sự kiện, hiện tượng lịch sử, những kiến thức trừu tượng, khái quát như: khái niệm, quy luật, bài học lịch sử… Về phương pháp, học sinh chưa biết cách lập luận, chưa tạo ra được “một con đường”, một cấu trúc tư duy để đi từ cái đã biết sang cái chưa biết nhưng cần phải biết.

b. Nêu vấn đề: Khi có tình huống có vấn đề, giáo viên phải biết cách biểu đạt vấn đề sao cho hiệu quả. Trước hết, đặt học sinh vào trạng thái tâm lí đặc biệt – một trong các điều kiên để có dạy học nêu vấn đề, khiến học sinh tò mò, xuất hiện nhu cầu nhận thức cái chưa biết nhưng cần phải biết. Điều quan trọng là giáo viên phải khéo léo đặt ra vấn đề và gợi được sự hứng thú nhận thức ở học sinh. Học sinh chỉ hứng thú nghe thầy giảng khi học bài cung cấp cho những kiến thức mới, khi thầy có phương pháp giảng dạy sinh động sẽ lôi cuốn, kích thích các em tìm tòi, học hỏi thêm ngoài những điều đã lĩnh hội trên lớp. Chú ý “vấn đề” trong tình huống có vấn đề cần phải đảm bảo tính vừa sức đối với học sinh. Giáo viên có thể đặt ra những tình huống có vấn đề phải tạo ra được bầu không khí sáng tạo, sinh động trong lớp học, từ đó các em sẽ hứng thú, say mê trong tìm tòi, lĩnh hội kiến thức mới.

2.3. Phương pháp kết hợp nhuần nhuyễn hệ thống phương pháp dạy học lịch sử để phát huy tính tích cực của học sinh.

a. Kết hợp câu hỏi nhận thức với đồ dùng trực quan

– Kết hợp câu hỏi nhận thức với đồ dùng trực quan để giải quyết vấn đề: Tức là, sau khi giáo viên nêu câu hỏi nhận thức cho học sinh giải đáp rồi mới giới thiệu 1 loại đồ dùng trực quan có tính gợi mở để giải đáp câu hỏi nhận thức vừa nêu.

b. Biện pháp kết hợp câu hỏi nhận thức với các đoạn tường thuật, miêu tả, nêu đặc điểm

– Kết hợp câu hỏi nhận thức với các đoạn tường thuật, miêu tả, nêu đặc điểm để hướng dẫn học sinh tích cực, chủ động giải quyết các vấn đề, nghĩa là: Giáo viên cần kết hợp khéo léo việc tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh với thông báo kiến thức khoa học, phong phú, tạo điều kiện gợi mở, cung cấp tài liệu…nhằm giúp học sinh tự giác, tích cực giải quyết các vấn đề từng bước, từng phần.. Sau khi đặt vấn đề (thông qua câu hỏi, bài tập nhận thức), nếu thấy học sinh gặp khó khăn, giáo viên phải biết cách cung cấp thêm kiến thức cho học sinh. Trong đó việc đưa ra các đoạn tường thuật, miêu tả, nêu đặc điểm cho các em là một biện pháp mang tính chất “mở” quan trọng để giúp các em có thể từng bước giải quyết vấn đề. Sau đó thầy là người đưa ra kết luận đúng nhất làm cơ sở cho học sinh tự hoàn thiện những điều các em vừa nhận thức.

– Sử dụng các đoạn tường thuật, miêu tả, nêu đặc điểm kết hợp với hệ thống câu hỏi nhận thức để phát triển tư duy học sinh, tức là: Sau khi trình bày một đoạn tường thuật, miêu tả hay nêu đặc điểm nào đó, giáo viên đưa ra một hoặc một hệ thống câu hỏi nhận thức yêu cầu học sinh trả lời. Với việc kết hợp này sẽ giúp phát triển tư duy học sinh, đồng thời giúp học sinh thu được thông tin ngược, giúp cho việc dạy và học có hiệu quả hơn. Để giúp học sinh trả lời được câu hỏi, giáo viên cần căn cứ vào nội dung bài học để xác định nội dung câu hỏi nhận thức cho phù hợp, kết hợp với hệ thống câu hỏi gợi mở giúp học sinh trả lời rồi rút ra kết luận khái quát.

3. Kết luận

Để giúp học sinh phát huy tính tích cực trong quá trình học tập môn lịch sử ở trường THPT đòi hỏi giáo viên phải sử dụng nhiều biện pháp sư phạm. Với những biện pháp được đề cập trong đề tài, nếu được giáo viên sử dụng hợp lí sẽ có tác dụng to lớn giúp học sinh tích cực hơn trong quá trình học tập lịch sử. Tuy nhiên trong dạy học lịch sử không có biện pháp nào là vạn năng để phát huy tối đa tính tích cực, chủ động trong quá trình học tập của các em. Việc sử dụng các phương pháp nói trên chỉ thực sự đem lại hiệu quả giáo dục khi được giáo viên sử dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo, tuỳ mục đích của bài và khả năng nhận thức của các em.

Nguyễn Thị Hòa @ 19:50 21/12/2017 Số lượt xem: 1848

Một Số Biện Pháp Sử Dụng Đồ Dùng, Đồ Chơi Trực Quan Cho Trẻ 4

” Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai ” một câu hát hẳn ai ai cũng thuộc…, nó như một thông điệp đi suốt cuộc sống của con người bất cứ mọi nơi đều biết. Đúng vậy trẻ chính là mầm non tương lai của đất nước, của nhân loại, tương lai có tươi sáng, giàu đẹp đều phụ thuộc vào những búp măng non nớt đó. Nhận thức được tầm quan trọng của trẻ bao nhiêu thì vấn đề đào tạo giáo dục trẻ từ lúc còn thơ được chú trọng và đáng quan tâm bấy nhiêu. Vậy nên mỗi người giáo viên Mầm Non đều phải biết cách chọn lọc tinh túy cơ bản, biết chọn cách gieo vào suy nghĩ trẻ thơ một cách hiệu quả để trẻ biết tích lũy, tư duy, sáng tạo và trẻ được trải nghiệm trong cuộc sống. Những sắc màu đó chính là dạy trẻ biết cách vui chơi, ăn, ngủ, giáo dục trẻ trở thành những đứa trẻ lễ phép ngoan ngoãn, đó là quá trình tích lũy gam màu cuộc sống của trẻ. Còn để trẻ biết tư duy, sáng tạo thì nhiệm vụ của người giáo viên Mầm non còn phải trang bị cho trẻ những kiến thức ban đầu thông qua các hoạt động khám phá về các lĩnh vực.Để trẻ dần hình thành và phát triển đầy đủ các mặt như: Đức, Trí, Thể, Mỹ, Lao, Tình cảm. Từ đó trẻ được tiếp cận với những kiến thức phù hợp từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó để trẻ biết tư duy sáng tạo và cũng là tiền đề để cho trẻ chuẩn bị bước vào lớp lớn hơn.

Là một người giáo viên dạy trẻ cũng như những đồng nghiệp của mình đều hiểu được cái tính cấp thiết của sáng tạo, tư duy trong xã hội công nghệ phát triển. Thế nên cần phải tìm tòi cách tổ chức các hoạt động như thế nào để trẻ lĩnh hội các kiến thức kỹ năng về các lĩnh vực một cách khoa học hiệu quả nhất. Trong chương trình bài giảng một trong nhưng hoạt động đáng quan tâm để giúp trẻ tư duy tốt đó là hoạt động ” Làm quen với những biểu tượng ban đầu với toán“. Đây là hoạt động đòi hỏi độ chính xác cao. Muốn làm tốt được việc này trước hết đòi hỏi người giáo viên phải có tâm huyết với nghề, say sưa suy nghĩ tìm tòi, chu đáo tỉ mỉ, sáng tạo hướng dẫn trẻ tham gia vào hoạt động một cách có khoa học để trẻ bước đầu nắm bắt, hình thành những kỹ năng học tập đối với hoạt động làm quen với biểu tượng toán sơ đẳng. Để thực hiện tốt trước hết giáo viên phải đầu tư công sức cũng như thời gian sáng tạo chuẩn bị đồ dùng cho tiết dạy tìm cách tạo sự hứng thú cho trẻ và kích thích tính tích cực hoạt động cho trẻ. Và nhận thức của trẻ từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng quay trở về thực tiễn. Thông qua hoạt động nhằm giúp trẻ nhận thức tốt hơn về thế giới xung quanh. Tăng khả năng tìm tòi, khám phá so sánh, phân tích…. Và hình thành ở trẻ hệ thống hoá kiến thức một cách chính xác, khoa học. Trên cơ sở đó bổ sung thêm vốn ngôn ngữ và góp phần tích cực vào việc phát triển trí tuệ và thể chất cho trẻ. Với tôi trẻ cần phải có tri thức từ lúc ban đầu. Vì vậy tôi thấy: ” Làm quen với biểu tượng ban đầu với toán“. Ở lứa tuổi mầm non vô cùng quan trọng trong việc cung cấp những kiến thức ban đầu cho trẻ. Đây cũng là một việc làm rất cần thiết và đó cũng chính là cơ hội tốt để giúp trẻ hình thành những phẩm chất, năng lực hoạt động cho mình như: Tìm tòi quan sát, so sánh thông qua hoạt động với toán để giúp trẻ hình thành những biểu tượng như: Số lượng, kích thước, hình dạng, định hướng không gian để sau này trẻ vững vàng tự tin hơn khi tiếp nhận những kiến thức của môn toán những giai đoạn tiếp theo.

Muốn trẻ được hoạt động tích cực và nắm bắt kiến thức một cách có hệ thống và chính xác, đòi hỏi người giáo viên phải có sự đổi mới trong phương pháp giảng dạy, có sự đầu tư trong việc sưu tầm và làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho hoạt động và sử dụng có hiệu quả trong quá trình tổ chức. Chính vì vậy để nâng cao chất lượng cho trẻ làm quen với biểu tượng toán sơ đẳng cho trẻ tôi mạnh dạn nghiên cứu thực nghiệm và viết đề tài “Một số biện pháp sử dụng đồ dùng, đồ chơi trực quan cho trẻ 4 -5 tuổi trong hoạt động làm quen với biểu tượng toán sơ đẳng”. Đề tài này thể hiện sự quan tâm thiết thực đến trẻ tôn trọng quyền của trẻ được sống và phát triển, quyền được học tập hình thành tiếp thu nền giáo dục tiến bộ, được hưởng nền văn hoá của dân tộc mình. Bởi vậy mà đề tài này góp phần làm sáng tỏ đúng đắn các vấn đề lý luận và học tập vui chơi của trẻ với phương châm ” Học mà chơi, chơi mà học ” trong trường Mầm non làm phong phú hơn về cách hiểu và cách nhìn trẻ em hiện nay trong giáo dục Mầm non.

Đề tài dựa vào quan điểm giáo dục trẻ em phát triển toàn diện việc đưa chương trình chăm sóc giáo dục trẻ phải dựa trên tâm sinh lý của trẻ để rút ra một số phương pháp biện pháp nhằm nâng cao chất lượng cho trẻ làm quen với toán giúp trẻ tìm tòi khám phá mọi vấn đề xung quanh.

1.2. Phạm vi áp dụng đề tài, sáng kiến, giải pháp

Trong khuôn khổ của đề tài, tôi chỉ tập trung nghiên cứu và áp dụng “Một số biện pháp sử dụng đồ dùng, đồ chơi trực quan hấp dẫn cho trẻ 4 -5 tuổi trong hoạt động làm quen với biểu tượng toán sơ đẳng”trong trường Mầm non. Nhằm tìm ra những ” Biện pháp sử dụng đồ dùng, đồ chơi trực quan hấpdẫn ” để tìm ra hướng giải quyết tốt nhất hình thành những biểu tượng toán học sơ đẳng cho trẻ 4 – 5 tuổi một cách chính xác và bền vững, khắc phục phần lớn những khó khăn chung đồng thời phát huy cao nhất được tính tích cực của trẻ.

– §èi t­îng nghiªn cøu:

C¨n cø vµo yªu cÇu cña ®Ò tµi, t”i chän ®èi t­îng nghiªn cøu lµ trÎ MÇm non 4 – 5 tuæi.

– Giíi h¹n ph¹m vi néi dung nghiªn cøu

Trong ph¹m vi kh¶ n¨ng vµ tr¸ch nhiÖm cña m×nh. T”i vËn dông vÊn ®Ò mµ bµi viÕt nµy ®Ò cËp ®Õn ch­¬ng tr×nh ch¨m sãc vµ gi¸o dôc trÎ mÇm non tõ 4 – 5 tuæi ë chÝnh ®¬n vÞ tr­êng t”i ®ang c”ng t¸c.

– NhiÖm vô nghiªn cøu:

Qua ®Ò tµi nghiªn cøu gióp gi¸o viªn cã nh÷ng ®Þnh h­íng phï hîp trong c”ng t¸c ch¨m sãc cho trÎ mÇm non ë ®é tuæi 4 – 5 tuæi sau khi vËn dông ®Ò tµi sÏ gãp phÇn ®¾c lùc cho qu¸ tr×nh h×nh thµnh nh©n c¸ch cho trÎ.

– Ph­¬ng ph¸p nghiªn cøu:

Tr­íc hÕt b¶n th©n ph¶i nhËn ®Þnh ®­îc t×nh h×nh chung cña ®èi t­îng nghiªn cøu, sau ®ã ®äc, ph©n tÝch, tæng hîp tµi liÖu tham kh¶o. §Ó x©y d­îng ®Ò c­¬ng s¸ng kiÕn, ¸p dông s¸ng kiÕn vµ hoµn thµnh s¸ng kiÕn.

– Ph¹m vi thêi gian nghiªn cøu:

§Ò tµi ®­îc tiÕn hµnh trong học kỳ I, tõ th¸ng 9 n¨m 2012 ®Õn th¸ng 1 n¨m 2013 t¹i líp MÉu gi¸o 4 tuæi.

PHẦN II. NỘI DUNG 1.1. Thực trạng nội dung cần nghiên cứu

Trong n¨m häc nµy t”i ®­îc nhµ tr­êng ph©n c”ng d¹y líp mÉu gi¸o (4 – 5 tuæi) víi tæng sè 22 ch¸u. Qua thêi gian ®øng líp, n¾m b¾t ®­îc t×nh h×nh thùc tÕ t”i ®· gÆp nh÷ng thuËn lîi vµ khã kh¨n sau:

Ban gi¸m hiÖu nhµ tr­êng quan t©m trang bÞ ®Çy ®ñ ®å dïng d¹y häc vµ th­êng xuyªn th¨m líp, dù giê, tæ chøc c¸c líp kiÕn tËp ®Ó båi d­ìng chuyªn m”n rót kinh nghiÖm vÒ ph­¬ng ph¸p gi¶ng d¹y.

Sù quan t©m chØ ®¹o cña phßng MN huyÖn Qu¶ng Tr¹ch, Ban gi¸m hiÖu nhµ tr­êng,Các bậc phụ huynh ®· t¹o ®iÒu kiÖn cho b¶n th©n t”i ®i häc tËp tr­êng b¹n, dù giê c¸c tiÕt d¹y mÉu. Thªm vµo ®ã lµ lßng nhiÖt t×nh yªu nghÒ mÕn trÎ vµ tÝnh ham häc hái say mª s¸ng t¹o cña t”i trong hoạt động làm quen với biểu tượng ban đầu với toán.

TrÎ ngoan ®i häc chuyên cần, mạnh dạn tự tin và có một số nề nếp trong học tập. 100% trÎ trong líp cïng ®é tuæi.

* Khã kh¨n

C¬ së vËt chÊt thiÕu thèn, đå dïng d¹y häc cßn h¹n chÕ, thêi gian kh”ng cã nhiÒu ®Ó nghiªn cøu lµm ®å dïng phôc vô cho tiÕt d¹y.

Dï cïng mét ®é tuæi nh­ng sù tiÕp thu cña trÎ kh”ng ®ång ®Òu, kh¼ n¨ng quan s¸t, so sánh thông qua hoạt động với toán để giúp trẻ hình thành những biểu tượng ban đầu như: Số lượng, kích thước, hình dạng, định hướng không gian ph©n lo¹i cña trÎ gÆp rÊt nhiÒu khã kh¨n, sè liÖu cô thÓ qua tõng tiÕt d¹y ®­­îc tæng hîp trong b¶ng sau:

B¶ng: KÕt qu¶ tæng kÕt Kü n¨ng quan s¸t trải nghiệm sử dụng đồ dùng ,đồ chơi trực quan, tư duy của trẻ ,

(Tæng sè trÎ lµ 22)

* Nguyên nhân của thực trạng

Toán học là một hoạt động rất quan trọng, cung cấp những kinh nghiệm những vấn đề có ý nghĩa và thú vị nhưng trên thực tế kết quả đạt được còn thấp so với yêu cầu đề ra và kết quả đạt chưa cao đó cũng xuất phát từ những nguyên nhân sau:

– Do chưa tạo ra được môi trường toán học phong phú cho trẻ hoạt động.

– Chưa có nhiều đồ dùng đẹp và mới lạ.

– Giáo viên chưa sử dụng được các thủ thuật để gây sự tập trung chú ý tạo hứng thú cho trẻ trong quá trình dạy.

– Chưa có nhiều trò chơi mới.

Chính những yếu tố này làm tôi trăn trở suy nghĩ làm thế nào để khắc phục tình trạng trên. T”i lu”n b¨n kho¨n suy nghÜ t×m nhiÒu biÖn ph¸p để sử dụng đồ dùng, đồ chơi trực quan hấp dẫn cho trẻ 4 – 5 tuổi trong hoạt động làm quen với biểu tượng toán sơ đẳng®¹t hiÖu qu¶ cao h¬n. Tõ ®ã n©ng dÇn kh¶ n¨ng quan s¸t, kü n¨ng quan s¸t trải nghiệm sử dụng đồ dùng trực quan, tư duy kh¶ n¨ng so s¸nh, ph©n lo¹i, lµm phong phó biÓu t­­îng ban đầu về toán trong mçi trÎ.

Dùa vµo vèn kiÕn thøc ®· häc vµ ®­­îc båi d­­ìng chuyªn m”n, t”i ®· t×m ra mét sè biÖn ph¸p sau:

1.2 Các giải pháp sử dụng đồ dùng, đồ chơi trực quan hấp dẫn trong hoạt động làm quen với biểu tượng toán cho trẻ 4 – 5 tuổi

Sau 5 tháng thùc hiÖn ®Ò tµi, t”i ®· sö dông mét sè biÖn ph¸p sau:

Với trẻ 4 – 5 tuổi việc làm quen với biểu tượng toán là hoạt động cần thiết, không những tạo cho trẻ có được tính nhanh nhẹn, thông minh, hoạt bát, sáng tạo trong khi trẻ thực hiện hoạt động ở trên lớp cũng như trong các hoạt động khác mà còn góp phần phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ mẫu giáo. Muốn trẻ hào hứng tham gia và yêu thích học toán thì phải xây dựng nề nếp thói quen tốt trong học tập cho trẻ như cách ngồi học đúng tư thế, cách trả lời câu hỏi của cô, cách giơ thẻ số và cách sử dụng trực quan khi tham gia các hoạt động như thế nào, cách thực hiện các bước trong hoạt động làm quen với toán ra sao? phải phân nhóm số trẻ có khả năng nhận biết nhanh, chậm, bình thường, để tiện theo dõi và có kế hoạch cụ thể để bồi dưỡng đồng thời kết hợp với phụ huynh học sinh để cùng giáo dục trẻ. Trong quá trình giảng dạy thực nghiệm tôi đã tìm ra một số phương pháp đơn giản nhưng hợp lý và phù hợp như sau.

Xuất phát từ đặc điểm nhận thức của trẻ về biểu tượng toán mang nặng cảm tính nên tôi đã sử dụng thủ thuật gây hứng thú cho trẻ ngay từ tiết học đầu tiên, nhằm tạo cho trẻ một tâm trạng vui vẻ, phấn khởi khơi gợi tính tò mò ham hiểu biết của trẻ. Trẻ hứng thú hăng say trong quá trình tham gia hoạt động học tập.

Tôi xây dựng góc toán phong phú, nhiều chủng loại sắp xếp bố trí đồ chơi gọn gàng, đồ chơi luôn để ở tư thế ” mở ” để kính thích trẻ hứng thú hoạt động, đồ dùng đồ chơi phải đảm bảo thuận tiện cho thao tác sử dụng, được xắp xếp sao cho dễ lấy, dễ cất và đặc biệt có thể sử dụng vào các môn học và các hoạt động khác. Góc toán phải được bố trí thật nổi, thật đẹp mắt, vừa đảm bảo tính thẩm mỹ, lại vừa đảm bảo tính chính xác.

– Các đồ dùng đồ chơi trong góc toán được phân chia thành từng “mảng” riêng biệt.

– Số lượng

– Hình khối

– Không gian

Chúng ta không chỉ tạo môi trường toán học cho trẻ ở trong lớp học mà còn tạo cho trẻ bất kỳ thời điểm nào có thể. Toán học không phải là cái gì đó thật cứng nhắc khô khan, chỉ là số, là hình mà toán học có thể là bất kỳ thứ gì ở xung quanh trẻ.

Ví dụ: Khi cho trẻ đi tham quan, dạo chơi, ta có thể hỏi trẻ “có bao nhiêu luống rau, có bao nhiêu bồn hoa, có bao nhiêu cây bàng, bồn hoa này có hình gì, quả này có dạng gì”… hoặc khi đến giờ ăn trẻ xếp đĩa và khăn cho mỗi bàn, trẻ phải biết lấy đủ số đĩa đễ xếp khăn vào đĩa cho mỗi bàn, như thế trẻ đã biết sắp xếp tương ứng 1 – 1 ta có thể tận dụng mọi cơ hội để có thể hình thành các biểu tượng về toán cho trẻ. Thông thường thì những hành động thoải mái và có tính khám phá đối với trẻ sẽ không đảm bảo cho việc học và việc nhận thức sâu các khái niệm. Ta phải tạo điều kiện thuận lợi để tạo môi trường, khuyến khích môi trường tư duy toán học cho trẻ.

Môi trường cũng là một yếu tố trực quan trực tiếp, tác động hàng ngày đến trẻ..

Tuỳ vào nội dung của từng bài để bố trí trực quan xung quanh lớp giá đồ chơi, tranh treo tường cho hợp lý để trẻ luyện tập cũng như liên hệ thực tế.

Ví dụ: Chủ đề gia đình

+ Treo tranh về gia đình đông con, ít con để trẻ đếm số lượng các thành viên trong các gia đình.

+ Đồ dùng gia đình xếp ở giá đồ chơi để trẻ có thể luyện đếm.

Chính những việc làm tưởng như rất đơn giản này nhưng đã góp phần hình thành ở trẻ sự say mê tìm tòi, tính cẩn thận trong công việc và củng cố thêm phần kiến thức về toán cho trẻ.

Cho trẻ sưu tập các hộp có dạng các hình khối sau đó cô cùng trẻ sẽ trang trí các chi tiết vào hình khối cho ngộ nghĩnh thành hình người, hình con lật đật, và trưng bày ở lớp với các hình học cũng thế như vậy trẻ sẽ rất thích thú và ghi nhớ được các hình khối.

b. Sử dụng mô hình, sa bàn, bài thơ câu chuyện

– Tôi sử dụng mô hình ,sa bàn hoặc một câu chuyện, bài thơ một trò chơi đẻ dẫn dắt trẻ tham gia vào hoạt động làm quen với biểu tượng toán.

Ví dụ 1: Dạy trẻ xác định phía trên, phía dưới, phía trước, phía sau của đối tượng khác. Tôi chọn đối tượng xác định là con Voi, bằng câu chuyện kể về chú voi, cho trẻ đi thăm Tây Nguyên một vùng đất hùng vĩ của đất nước nơi có rất nhiều các chú voi sinh sống. Trên đường đi phải đi qua nhiều nơi khác nhau, mỗi vùng quê có những phong cảnh những trò chơi khác nhau. Đến mỗi nơi đều có đối tượng để trẻ xác định các hướng cơ bản của đối tượng đó. Ngoài ra còn có nhiều trò chơi dân gian ví dụ như trò chơi “Mõ làng mõ xóm“. Cô hoặc một trẻ làm người đi rao mõ.Vừa gõ mõ vừa đọc:

Sau khi người ao mõ đọc xong từng vế thì trẻ trai và trẻ gái đứng đúng vào vị trí người rao mõ yêu cầu. Tiếp theo là cô phải đặt các câu hỏi để trẻ trả lời xem trẻ đang đứng ở vị trí nào của người giao mõ.

Trẻ được đi chơi nhiều nơi, được ngắm phong cảnh quê hương đất nước, vừa được chơi trò chơi. Như vậy trẻ rất thích,rất tích cực tham gia vào các hoạt động giúp cho tiết học đạt kết quả.

– Lăng Bác được xếp bằng các khối chữ nhật

– Hàng rào xung quanh lăng Bác xếp bằng khối vuông

– Cột trụ cổng vào Lăng Bác xếp bằng khối trụ

– Bóng đèn trên cột trụ được xếp bằng khối cầu

Nhưng đối với hoạt động quen với biểu tượng toán về số lượng tôi cũng gợi ý dẫn dắt trẻ đưa trực quan ra bằng bài thơ, bài đồng dao,…

c. Lựa chọn và sử dụng đồ chơi, đồ dùng trực quan đúng lúc, đúng chỗ

Xuất phát từ đặc điểm nhận thức của trẻ 4 – 5 tuổi là tư duy trực quan hình tượng. Nên trong quá trình dạy trẻ tôi thường kết hợp giữa vật thật, tranh ảnh với mô hình với nhau.

Cô hướng dẫn trẻ sử dụng đồ dùng trực quan trong quá trình học tập phải đúng lúc.

Các đồ dùng trực quan tôi chuẩn bị cho trẻ theo mức độ.

Khi trẻ sử dụng thành thạo tôi động viên khuyến khích trẻ. Nếu trẻ còn lúng túng chưa thành thạo trẻ sẽ được hướng dẫn tỉ mỉ và sẽ được sửa luôn nếu sai sót.

Đối với trực quan có điểm riêng biệt, đặc biệt tôi sử dụng câu đố để đưa đồ dùng trực quan ra.

Ví dụ: Khối vuông và khối cầu tôi dùng câu đố để trẻ đoán

Khối gì xinh xắn

Sáu mặt hình vuông.

Bé hãy đoán xem.

Khối gì thế nhỉ?

Hay:

Khối gì tròn lắm.

Không xếp chồng được đâu.

Không đứng yên được lâu.

Động vào lăn lông lốc..

Để liên kết các nội dung trong một tiết học được liên hoàn và chuyển sang nội dung mới một cách linh hoạt, đưa trực quan ra một cách hợp lý không có động tác thừa hay các câu hỏi lặp đi lặp lại nhàm chắn, tôi thường sử dụng các câu truyện sáng tạo.

Ví dụ: Có một mèo hoa rất ngoan, hôm nay trên đường đi học bạn Mèo hoa gặp cô, và bạn Mèo hoa đã nói thầm vào tai cô đấy! Chúng mình có muốn biết bạn Mèo hoa nói gì không nào? (Trẻ hào hứng nghe và rất muốn được biết điều mà mèo hoa nói với cô giáo) Tôi lại nói tiếp: Bạn Mèo hoa nhờ cô hỏi các bạn lớp mình xem có biết ngày 20/11 là ngày gì không nào? Trẻ trả lời đúng. Tôi nói tiếp: Bạn Mèo hoa cảm ơn các bạn lớp mình đã giúp cho bạn ấy biết bí mật của ngày 20/11 nên đã tặng lớp mình một món quà (món quà đó là một trò chơi ôn luyện được chuẩn bị trước).

Khi đưa trực quan là nội dung tích hợp của các môn học khác, vào hoạt động làm quen với biểu tượng toán bằng câu hỏi nhẹ nhàng, hợp lý điều đó đã phát huy được tính tích cực một cách cao nhất ở trẻ, khi tham gia các hoạt động.

Ví dụ: Để khắc sâu kiến thức về khối cầu, khối trụ, khối vuông, khối chữ nhật tôi đặt câu hỏi?

Con nào thích chơi khối cầu và khối trụ?

Con nào thích chơi khối vuông và khối chữ nhật?

Trẻ tự trả lời, tôi sẽ phân thành các nhóm.

+ Nhóm thích chơi khối cầu, khối trụ về nặn khối cầu, khối trụ.

+ Nhóm thích chơi khối vuông, khối chữ nhật về nhóm tìm hình bằng giấy màu tương ứng để dán các mặt khối, Điều này trẻ rất hào hứng thi đua, khi cùng nhau tham gia vào các hoạt động.

Với việc lựa chọn và sử dụng đồ dùng trực quan hợp lý, hấp dẫn trẻ tôi đã tạo ra các tình huống liên tục trong suốt quá trình trẻ tham gia các hoạt động ” Làm quen với biểu tượng toán ” giúp trẻ tiếp thu kiến thức một cách chính xác, sâu sắc và bền vững.

d. Sáng tạo, linh hoạt thay đổi hình thức trong việc hình thành các biểu tượng toán học cho trẻ

Trẻ nhỏ không học các khái niệm toán học bằng cách học vẹt hay bằng các quy tắc. trẻ được khuyến khích trong quá trình học, biết tìm kiếm các chuẩn mực. Giải quyết các vấn đề nếu ta chỉ đơn thuần dạy trẻ xác định vị trí trong không gian nhận biết hình khối, đếm, so sánh, thêm bớt, chia theo hình thức thông thường, một số tiết học về số lượng nội dung lại lặp đi lặp lại như thế sẽ rất nhàm chán và đơn điệu, cứng nhắc, sự hứng thú của trẻ sẽ giảm đi. do vậy ta cần có sự linh hoạt thay đổi các hình thức tiết học để trẻ học không nhàm chán.

e. Sưu tầm một số trò chơi mới

Với trẻ lứa tuổi mẫu giáo, chơi là hoạt động chủ đạo. hoạt động chơi quyết định sự hình thành, phát triển tâm lý và nhân cách cho trẻ. chơi là một hoạt động độc lập, tự do, tự nguyện của trẻ mẫu giáo. Qua trò chơi trẻ rèn luyện được tính độc lập của mình. Tính sáng tạo của trẻ cũng được thể hiện rõ nét trong hoạt động chơi. Mầm móng sáng tạo của trẻ bắt đầu được thể hiện trong hoạt động chơi. Ngoài ra tính sáng tạo còn thể hiện khi trẻ biết phối hợp các biểu tượng đã biết vào trò chơi và tự mình điều khiển chúng.

Trò chơi đối với trẻ nhỏ luôn chiếm một vị trí quan trọng trong các công trình nghiên cứu, phương pháp giáo dục thuận lợi nhất là thông qua trò chơi. Trò chơi toán học là một trong những phương tiện dạy học, nhằm thúc đẩy sự hình thành những biểu tượng toán học, nó tạo điều kiện và tình huống để trẻ áp dụng những kiến thức thu được của mình, trẻ học cách nắm vững kiến thức và sử dụng chúng trong những tình huống khác nhau, vì vậy mà kiến thức của trẻ được củng cố.

Trò chơi toán học là một dạng của trò chơi học tập. Trẻ phải giải quyết nhiệm vụ học tập dưới hình thức chơi nhẹ nhàng, thoải mái, làm trẻ dễ dàng vượt qua những khó khăn trở ngại nhất định. Trẻ tiếp nhận nhiệm vụ học tập như nhiệm vụ chơi, do đó tính tích cực của hoạt động nhận thức trong lúc chơi được nâng cao. Trong một chừng mực nào đó, trò chơi học tập vừa là phương tiện dạy học, vừa là hình thức dạy học cho trẻ. Trò chơi học tập được sử dụng trong quá trình dạy hoc nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức cho trẻ.

Chính vì vậy trong các tiết học Toán và các hoạt động khác tôi luôn cố gắng suy nghĩ sáng tạo ra một số trò chơi mới để áp dụng vào giờ học nhằm thay đổi hoạt động chống sự chán nản, mệt mỏi, làm cho trẻ có hứng thú hoạt động.

* Trò chơi 1: “Câu cá” (Chủ đề thế giới động vật ).

Chuẩn bị: Mỗi tổ 1 cần câu có móc câu, 10 con cá, trên miệng mỗi con có làm vòng tròn để trẻ câu.

Luật chơi: Trẻ bât qua các con suối khi bật không dẫm vào vạch và câu được cá bỏ vào giỏ. Nếu dẫm vào vạch phải quay trở lại.

Cách chơi: Chia lớp làm 2 (Hay 3) đội tuỳ ý, số trẻ bằng nhau. Lần lượt từng trẻ phải bật nhảy qua các con suối (Ví dụ bài số 3 thì 3 con suối). Sau đó cầm cần câu, câu cá bỏ vào giỏ. Cứ như vậy bạn này về, bạn khác tiếp tục lên. Trong thời gian ” một bản nhạc “, tổ nào câu được nhiều cá là thắng cuộc.

* Trò chơi 2: “Nghe âm thanh tạo số lượng” Mục đích trò chơi

– Trẻ đếm số lượng trong phạm vi 5

– Trẻ được vận động cơ thể

– Luyện tai nghe cho trẻ

Ví dụ:

– Chủ đề thế giới động vật cô giả làm tiếng kêu một số con vật cho trẻ đếm sau đó bắt chước lại.

– Chủ đề giao thông cho trẻ đếm tiếng còi xe, còi tàu …

* Trò chơi 3: “Chơi gôn” Mục đích:

– Trẻ ôn luyện, nhận biết các hình, khối cơ bản

– Luyện nhận biết chữ số từ 1đến 10

Chuẩn bị:

– 5 đến 10 khốí cầu ( quả bóng nhỏ – làm bóng gôn )

– Tạo các ” lỗ gôn ” có miệng là, hình vuông, hình chữ nhật (Khi trẻ học hình, khối) có thể ghi chữ số để cho trẻ học chữ số

– Gậy đánh gôn

Cách chơi:

– Trẻ sẽ để quả bóng ở một vị trí theo quy định và dùng gậy đánh làm sao cho quả bóng đi vào lỗ, nếu quả bóng rơi vào ” lỗ gôn” miệng là hình gì thì được thưởng một khối có mặt là hình đó. Hoặc ” lỗ gôn ” có gắn chữ số nào thì được thưởng một bông hoa hay một món quà có gắn chữ số đó.

Ví dụ: Trẻ đánh vào lỗ miệng hình vuông thì được thưởng khối vuông (tự ra chọn quà).

Nếu là bài số lượng trẻ đánh quả vào lỗ ghi số nào thì trẻ được từng đó điểm. Ví dụ: vào lỗ số 5 được thưởng 5 điểm trẻ nhận được một bông hoa hoặc 1 món quà có số 5.

Luật chơi:

Nếu trẻ đánh bóng không đúng ” lỗ gôn ” thì không được nhận quà

Qua việc sử dụng trò chơi trong các giờ làm quen với biểu tượng toán, tiết học trở lên sôi nổi, trẻ được tham gia hoạt một cách toàn diện, tinh thần thoải mái nên có thể không bị mệt mỏi và căng thẳng. Điều này đã tạo cho trẻ hứng thú hăng say trong quá trình tham gia hoạt động học tập.

g. Ứng dụng công nghệ thông tin vào bài giảng

Xã hội ngày càng văn minh hiện đại, trình độ khoa học phát triển cao cùng với sự bùng nổ thông tin việc áp dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy đã trở thành một yêu cầu đối với các cấp học. Đối với cấp học mầm non việc áp dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy là hết sức cần thiết. Một phần thay đổi không khí lớp học, tạo cho trẻ tâm thế thoải mái, gây hứng thú cho trẻ trong việc tiếp thu kiến thức. Một phần bước đầu cho trẻ làm quen với công nghệ thông tin.

Hoặc khi cho trẻ ôn luyện và nhận biết hình vuông, tam giác, chữ nhật, hình tròn. Tôi cũng đã lựa chọn trò chơi trên phần mềm, trẻ phải dùng “chuột” lựa trọn các hình để lắp ghép một ngôi nhà theo yêu cầu.

Ví dụ: “ Hãy xây giúp tôi một ngôi nhà có tường nhà tà hình chữ nhật to, cửa chính là hình chữ nhật nhỏ, cửa sổ là hình vuông, mái nhà là hình tam giác”. Sau mỗi yêu cầu trẻ kích ” vào hình ở phía trái màn hình để tạo thành ngôi nhà…

Khi cho trẻ chơi trò chơi, hay dạy kiến thức toán học cho trẻ kết hợp trên máy vi tính, tôi thấy trẻ rất say sưa và hào hứng trẻ tham gia rất tích cực vào hoạt động.

Trong các tiết học làm quen với toán tôi cũng có thể sử dụng một số thao tác ứng dụng công nghệ thông tin cho việc giảng bài của mình.

Ví dụ: Tôi dùng muỗng nhựa sữa chua làm chuồn chuồn hoặc len quấn làm con gà, vỏ sò làm cá, con chim, vỏ chai dầu gội, dầu xả làm con voi, con thiên nga, chim cánh cụt vỏ sữa chua làm con vịt, gà con …

1.3. Kết quả đạt được

Như vậy sẽ làm cho trẻ hứng thú trong giờ học tạo được sự hấp dẫn lôi cuốn trẻ vào giờ học.

Trong quá trình nghiên cứu tìm tòi, triển khai áp dụng các thủ thuật sử dụng các đồ dùng, đồ chơi, trực quan, các yếu tố nêu trên vào hoạt động cho trẻ làm quen với biểu tượng toán sơ đẳng. Tôi đã thu được kết quả rất khả quan như sau:

B¶ng: KÕt qu¶ tæng kÕt Kü n¨ng quan s¸t trải nghiệm sử dụng đồ dùng ,đồ chơi trực quan, tư duy của trẻ sau khi áp dụng đề tài ,

(Tæng sè trÎ lµ 22)

+ Chất lượng và kết quả giờ dạy của tôi được nhà trường và chuyên môn đánh giá có chất lượng và sáng tạo.

+ Trẻ có hứng thú tham gia các hoạt động làm quen với toán, trẻ đã phát huy được tính tích cực.

+ 100% các cháu 4 – 5 tuổi đã nhận biết được 10 chữ số, thêm bớt thành thạo trong phạm vi 5, nhận được các hình, khối cơ bản.

+ 90% trẻ đã xác định được vị trí trong không gian.

+ 90% các cháu có khả năng so sánh tốt.

+ 85 trẻ biết sắp xếp theo quy tắc

+ Thái Độ: Trẻ hứng thú hoạt động chung các lớp.

– Trẻ hăng hái giơ tay phát biểu ý kiến.

Trẻ có nền nếp và thói quen học tậ tốt và trật tự.

* Về ý trí:

+ Về cảm xúc tình cảm: Trẻ hào hứng tiếp nhận kiến thức một cách thoải mái thông qua các hoạt động nhóm, tập thể…

– Trẻ tập trung vào nội dung cô hướng dẫn

– Thời gian tập trung nhận thức vấn đề tốt hơn.

+ Kết quả cụ thể:

– Trẻ hào hứng học tập, tập trung chú ý: 100%

– Trẻ mạnh dạn hồn nhiên: 100%

– Trẻ trả lời đúng câu hỏi của cô là 98%

1.3.2. Kết quả của cô giáo

– `100% trẻ tham gia vào hoạt động

– Cô giáo đã tạo được môi trường học tập và vui chơi cho trẻ trong và ngoài lớp có khoa học.

1.4. Bài học kinh nghiệm

– Bổ sung được nhiều đồ dùng ,đồ chơi cho tiết dạy.

Qua quá trình học tập và giảng dạy, của đề tài tôi nhận thấy ngay từ khi mới sinh ra trẻ em như một tờ giấy trắng chưa hình thành các biểu tượng về toán ban đầu của trẻ. Vì thế người lớn nói chung và các cô giáo Mầm non nói riêng là trực tiếp tác động đến trẻ nhằm dần dần hình thành cho trẻ những biểu tượng ban đầu về cuộc sống. Trẻ 4 – 5 tuổi vốn hiểu biết còn ít, vì vậy những biểu tượng về Toán ban đầu cho trẻ chỉ là dạng sơ khai mới mẻ. Vì thế để hình thành được biểu tượng về toán trẻ cần dựa vào vốn tích luỹ của bản thân vốn ngôn ngữ nhất định để diễn đạt trong việc hướng dẫn trẻ làm qeun với toán, giáo viên đóng vai trò rất quan trọng trong việc hướng dẫn trẻ nhận thức các biểu tượng sơ đẳng về toán làm tăng thêm vốn hiểu biết về trẻ.

Vì vậy muốn đạt được kết quả cao trong hoạt động làm quen với toán. Trước khi lên lớp tôi soạn bài đầy đủ, nắm chắc giáo án phương pháp lên lớp theo đúng trình tự loại tiết để giảng dạy và đan xen với mọi hoạt động để trẻ nắm chắc các nội dung bài học .

Và tôi luôn phải tìm tòi học hỏi các đồng nghiệp, qua các tập san các cuốn bồi dưỡng chuyên môn phù hợp với nội dung giáo dục và mọi hoàn cảnh địa phương để phát triển và nâng cao tay nghề, linh động trong quá trình dạy học, nhất là đồ dùng, đồ chơi đẹp, sáng tạo hấp dẫn trẻ đưa trẻ vào thế giới ham học, tìm tòi.

Khi có những thay đổi trong chuyên đề tôi đã kịp thời áp dụng ngay và xin ý kiến nhà trường tạo điều kiện cho tôi về cơ sở vật chất.

Trong khi luyện tập cần phải động viên, khuyến khích trẻ kịp thời để tạo cho trẻ hứng thú học hơn. Từ những đồ dùng, đò chơi làm ra cô giáo phải tạo môi trường cho trẻ được tiếp xúc, tạo tình huống cho trẻ hoạt động, bằng mọi cách cho trẻ được trải nghiệm hoà mình vào các đò chơi mà trẻ được làm quen.thường xuyên đánh giá hiệu quả đồ dùng trực quan qua các bài dạy để thay đổi, tình huống mới gây sự bất ngờ chú ý của trẻ.

PHẦN III. KẾT LUẬN

Điều cần thiết nhất là cần phải biết phới kết hợp chặt chẽ với phụ huynh làm tốt công tác tuyên truyền các bậc cha mẹ để nhận được sự giúp đỡ đồng tình, từ đó đứa con em mình ngày càng tiến bộ và có một lòng khao khát thích học, không những môn ” Làm quen với toán ” mà còn có ích cho các bộ môn học khác nữa. Tôi luôn luôn không ngừng ở đây mà còn luôn luôn quan tâm tìm tòi học hỏi và sáng kiến ra nhiều nghiệm cho mình hơn nữa.

1. Kết luận: Từ những kết quả nghiên cứu trên cơ sở tôi rút ra kết luận sau:

– Giáo viên cần nghiên cứu các phương pháp theo bộ môn và theo giờ hoạt động.

– Người giáo viên cần phải có nghệ thuật khi tiếp xúc với trẻ, cần phải nâng cao kiến thức, biết cách xử lý tỉnh huống sư phạm. Dạy trẻ ở mọi lúc, mọi nơi trong các hoạt động, giúp đỡ những trẻ yếu tiếp thu bài chậm, khen ngợi kịp thời với trẻ học khá hơn để trẻ cố gắng phát huy những khả năng của mình.

– Xây dựng môi trường học tập cho phù hợp.

– Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ.

– Tôi có được những kết quả trên là nhờ vào đồng nghiệp Ban Giám hiệu nhà trường ,hội cha mẹ trẻ đã tạo điều kiện thời gian giúp tôi học hỏi, suy nghĩ và tìm ra những sáng kiến mới để giúp cho bản thân tôi đạt được hiệu quả trong quá trình truyền thụ kiến thức đến với trẻ.

– Việc làm này không chỉ có ý nghĩa lớn lao đối với các nhà nghiên cứu mà đối với các trường Mầm non phải đặc bịêt là các giáo viên Mần non cần nắm vững những nội dung chương trình và thường xuyên mở rộng nội dung chương trình.

– Ngoài việc cung cấp cho trẻ những kiến thức, kỹ năng mới mà còn phải thường xuyên tổ chức cho trẻ luyện tập bằng các biện pháp phù hợp nhằm ôn luyện, củng cố và nâng cao chất lượng các biểu tượng về hình khối cho trẻ.

2. Một số ý kiến đề xuất

– Tôi xây dựng hệ thống tổ chức trò chơi học tập nhằm ôn luyện. Củng cố làm quen những kiến thức, kỹ năng về hình khối như phân biệt nhận biết các dạng từ đơn giản đến phức tạp, kết quả thu được phù hợp với giả thuyết khoa học mà tôi đã đưa ra.

– Tổ chức bồi dường thường xuyên cho các giáo viên Mầm non về chuyên đề toán để giúp giáo viên nắm bắt, tiếp cận những vấn đề đổi mới. Bổ sung hỗ chợ tài liệu mới trong và ngoài nước để giáo viên được học hỏi, tiếp cận những cái mới.

– Tạo điều kiện cho chị em được dự giờ đồng nghiệp để cùng trao đổi kinh nghiệm giảng dạy.

– Khuyến khích giáo viên đăng ký thi đua dạy tốt môn toán, viết sang kiến kinh nghiệm để giáo viên trong trường học hỏi lẫn nhau.

– Cần trang bị đầy đủ Cô giáo phải nắm chắc nội dung chương trình và phương pháp bộ môn.

Phan Thị Phượng @ 10:14 04/04/2014 Số lượt xem: 5459

Bạn đang xem bài viết Đề Tài Phương Pháp Sử Dụng Đồ Dùng Trực Quan Trong Dạy Học Lịch Sử trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!