Xem Nhiều 6/2023 #️ Dịch Cân Kinh, Dịch Cân Kinh Chữa Bệnh, Dịch Cân Kinh Tăng Cường Sức Khoẻ. Dich Can Kinh Chua Benh, Dich Can Kinh Tang Cuong Suc Khoe, Dichcankinh # Top 14 Trend | Sansangdethanhcong.com

Xem Nhiều 6/2023 # Dịch Cân Kinh, Dịch Cân Kinh Chữa Bệnh, Dịch Cân Kinh Tăng Cường Sức Khoẻ. Dich Can Kinh Chua Benh, Dich Can Kinh Tang Cuong Suc Khoe, Dichcankinh # Top 14 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Dịch Cân Kinh, Dịch Cân Kinh Chữa Bệnh, Dịch Cân Kinh Tăng Cường Sức Khoẻ. Dich Can Kinh Chua Benh, Dich Can Kinh Tang Cuong Suc Khoe, Dichcankinh mới nhất trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Phương pháp luyện Dịch Cân Kinh

Đầu tiên là nói về tư tưởng:

 - Phải có hào khí, nghĩa là phải có quyết tâm luyện tập cho đến nơi đến chốn, vững vàng, tin tưởng không vì lời bàn ra tán vào mà chán nản bỏ dở

.- Phải lạc quan, không lo sợ đang mang bệnh mà mọi người gọi là hiểm nghèo, phải tin tưởng rằng mình sẽ thắng bệnh do việc luyện tập Dịch Cân Kinh.

Tư thế

Lên không, xuống có:

Trên phải không, dưới nên có. Đầu treo lơ lửng, miệng không hoạt động, bụng phải mềm, lưng thẳng, thắt lưng mềm dẻo, hai cánh tay phải vẫy, cùi chỏ thẳng và mềm, cổ tay mềm, hai bàn tay ngửa ra phía sau xoè ra như cái quạt. Trong khi vẫy, hậu môn phải thót, gót chân lưng, hậu môn phải chắc, bàn chân phải cứng, các ngón chân bám chặt như bám trên đất trơn. Đây là những qui định cụ thể của các yêu cầu cơ bản khi tập luyện Dịch Cân Kinh.

Dựa theo yêu cầu này, khi tập vẫy tay thì từ cơ hoành trở lên phải giữ cho được trống không, buông lỏng, thảnh thơi, đầu không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý vào việc luyện tập, xương cổ buông lỏng để có cảm giác như đầu treo lơ lửng, mồm giữ tự nhiên (không mím môi), ngực trên buông lỏng để phổi tự nhiên. Hai cánh tay để tự nhiên giống như hai mái chèo gắn vào vai. Từ cơ hoành trở xuống phải giữ cho chắc đủ sức căng, bụng dưới thót vào, hậu môn nhích lên, mười ngón chân bám sát mặt đất, gót chân để phẳng lên mặt đất, bắp chân trong trạng thái căng thẳng, xương sống thẳng như cây gỗ. Khi vẫy tay nhớ nhẩm câu: “lên có, xuống không.” Nghĩa là lấy sức vẫy tay về phía sau (lên), khi tay trả lại phía trước là do quán tính, không dùng sức đưa tay ra phía trước (xuống).

Trên ba dưới bảy:

Là phần trên để lỏng độ ba phần khí lực, phần dưới lấy gân sức bảy phần khí lực. Vấn đề này quán triệt đầy đủ thì hiệu quả sẽ tốt.

Mắt nhìn thẳng:

Không nghĩ ngợi gì cả, miệng nhẩm đếm lần vẫy.

Các bước tập cụ thể như sau:

a) Đứng hai bàn chân bằng khoảng cách hai vai.

b) Hai cánh tay duỗi thẳng theo vai, các ngón tay xoè thẳng, lòng bàn tay quay ra sau.

c) Bụng dưới thót lại, lưng thẳng. Bụng trên co lại, cố để lưng, đầu và miệng bình thường.

d) Các đầu ngón chân bám trên mặt đất, gót sát đất, bắp chân và đùi chân căng thẳng.

e) Hai mắt chọn một điểm đằng xa làm mục tiêu để nhìn, không nghĩ ngợi lung tung, luôn chú ý vào các ngón chân đang bám đất. Đùi vế bắp chân cứng. Thót hậu môn thật chặt và nhẩm đếm.

f) Dùng sức vẫy hai tay về phía sau, khi trả hai bàn tay lại phía trước, chú ý để nó buông theo quán tính, tuyệt đối không dùng sức. Tuy nhiên chân vẫn lấy gân cứng lên, hậu môn vẫn thót và co lại không lơi lả.

g) Vẫy tay từ 200, 300, 400, 500, 600, 700 lần, dần dần tăng lên tới 1,800 lần vẫy, (1,800 ước chừng 30 phút).

h) Phải có quyết tâm đềâu đặn tập trung vào sự luyện tập, không nôn nóng tập nhanh, tập nhiều vì dục tốc bất đạt. Nhưng cũng không tùy tiện bửa tập nhiều, bửa ít hoặc nghỉ tập, vì như vậy sẽ làm mất lòng tin trong luyện tập, khó có hiệu quả.

Bắt đầu tập luyện cũng không nên làm tổn thương các ngón chân (sau buổi tập vuốt ve các ngón chân mỗi ngón 9 lần). Nôn nóng muốn khỏi bệnh này mà dùng nhiều sức sẽ không đem lại kết quả. Có quyết tâm nhưng phải từ từ tiến dần mới đúng cách, mới kết quả tốt. nếu tinh thần không tập trung, tư tưởng phân tán thì khí huyết loạn xạ, và không chú ý đến “trên nặng, dưới nhẹ” là sai hỏng.

Khi đã vẫy tay đến 600 lần trở lên thường có trung tiện (đánh dắm), hắt hơi, và hai chân nhức mỏi, toát mồ hơi, mặt nóng bừng… chỉ là hiện tượng bình thường đừng lo ngại. Trung tiện và hắt hơi là do nhu động của đường ruột tăng lên đẩy mạnh cơ năng tiêu hóa. Chân mỏi là do khí huyết dồn xuống cho hợp với vũ trụ là “thiên khinh địa trọng” (trên nhẹ dưới nặng), đấy là qui luật sinh hợp với vũ trụ: Thiên khinh địa trọng.

Sở dĩ bệnh gan là do khí huyết tạng gan không tốt gây nên khí bị tích lũy làm cho gan khó bài tiết, do đó ảnh hưởng đến ống mật và cả tì vị. Luyện Dịch Cân Kinh có thể giải quyết được vấn đề này, nếu sớm có trung tiện là hiệu quả tốt. Về bệnh mắt, luyện Dịch Cân Kinh là có thể khỏi chứng đau mắt đỏ với các chứng đau mắt thông thường, cận thị, thậm chí được cả chứng đục thủy tinh thể; trong nội kinh có nói mắt nhờ huyết mà nhìn được, khi khí huyết không dẫn đến các bộ phận của mắt, do vậy sinh ra các bệnh tật do mắt. Đôi mắt là bộ phận thị giác cũng là bộ phận quan trọng của cơ thể.

Những phản ứng khi luyện Dịch Cân Kinh

Khi luyện tập, cơ thể sẽ có những phản ứng, nhưng tất cả đều là hiện tượng thải bệnh, không nên lo nghĩ. Liệt kê 34 phản ứng thông thường và còn nhiều phản ứng không kể hết được.

1) Đau buốt. 2) Tê dại. 3) Lạnh. 4) Nóng. 5) Đầy hơi. 6) Sưng. 7) Ngứa. 8) Ứa nước giải. 9) Ra mồ hơi. 10) Cảm giác như kiến bò. 11) Giật gân, giật thịt. 12) Đầu khớp xương có tiếng lục cục. 13) Cảm giác máu chảy dồn dập. 14) Lông tóc dựng đứng. 15) Âm nang to lên. 16) Lưng đau. 17) Máy mắt, mi giật. 18) Đầu nặng. 19) Hơi thở nhiều, thở dốc. 20) Nấc. 21) Trung tiện. 22) Gót chân nhức như mưng mủ. 23) Cầu trắng dưới lưỡi. 24) Đau mỏi toàn thân. 25) Da cứng, da dày rụng đi (chai chân). 26) Sắc mặt biến đi. 27) Huyết áp biến đổi. 28) Đại tiện ra máu. 29) Tiểu tiện nhiều. 30) Nôn, mửa, ho. 31) Bệnh từ trong da thịt bài tiết ra. 32) Trên đỉnh đầu mọc mụt. 33) Ngứa từng chỗ hay toàn thân. 34) Chảy máu cam.

ứ đọng gọi là bệnh tật. Khi có sự phản ứng là có sự xung đột giữa chánh khí và tà khí, nếu ta vẫn tập luyện sẽ sản sinh các chất bồi bổ có lợi cho chánh khí. Ta tập đúng cách và làm tăng sức đề kháng, nó đẩy cặn bã trong cơ, gan, thần kinh và các tế bào khác mà mạch máu lưu thông bình thường không thải nổi. Như luyện tập Dịch Cân Kinh mà khí huyết lưu thông mới đưa nổi cặn bã ra ngoài nên sinh ra phản ứng. Vậy không nên lo sợ, cứ tiếp tục luyện tập như thường. Có một phản ứng hiển nhiên là khỏi một căn bệnh, cứ tập luyện đều đặn sẽ đạt hiệu quả tốt

Luyện Dịch Cân Kinh đạt được 4 tiêu chuẩn sau:

– Nội trung: Tức là nâng cao khí lên, then chốt là điều chỉnh tạng phủ. Lưu thông khí huyết. Thông khí sẽ thông suốt lên đến đỉnh đầu

 - Tứ trưởng tố: Tức là tứ chi phối hợp với các động tác theo đúng nguyên tắc theo luyện tập. Tứ trung tế song song với nội trung sẽ làm cho tà khí bài tiết ra ngoài, trung khí dồn xuống, cơ năng sinh sản ngày càng mạnh

là Bách hội: một huyệt trên đỉnh đầu, Gio cung: huyệt ở hai bàn tay, Dũng tuyền: huyệt ở hai gan bàn chân. Khi luyện tập, 5 huyệt này đều có phản ứng và hoàn toàn thông suốt Nhâm đốc và 12 kinh mạch đều đạt tới hiệu quả, nó làm tăng cường thân thể, tiêu trừ các bệnh nan y mà ta không ngờ.

  – Lục phủ minh: Đó là ruột non, ruột già, mắt, dạ dày, bong bóng, tam tiêu sẽ thông suốt, nghĩa là không trì trệ. Lục phủ có nhiệm vụ thâu nạp thức ăn, tiêu hóa, bài tiết được thuận lợi nếu không bị trì trệ, ứ đọng, cơ năng sinh sản có sức tiếp, giữ vững trạng thái bình thường của cơ thể tức là Âm Dương thăng bằng, cơ thể thịnh vượng.

Một số điều cần lưu ý khi luyện tập

1) Số lần vẫy tay không dưới 800 lần. Từ 800 lần lên dần 1,800 lần (khoảng 30 phút) mới tới ngưỡng cửa của điều trị. Người bệnh nặng có thể ngồi mà vẫy tay, tuy nhiên phải nhớ thót hậu môn và bấm mười đầu ngón chân.

2) Số buổi tập: Sáng thành tâm tập mạnh – Trưa trước khi ăn tập vừa – Tối trước khi ngủ tập nhẹ.

3) Có thể tập nhiều tùy theo bệnh trạng. Có bệnh nhân nâng số vẫy tay tới 5, 6 ngàn lần trong một buổi tập. Nếu sau khi tập thấy ăn ngon ngủ tốt, tiểu và đại tiện thấy điều hòa, tinh thần tỉnh táo, thì chứng tỏ số lần vẫy tay khi luyện tập là thích hợp.

4) Tốc độ vẫy tay. Theo nguyên tắc thì nên chậm. Bình thường thì vẫy 1,800 lần hết 30 phút. Vẫy lúc sau hơi nhanh hơn lúc đầu một chút, khi đã thuần thì vẫy hẹp vòng. Bệnh nhẹ thì nên vẫy nhanh và dùng sức nhiều hơn. Bệnh nặng thì nên vẫy hẹp vòng và chậm, bớt dùng sức. Vẫy tay nhanh quá làm cho tim đập nhanh mau mệt, mà chậm quá thì khơng đạt tới mục đích. Vì luyện tập là cần có mạch máu lưu thông.

5) Khi vẫy tay dùng sức nhiều hay ít (nặng hay nhẹ): Vẫy tay là môn thể dục chữa bệnh chứ không phải môn thể thao khích biệt. Đây là môn thể dục mềm dẻo, đặc điểm của nó là dụng ý không dùng sức, nhưng nếu vẫy tay nhẹ quá cũng không tốt, bởi vì bắp vai không lắc mạnh thì lưng và ngực không chuyển động nhiều, tác dụng sẽ giảm đi. Vẫy tay không chỉ có chuyển động cánh tay mà chính yếu là chuyển động hai bắp vai. Bệnh phong thấp thì dùng sức ở mức nhẹ và vẫy tay chậm. Nói tóm lại, phần lớn tự mình nắm vững tình trạng, phân tích các triệu chứng sau khi nghe sự nhận xét của mọi người, tự mình cảm nhận sự biến chuyển trong cơ thể, nhanh nhẹn, hồng hào, tươi tỉnh hay là xấu hơn trước. Tự mình suy nghĩ rồi quyết định cách cách tập trên nguyên tắc là tập thế nào cho cảm thấy thoải mái, dễ chịu là đúng và tốt nhất. Đông y cho rằng động tác nhẹ là bổ ích (ích lợi cho cơ thể), động tác mạnh là loại bỏ các chất cặn bã có hại cho cơ thể (tức bệnh tật). Lý luận này đang được nghiên cứu.

6) Khi vẫy tay về phía sau dùng sức 7 phần, khi trả tay về phía trước thuộc về quán tính còn chừng 5 phần.

7) Đếm số lần vẫy tay : Đếm không phải để nhớ mà có tác dụng làm cho đầu óc bình tỉnh, có tác dụng tốt cho não được căng thẳng và không nghĩ ngợi lung tung. Chân Âm được bồi dưỡng.

8) Hoàn cảnh khi luyện tập (nơi chốn): Không có khác biệt, ở nơi đâu cũng tập được, dĩ nhiên nơi nào có không khí trong lành và yên tỉnh vẫn tốt hơn.

9) Trước và sau khi tập: Trước khi tập, đứng bình tỉnh cho tim được thoải mái, đầu óc được yên tỉnh để chuyển hóa về sinh lý và tâm lý. Ta có thể làm những động tác nhẹ nhàng thoải mái như trong môn khí công. Sau khi tập cũng phải bình tỉnh vê 10 đầu ngón tay và 10 đấu ngón chân đủ 9 lần. Người không đủ bình tỉnh nên cần chú ý đến điểm này.

10) Luyện tập Dịch Cân Kinh đúng phép: Sau khi tập thấy ngứa và bụng nhẹ nhàng, hơi thể điều hòa, mắt sáng, nước giải ứa ra nhiều, đại tiện dễ dàng, ăn ngon ngủ tốt, tinh thần tỉnh táo, bệnh tật bớt dần, thì đó là đã luyện tập Dịch Cân Kinh đúng phép. Sau khi tập, đại đa số thấy có phản ứng nhưng về hiệu quả thì rất khác nhau. Nguyên nhân chính là khi tập, tư thế có thích hợp với người tập hay không.

11) Khi tập cần chú ý đến các điểm sau đây: – Nửa thân trên buông lỏng (thượng hư) – Nửa thân dưới giữ chắc, căng mạnh (hạ thực) – Khi tay trả lại phía trước, không dùng sức (nhẹ) – Tay vẫy về phía sau dùng sức (nặng, mạnh) – Mỗi lần tập tăng dần số lần vẫy tay – Tâp ngày 3 buổi, kiên quyết tự chữa bệnh cho mình.

kiên quyết tới cùng. Tập đủ số lần nhất định, tập thường xuyên thì hiệu quả rất tốt. Nếu khi tập khi nghỉ, không đủ số lần tập nhất định, trong lòng còn nghi hoặc, bị động theo dư luận, thấy phản ứng lo sợ vội bỏ tập thì nhất định không kết quả.

13) Vẫy tay có sinh ra bệnh gì không? Có thể sinh bệnh do tư thế không đúng và làm sai nguyên tắc. Nhưng trong trường hợp này cũng hạn hữu không tới 1%.

14) Khi tập phải tránh đứng đầu ngọn gió cả mùa hè lẫn mùa đông.

Tóm lại, cần lưu tâm vào những điều sau:

 - Khi tập, luôn luôn bám chặt các ngón chân vào mặt đất.  - Thắt hoặc co hậu môn thật mạnh để giữ thế “thượng thư hạ thực”.  - Vẫy tay từ ít tới nhiều và phải đạt 1,800 lần mới có hiệu quả.  - Khi gặp phản ứng đừng ngại, đó là diễn biến tốt, cứ tập số lần như cũ. Khi hết phản ứng hãy tăng số lần vẫy tay lên.  - Giữ vững lòng tin, kiên trì quyết tâm tin tưởng, tập luyện tới cùng, chắc chắn sẽ đẩy lùi các bệnh tật ta đang mắc phải.  - Luyện tập Dịch Cân Kinh không chỉ chữa khỏi bệnh mà còn là một phương pháp phòng bệnh rất hữu hiệu.

Ghi Chú

Tài liệu Dịch Cân Kinh này của cụ lương y TRẦN VĂN BÌNH, người đã phổ biến và đưa tài liệu cho Phạm Viết Hồng Lam, 43 tuổi (Giảng viên Hội Họa trường Cao đẳng Sư Phạm Nhạc Họa) để tự chữa khỏi bệnh.

Hồng Lam bị ung thư viêm họng ở giai đoạn II, lâm vào một tình thế bế tắc. Anh đã được cụ Bình trao tập tài liệu luyện tập Dịch Cân Kinh này, và anh đã luyện tập để tự chữa bệnh. Điều thần diệu đã đến, sau 3 tháng luyện tập, bệnh của anh đã khỏi hẳn và sức khoẻ ngày một tăng không ngờ (Tài liệu được trao ngày 7/2/1989, anh tập đến tháng 5/1989 thì hết bệnh).

Sau khi hết bệnh, anh Hồng Lam kể lại quá trình luyện tập chữa bệnh của mình cho bạn bè thân thuộc nghe, đồng thời anh cũng giới thiệu tập tài liệu này trên báo Hà-Nội Mới để chứng minh cho điều mình đã kể cũng như để cho đồng bào cả nước cùng biết. Tài liệu này đã trích lại từ tờ báo đó.

Vẩy Tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh

Vẩy Tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh Chữa Bệnh và Tăng Cường Sức Khỏe(video hướng dẫn tham khảo cuối bài)

Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh – Đã lưu truyền và được kiểm chứng trên ngàn năm chứng tỏ tác dụng tuyệt vời của bài tập này trong việc Nâng cao Sức khỏe và Tinh thần, Một phần lý do vượt thời gian của bài tập này là người tập nó có thể chữa khỏi được nhiều loại bệnh tật khác nhau, từ bệnh đơn giản cho tới nan y, ung thư ngay trong thời đại tên lửa và vũ trụ này.

Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh – Đã lưu truyền và được kiểm chứng trên ngàn năm chứng tỏ tác dụng tuyệt vời của bài tập này trong việc Nâng cao Sức khỏe và Tinh thần, Một phần lý do vượt thời gian của bài tập này là người tập nó có thể chữa khỏi được nhiều loại bệnh tật khác nhau, từ bệnh đơn giản cho tới nan y, ung thư ngay trong thời đại tên lửa và vũ trụ này.

Dịch cân kinh (chữ Hán nghĩa là cuốn kinh chỉ phép co duỗi gân), là tên gọi ngắn gọn của Dịch cân tẩy tủy kinh hay có nơi gọi là Đạt Ma dịch cân kinh, là một cuốn sách võ thuật dạy cách thổ nạp chân khí, nhằm cường thân kiện thể, trường sinh.

Mặc dù không phải ai tập cũng có thể chữa khỏi bệnh, tuy nhiên nhiều người tập vẩy tay Dịch Cân Kinh đã cải thiện nâng cao được sức khỏe hoặc chữa khỏi bệnh, trong đó có cả bệnh mãn tính, nan y, ung thư .v.v. Ngoài ra nếu người bình thường, không thích đi bộ hay tập các bộ môn thể thao, dưỡng sinh, khí công khác, thì có thể lựa chọn tập luyện vẩy tay dịch cân kinh ngay tại nhà, rất tiện lợi để nâng cao sức khỏe, phòng ngừa bệnh tật, chính là uống thuốc bổ không mất tiền.

Hai bàn chân để xích ra bằng khoảng cách của hai vai.

Hai cánh tay duỗi thẳng theo vai, ngón tay xòe thẳng, lòng bàn tay quay về phía sau.

Bụng dưới thót lại, lưng thẳng, bụng trên co lên, cổ lỏng, đầu miệng trong trạng thái bình thường.Các đầu ngón chân bám trên mặt đất, gót chân sát đất, bắp chân và đùi căng thẳng.

Hai mắt chọn một điểm đàng xa để nhìn, không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý vào ngón chân bám đùi vế chắc, lỗ đít thót và nhẩm đếm.Dùng sức vẫy tay về phía sau, để hai tay trở hai phía trước theo quán tính, tuyệt đối không dùng sức, chân vẫn lấy gân, hậu môn co lên không lòi.

Vẫy tay từ 300-400-500-600 dần dần lên tới 1.000 cái vẫy tay, ước chừng 30 phút.

Phải có quyết tâm tập đều đặn, lần vẫy tay dần dần tăng lên không miễn cưỡng vì “dục tốc bất đạt”, nhưng cũng không tùy tiện bữa tập nhiều, bữa tập ít hoặc nghỉ bệnh, vì thế dễ làm mất lòng tin trong việc luyện tập, như vậy khó có kết quả.

Bắt đầu luyện tập cũng không nên dùng tận lực tàm tổn thương các ngón chân (nên sau buổi tập vân vê các ngón chân, tay, mỗi ngón chín lần). Nôn nóng mong muốn khỏi bênh ngay mà dùng quá sức cũng không đưa lại kết quả mong muốn. Có quyết tâm, nhưng phải từ từ tiến lên mới là đúng cách, sẽ thu được kết quả mỹ mãn.

Nếu tinh thần không tập trung, tư tưởng phân tán, thì khí huyết loạn xạ, và không chú ý đến “trên nhẹ dưới nặng” là sai và hỏng.

Khi vẫy tay tới 600 cái trở lên, thường thường có trung tiện, hắt hơi, hai chân nhức mỏi, toát mồ hôi, mặt nóng bừng… đấy là hiện tượng bình thường đừng ngại.

Trung tiện và hắt hơi là do nhu động của đường ruột tăng lên, đẩy mạnh cơ năng tiêu hóa. Chân mỏi là do khí huyết dồn xuống cho hợp với “trên nhẹ dưới nặng”. Đây là quy luật của sinh lý hợp với vũ trụ “thiên khinh địa trọng”.

Vì sao tập Dịch Cân Kinh chữa được bệnh nan y?

Lương y, Võ sư Nguyễn Tấn Xuân

Dòng sông có thủy triều lên xuống thì nước trong xanh; ngược lại, dòng sông mà nước không lưu thông thì sẽ đục ngầu, bẩn thỉu. Ở giếng nước cũng vậy, mỗi ngày có nhiều người đến lấy nước thì nước giếng trong veo, mát lành, nhưng cũng giếng nước ấy không sử dụng một thời gian dài thì nước sẽ đổi màu tối sậm, mặt giếng đầy chất bẩn.

Cơ thể con người cũng vậy, nếu không vận động dưỡng sinh mỗi ngày để khí huyết lưu thông điều hòa thì bệnh tật sẽ xuất hiện. Tập “Vẫy tay” trong Đạt Ma Dịch Cân Kinh sẽ làm cho khí huyết lưu thông tốt, vận hành khắp cơ thể để nuôi dưỡng lục phủ ngũ tạng, tống trọc khí ra ngoài thì âm dương được quân bình sẽ hết đau.

Vẫy tay trong Đạt Ma Dịch Cân Kinh được tập theo trình tự:

1/ Chọn nơi yên tĩnh, thoáng mát, đầu óc phải tập trung vào việc tập luyện và tin tưởng tuyệt đối sẽ có kết quả tốt cho sức khỏe. Ngậm kín miệng, lưỡi cong lên đụng nướu răng hàm trên, hai mắt nhìn thẳng vào một điểm phía trước mặt, hơi thở tự nhiên, thầm đếm nhẩm từng lần vẩy tay.

2/ Đứng thẳng người, hai bàn chân dang rộng song song bằng chiều ngang hai vai, từ từ đưa hai tay ra phía trước hợp với thân mình một góc 30 độ, hai bàn tay song song với mặt nền, các ngón tay khép kín. Vẫy mạnh hai tay ra sau hợp với thân mình một góc 60 độ, hai bàn tay vểnh lên trên và phải làm hết sức mình đồng thời nhíu hậu môn lại và thót lên được tính là một lần vẫy tay.

3/ Mười đầu ngón chân bấm chắc mặt nền, hai chân lên gân để thân hình dưới nặng, trên nhẹ.

4/ Mỗi ngày nên tập hai lần, tập lúc bụng trống (không no) và mới đầu chỉ nên tập mỗi lần vài trăm cái vẫy tay rồi từ từ tăng dần. Đến lúc vẫy tay trong 30 phút mà được 1.800 – 2.000 cái là thành công. Sau khi tập thấy khát nước thì cứ uống, lúc tập thấy mệt quá thì nghỉ ngay.

5/ Sẽ có những phản ứng của cơ thể như ngứa ngáy, ho, đầu khớp xương kêu lụp cụp, cảm giác máu chảy dồn dập… đó là dấu hiệu tốt, không phải lo lắng.

6/ Trong 30 phút tập được 1.800 – 2.000 cái, bệnh sẽ được tiêu trừ, cảm thấy rất yêu đời, hạnh phúc, da dẻ hồng hào, ngủ ngon, ăn khỏe, đầu óc minh mẫn, tinh thần sảng khoái.

7/ Tập “Vẫy tay” trong Đạt Ma Dịch Cân Kinh chữa được các bệnh: Suy nhược thần kinh, thấp khớp, huyết áp, tim mạch, hen suyễn, dạ dày, đường ruột… và các bệnh nan y như ung thư, tiểu đường, viêm gan với điều kiện phải tuyệt đối tin tưởng và kiên trì tập luyện thường xuyên mới đạt được kết quả mong muốn.

Năm Đinh Sửu (theo công lịch là năm 917) nhà sư Đạt MA từ Ấn Độ sang Trung Quốc thuyết pháp, truyền giáo rồi ở lại Trung Sơn, Hà Nam (của Trung Hoa) xây dựng Thiếu Lâm Tự (Chùa Thiếu Lâm). Việc truyền tụng một tín ngưỡng mới, khác với niềm tin cũ của người bản xứ, thường dễ sảy ra mâu thuẫn, xung đột nên các đệ tử của Ông vừa lo tu dưỡng, học Phật pháp, vừa phải ra công luyện tập võ nghệ để tự vệ. Từ đó môn võ Thiếu Lâm ra đời và tồn tại mãi đến ngày nay.

Nhiều người xin nhập môn nhưng thể chất kém không thể luyện võ được. Sư Tổ Đạt Ma bèn dạy cho một cách tập luyện để nâng cao thể lực gọi là Dịch Cân Kinh.

“Dịch – thay đổi, Cân – gân cốt, Kinh – sách quí”

Cách tập này rất đơn giản, chỉ cần kiên trì tập vẩy tay đứng phương pháp là sẽ đạt hiệu quả rất lớn: ăn ngon, ngủ tốt, sức khỏe tăng và đặc biệt là trừ được bệnh tật như: suy nhược thần kinh, cao huyết áp, hen xuyễn, các bệnh tim mạch, các bệnh dạ dày, đường ruột, thận, gan, ống mật, trĩ nội … rồi bán thân bất toại, trúng gió méo mồn lệch mắt, … đều biến hết

Nhất là các loại bệnh mãn tính của người cao tuổi, kể cả các loại ung thư đều có thể phòng và trị được. Với các bệnh về mắt, luyện Dịch Cân Kinh có thể chữa khỏi các chứng đau mắt thông thường, đau mắt đỏ và cả đục thủy tinh thể

Theo y lý cổ truyền Phương Đông, mọi bệnh tật đều do mất cân bằng “âm – dương” và trì trệ khí huyết mà ra. Khí huyết của ta vừa các Vệ Sĩ tiêu trừ các yếu tố đọc hại từ ngoài xâm nhập, vừa là Nhà Quản Lý sắp sếp lại nhưng chỗ mất cân bằng.

Y học Phương Đông rất coi trọng vai trò của ý chí, của chủ quan, của nội lực, của chữ “TÂM”. Lo lắng, Bực bội, Không tin tưởng, Độc ác, … đều tác dụng xấu tới sức khỏe. Thanh thản, Hướng thiện, Nhân đức, … vừa mang lại sảng khoái, thăng bằng, mạnh khỏe, vừa dễ cả phòng bệnh lẫn chữa bệnh. Thuốc thang Đông y chỉ kích thích, bổ trợ cho nội lực của chúng ta chống lại bệnh tật. Trái lại, ỷ vào hóa dược của “y học hiện đại” (như dựa vào quân đội ngoại quốc làm lính đánh thuê) thường có tác dụng phụ không mong muốn, nguy hại cho sức khỏe và tuổi thọ !

Nhưng trong Đông y: cái gọi là “huyết” thì chúng ta không thể tách rời và hạn chế từng mặt. Nếu như máu loãng hay đặc, hồng cầu nhiều hay ít, sắc tố như thế nào… để mà nghiên cứu. Họ dùng cách nhìn toàn diện của quá trình sinh lý và quá rình tuần hoàn của huyết mà xem xét.

Lý luận Đông y có triết lý vững vàng. Nó mang tính chất khái quát rất cao, khi nó nêu vấn đề “khí huyết” thì tất nhiên không cô lập, như lấy một giọt máu không sức sống hoặc một bầu máu tách rời cơ thể, mà là cần phân tích đến trạng thái vận động, quá trình sinh lý và các mối quan hệ khác.

Vì “khí” cũng vậy, hào khí (là khí của người hào hiệp) không hề lay động khi đã quyết định, người xem tướng giỏi là người ranh xem khí. Sắc là do thiên vị “khí” (prana) có trong khí trời, vị không rải ra khắp cơ thể được nên mới sinh bệnh.

Cho nên các “khí” của Đông y không bác bỏ cái khí trong không khí mà nó mang lại một nội dung có tính khái quát rộng lớn hơn.

Ta thở không khí vào phổi, ăn vào bụng, ruột hấp thu chất dinh dưỡng, các chất ấy và không khí được đưa đến các tế bào của toàn thân, để có được oxy hóa và sinh ra nhiệt năng, đồng thời cũng đưa những khí thải và thức ăn từ các tế bào trên cơ thể, thu hồi về để bài tiết ra ngoài.

Tuần hoàn tốt, phát huy tác dụng tốt của máy, thì quá trình sinh lý của cơ thể con người tự nhiên thịnh vượng ra, sinh hoạt sức khỏe của con người đương nhiên đảm bảo.

Cho nên trong lý thuyết “khí huyết” không thể đơn độc chỉ có “huyết mà không có “khí” và ngược lại chỉ có “khí” mà không có “huyết”.

Trong Đông y cho rằng máu thuần chủ yếu trong cơ thể con người là “Âm-Dương” mà cũng là “khí huyết” (Âm là khí và Dương là máu).

Luyện “Dịch Cân Kinh” làm cho khí huyết hoạt động điều hòa nên nó có tác dụng chữa bệnh tốt.

Áp dụng “Dịch Cân Kinh” để chữa ung thư. Người xưa dùng “Dương tâm đan” kết hợp với luyện “Dịch Cân Kinh” để chữa khỏi hẳn bệnh ung thư. Tác dụng của thuốc là rút ngắn thời gian điều trị, chứ nó không có tác dụng chữa bệnh, nói như người xưa là “Mạch máu chia đi”. Trong một đơn vị quân đội chẳng hạn, cùng sinh hoạt như nhau, sau một bữa ăn lạ, có người đau bụng đi kiết, đi tả, nhưng cũng có người chẳng bị làm sao. Đây là “Mạch máu chia đi” nên nó giúp cơ thể thải độc tốt. Vậy luyện tập “Dịch Cân Kinh” là chính. Nay ta phân tích bệnh ung thư là gì? Người xưa quan niệm ung nhọt chia ra hai loại: “Âm thư và Dương thư” và có câu: “Dương thư dễ lành, Âm thư khó trị”

Dương thư thì ai cũng biết là cái nhọt mọc ra ngoài, chín rồi vỡ, có máu mủ, và ngòi mủ xanh, dán cao là lành. Âm thư là cái nhọt mọc bên trong cơ thể, không có đầu, không vỡ, chỉ to dần rồi lan tràn, có khi rắn như đá gọi là thạch thư. Nguyên nhân đều do kết tụ của khí huyết làm trở tắc kinh lạc mà các phế vật cần thải, không thải được. Vì máu lưu thông chậm nên các chất keo, dịch gan, các chất làm khô… do không đủ nhiệt năng, nên công năng của máy giảm sút không thể thải được các chất không cần thiết cho cơ thể ra ngoài.

Luyện “Dịch Cân Kinh” tay vẫy đúng pháp, miệng dạ dày mở, máu mới sinh ra nhiệt năng đầy đủ. Các sự chèn ép làm mất thăng bằng trong cơ thể bị xóa bỏ, nên mới khỏi bệnh.

Vẫy tay theo “Dịch Cân Kinh” cơ hoành lên xuống dễ dàng, ruột và dạ dày tiếp được thêm khí nên cũng gây nên tác dụng hưng phấn, và khi chức năng của máu tăng lên thì giúp cho việc “tống cựu nghinh tân” được tốt, “khí huyết” thăng bằng, là đã khỏi bệnh.

Theo số liệu thống kê: Cụ Quốc Chu 70 tuổi, phát hiện u ác ở não và ở phổi, được phổ biến “Dịch Cân Kinh” và luyện ngày một buổi, mỗi tối 2.160 lần. Sau 5 tháng thì hết và khỏi bệnh. Ông Trương Công Phát, 46 tuổi, phát hiện ung thư máu, tập ngày 3 buổi, mỗi buổi vẫy tay 1.800 lần (có dùng thuốc Dương tâm đan…), sau 3 tháng đã đi làm. Đã ba năm vẫn khỏe mạnh. Cụ Từ Mạc Đính, 80 tuổi, bị ung thư phổi kiêm bán thân bất toại, tập 5 tháng khỏi bán thân bất toại, kiểm tra lại thì khối ung thư phổi cũng biến luôn.

Nguyên nhân bệnh ung thư hiện nay trên thế giới còn đang bàn cãi, chưa có thuốc đặc hiệu chữa ung thư.

Nhưng về nguyên nhân ung thư thì thuyết “khí huyết” của Đông y đã lập luận rõ ràng. Vì quá trình sinh lý của con người là một quá trình phát triển, nó mang một nội dung đấu tranh phức tạp. Giữa cái sống và cái chết, giữa ốm đau và mạnh khỏe, giữa già sớm và trẻ dài. Nhưng kết quả của cuộc đấu tranh là do nhân tố nói tại quyết định, chứ không phải do hoàn cảnh bên ngoài.

Nên xem cơ thể con người là một chính thể vận động. Trong vận động này có lục phủ, ngũ tạng đều dựa vào nhau (tức là tương sinh), ức chế lẫn nhau (tức là tương khắc), nhưng “khí huyết” có tác dụng đến tất cả lục phủ ngũ tạng, cho nên việc phát sinh bệnh ung thư cũng do “khí huyết” không chu đáo mà sinh ra. Đông y đã xác định rằng cuộc đấu tranh của cơ thể với bệnh ung thư là cuộc đấu tranh trong nội bộ cơ thể con người, từ đó mà xây dựng quan điểm cho rằng bệnh ung thư là thứ bệnh chữa được.

Đương nhiên bệnh tật do sự trì trệ “khí huyết” mà ra, nó lại làm hao tổn thêm “khí huyết”. Việc tập luyện làm cho khí huyết thay đổi để tự chữa bệnh là thế.

Từ đó mà xây dựng được lòng tin vững chắc của người bệnh, đối với việc tự chữa bệnh ung thư, để tập trung tinh thần và ý chí đầy đủ để luyện tập “Đạt Ma Dịch Cân Kinh”. Bởi phương pháp này thay đổi và tăng cường “khí huyết”, vì thế nó trị được “trĩ nội”, “trĩ ngoại”. Ông Hồ Thức Nguyên bị trĩ nội và đau đầy bụng, chỉ tập một tháng là khỏi. Trước đây mỗi lần ông ngồi xổm là đom bị lòi ra. Chỉ sau một tháng luyện tập là đom hết lòi, mà bệnh đau bụng cũng mất.

Tập “Dịch Cân Kinh” thấy ăn tốt ngủ ngon, đấy là việc phổ biến, nên đã làm tăng sức khỏe cho các bệnh nhân nói chung. Và chữa khá nhiều bệnh như:

Suy nhược thần kinh. Huyết áp cao. Bệnh tim các loại. Bệnh thân. Bán thân bất toại. Trúng gió, méo mồm, lệch mắt. Hen suyễn.

Thậm chí dứt bệnh ác hiểm là bệnh ung thư cũng khỏi

Đông y cho rằng vấn đề cơ bản của bệnh tật con người là do “khí huyết” (Âm-Dương) mất thăng bằng mà sinh ra. “Đạt Ma Dịch Cân Kinh” giải quyết được vấn đề này, nên đối với đa số các loại bệnh, nhất là bệnh mãn tính đều có thể chữa được cả.

Tâp trung đầy đủ ý chí và tinh thần để kiên trì tập luyện theo ĐẠT MA DỊCH CÂN KINH là làm cho khí kuyết lưu thông đều khắp cơ thể, vào cả lục phủ ngũ tạng, các hệ mạch lạc thần kinh … nên có tác dụng kỳ diệu vậy đó !

Trước tiên nói về tinh thần:

Phải có hào khí: nghĩa là có quyết tâm tập cho đến nơi và đều đặn, kiên nhẫn, vững vàng tin tưởng, không nghe lời bàn ra tán vào mà bỏ dở.

Phải lạc quan: không lo sợ vì bệnh mà mọi người cho là hiểm nghèo, và tươi tỉnh tin rằng mình sẽ thắng bệnh do luyện tập.

“Trên không, dưới có, lên ba, xuống bảy”

Trên phải không, dưới nên có. Đầu nên lơ lửng, miệng không hoạt động, bụng phải mềm, lưng nên thẳng, thắt lưng mềm dẻo, cánh tay phải vẫy, cùi chỏ thẳng và mềm, cổ tay trầm, bàn tay quay lại phía sau, ngón tay xòe như quạt. Khi vẫy, lỗ đít phải thót, bụng dưới thót, gót chân lỏng, hậu môn phải chắc, bàn chân phải cứng, ngón chân bấm chặt đất như trên đất trơn. Đây là những quy định cụ thể của các yêu lĩnh khi luyện “Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh’.

Dựa trên yêu cầu này, khi tập vẫy tay, thì từ cơ hoành trở lên, phải giữ cho được trống không, buông lỏng thảnh thơi, đầu không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý tập chung vào tập, xương cổ cần buông lỏng để cho có cảm giác như đầu treo lơ lửng, mồm giữ tự nhiên (không mím môi), ngực nên buông lỏng để cho phổi thở tự nhiên, cánh tay buông tự nhiên, giống như hai mái trèo gắn vào vai. Từ cơ hoành trở xuống phải giữ cho chắc, đủ sức căng, bụng dưới thót vào, hậu môn nhích lên, mười ngón chân bấm chặt vào mặt đất, giữ cho đùi và bắp chân trong trạng thái căng thẳng, xương mông thẳng như cây gỗ.

Khi vẩy tay cần nhớ “lên không, xuống có”, nghĩa là lấy sức vẩy tay về phía sau, khi tay trở lại phía trước là do quán tính, không dùng sức đưa ra phía trước.

“Trên ba, dưới bảy” là phần trên để lỏng chỉ độ 3 phần khí lực, phần dưới lấy gắng sức tới bảy phần thể lực, vấn đề này phải quán triệt đầy đủ thì hiệu quả mới tốt.

Mắt nhìn thẳng, đầu không nghĩ ngợi chỉ nhẩm đếm lần vẫy tay.

Các Bước và Động Tác Tập Cụ Thể:

1. Hai bàn chân để xích ra bằng khoảng cách của hai vai.

2. Hai tay duỗi thẳng theo vai, ngón tay xòe thẳng, lòng bàn tay quay về phía sau.

3. Bụng dưới thót lại, lưng thẳng, bụng trên co lên, cổ lỏng, đầu và miệng trạng thái bình thường.

4. Các đầu ngón chân bám trên mặt đất, gót chân sát đất, bắp chân và đùi căng thẳng.

5. Hai mắt chọn một điểm đằng xa để nhìn, không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý vào ngón chân bám, đùi vế chắc, lỗ đít thót và nhẩm đếm.

6. Dùng sức vẫy tay về phía sau, để hai tay trở hai phía trước theo quán tính, tuyện đối không dùng sức, chân vẫn lấy ân, hậu môn co lên không lòi.

7. Vẩy tay từ 300-400-500-600 dần dần lên đến 1000 cái vẩy tay, ước chừng 30 phút.

8. Phải có quyết tâm tập đều đặn, lần vẩy tay tăng dần lên, không miễn cưỡng vì “dục tốc bất đạt”, nhưng cũng không tùy tiện bữa tập nhiều, bữa tập ít hoặc nghỉ tập, vì thế dễ làm mất lòng tin trong việc luyện tập, như vậy khó có kết quả.

Bắt đầu luyện tập cũng không nên dùng hết sức làm tổn thương các ngón chân. Sau buổi luyện tập nên vê vê các ngón chân, tay, mỗi ngón chín lần.

Nôn nóng mong muốn khỏi bệnh ngay mà dùng quá sức cũng không đưa lại kết quả mong muốn.

Có quyết tâm, nhưng phải từ từ tiến lên mới đúng cách, sẽ thu được kết quả mỹ mãn. Nếu tinh thần không tập chung, tư tưởng phân tán, khí huyết loạn xạ, và không chú ý đến “trên nhẹ, dưới nặng” là sai và hỏng.

Khi vẩy tay tới 600 cái trở lên, thường thường có trung tiện ” đánh rắm”, hắt hơi, hai chân nhức mỏi, toát mồ hôi, mặt nóng bừng … đấy là hiện tượng bình thường, có phản ứng là tốt, là đã có hiệu quả, đừng ngại.

Trung tiện và hắt hơi là do nhu động của đường ruột tăng lên, đẩy mạnh cơ năng tiêu hóa. Chân mỏi là do khí huyết dồn xuống cho hợp với “trên nhẹ, dưới nặng”. Đây là quy luật của sinh lý hợp với vũ trụ “thiên khinh địa trọng”.

Bệnh gan:

Do khí huyết, tạng gan không tốt gây nên khí không thoát, tích lũy, làm cho khó bài tiết. Đương nhiên là bệnh nan y ảnh hưởng tới cả mật và tì vị. Luyện “Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh” có thể giải quyết vấn đề này. Nếu sớm có trung tiện là có kết quả.

Bệnh mắt:

Luyện “Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh” có thể khỏi đau mắt đỏ, các chứng đau mắt thông thường, cận thị, thậm chí nó có thể chữa được cả bệnh đục thủy tinh thể (thông manh).

Trong nội kinh có nói “mắt nhờ huyết mà nhìn được”, khi khí huyết không dẫn đến bộ phận của mắt thì đương nhiên sinh ra các bệnh của mắt. Con mắt là trong hệ thống của thị giác, nhưng cũng là bộ phận của cơ thể.

Khi tập “Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh” có thể có những phản ứng, đều là hiện tượng thải bệnh, không đáng ngại. Xin liệt kê ra đây Những phản ứng thông thường ( có thể có những phản ứng khác nữa không liệt kê hết được).

Các phản ứng trên là do trọc khí trong người bị bài tiết ra ngoài cơ thể, loại trừ chất ứ đọng, tức tử bệnh tật.

Có phản ứng sự xung đột giữa chánh khí và tà khí, ta vẫn tập thì sẽ sản sinh ra chất bồi bổ có nhiều ích lợi cho chính khí. Ta luyện tập đúng phép là làm tăng mức đề kháng, thải cặn bã trong các gân, thần kinh và cả tế bào khác mà máu bình thường không thải nổi. Như luyện “Đạt Ma Dịch Cân Kinh” khí huyết lưu thông mới thải nổi các cặn bã ra nên sinh ra phản ứng. Vậy ta đừng sợ, cứ tiếp tục tập như thường, hết một phản ứng là khỏi một căn bệnh, tập luyện dần đưa lại kết quả tốt.

Luyện Tập Đạt BỐN TIÊU CHUẨN Như sau:

Nội trung tố: tức là nâng can khi lên, là then chốt, điều chỉnh tạng phủ, lưu thông khí huyết, thanh khí sẽ thông suốt lên tới đỉnh đầu.

Tứ trưởng tố: tức là tứ chi phối hợp với động tác theo đúng nguyên tắc khi tập “Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh”.Tứ trưởng tố song song với Nội trung tố sẽ làm cho tà khí bài tiết ra ngoài, trọc khí dắn xuống, cơ năng sinh sản ngày càng mạnh.

* Bách hội: một huyệt trên đỉnh đầu. * Lão cung: hai huyệt của hai gan bàn tay. * Dũng tuyền: hai huyệt của hai gan bàn chân.

Khi luyện “Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh” 5 huyệt này đều có phản ứng và hoàn toàn thông suốt. Nhâm đốc và 12 kinh mạch đều đạt tời hiệu quả phi thường, nó làm tăng cường thân thể tiêu trừ các bệnh nan y mà ta không ngờ.

Lục phủ minh: Lục phủ là ruột non, mật, dạ dày, ruột già, bong bóng, tam tiêu. Minh nghĩa là không trì trệ. Lục phủ có nhiệm vụ thâu nạp thức ăn tiêu hóa và bài tiết được thuận lợi, xúc tiến các cơ năng sinh sản, giữ vững trạng thái bình thường của cơ thể, tức là âm dương cân bằng, cơ thể thịnh vượng.

Số lần vẩy tay không nên ít: từ 600 lần đến 1.800 lần (30 phút mới là toại nguyện cho đợt điều trị).

Bệnh nhân nặng, có thể ngồi mà vẫy tay, tuy ngồi nhưng vẫn phải nhớ thót đít và bấm 10 ngón chân

Có thể tập nhiều nhất là bao nhiêu ? Ngưỡng cửa của sự chuyển biến bệnh là 1.800 lần vẫy tay, có bệnh nhân vẫy 3.000 tới 6.000. Nếu sau khi tập thấy ăn ngon, ngủ tốt, đại tiểu tiện điều hòa, tinh thần tỉnh táo, thì chứng tỏ con số ta tập là thích hợp.

Tốc độ vẫy tay: Theo nguyên tắc thì nên chậm, chứ không nên nhanh. Bình thường vẫy 1.800 cái hết 30 phút. Vẫy tay tới lúc nửa trừng thường nhanh hơn lúc ban đầu một chút, đây là lục động của khí. Khi mới vẫy rộng vòng và chậm một chút. Khi đã thuần thì hẹp vòng, người bệnh nhẹ thì nên vẫy nhanh và dùng sức nhiều, người bệnh nặng thì nên vẫy chậm và hẹp vòng.

Vẫy tay nhanh quá làm cho nhịp tim đập nhanh, mà vẫy chậm quá thì không đạt tới mục đích luyện tập là cần cho mạch máu lưu thông

Vẫy tay nên dùng sức nhiều hay ít, nặng hay nhẹ? Vẫy tay là môn thể dục chữa bệnh, chứ không phải là môn thể thao khác biệt. Đây là môn thể dục mềm dẻo, đặc biệt của nó là dùng ý mà không dùng sức. Nhưng nếu vẫy nhẹ quá cũng không tốt bởi vì bắp vai không được lắc mạnh thì lưng và ngực cũng không được chuyển động nhiều, tác dụng sẽ giảm đi.

Vẫy tay không phải chỉ chuyển động cánh tay mà phần chính vẫn là chuyển động bắp vai.

Bệnh phong thấp thì nên dùng mức “nặng” một chút. Bệnh huyết áp cao thì nên vẫy tay chậm và nhẹ.

Đông y cho rằng động tác nhẹ là bổ ích cho cơ thể, động tác mạnh (nặng) là bả (loại bỏ các chất cặn bã có hại trong người, tức là bệnh tật). Lý luận này cũng đang được nghiên cứu.

Mức độ vẫy tay: Chỉ vẫy tay về phía sau dùng sức 7 phần, không vẫy về phía trước, mà do phản xạ của cánh tay cho là 3 phần.

Có cần đếm không? Đếm không phải chỉ để nhớ mà còn có tác dụng làm cho óc được bình tĩnh, tim được trầm tĩnh, có tác dụng làm cho bộ não được thăng bằng và nghỉ ngơi (và không được nghỉ ngơi lung tung). Chính khí được bồi dưỡng.

Hoàn cảnh vẫy tay: Không có gì là đặc biệt về hoàn cảnh, tập ở đâu cũng được, trong nhà, ngoài trời dĩ nhiên nơi nào có dưỡng khí trong sạch và yên tĩnh vẫn tốt hơn.

Trước và sau khi tập: Trước khi tập nên đứng bình tĩnh cho tim được thoải mái được yên tĩnh, để chuyển hóa về sinh lý và tâm lý. Ta có thể làm những động tác nhẹ nhàng thoải mái như trong môn “khí công”, đến khi tập cũng nên bình tĩnh mà vò 10 đầu ngón chân, 10 đầu ngón tay. Những người không đủ bình tĩnh, cần chú ý tới điều này.

Tập “Dịch Cân Kinh” thế nào cho đúng? Sau khi tập cảm thấy ngực và bụng nhẹ nhàng, dễ chịu, hơi thở điều hòa, mắt sáng, nước miếng ứa ra, đại tiện nhuận, ăn ngon, tinh thần tỉnh táo, bệnh tật bớt dần, thì đấy là tập đúng. Rất ít khi tập sai, tỉ lệ không tới 1%.

Sau khi tập đại đa số đều thấy có phản ứng, nhưng về hiệu quả thì rất khác nhau, nguyên nhân chính là tư thế khi tập có thích hợp với thể chất người tập hay không.

Lúc bắt đầu tập nên chú ý đến điểm nào?

Nửa thân trên buông lỏng thượng – hư. Nửa thân dưới giữ chắc – hạ thực. Tay ra phía trước không dùng lực (nhẹ). Vẫy tay ra phía sau có dùng sức (nặng).

Tập đếm số tay vẫy ngày một tăng, ngày 3 buổi tập, kiên quyết “tự chữa bệnh cho mình”.

Nếu khi tập, khi nghỉ không đủ số nhất định. Lòng còn nghi hoặc. Còn bị động dư luận ngoài. Thấy phản ứng đã lo sợ, bỏ tập. Hỏi làm gì có kết quả tốt.

Vẫy tay có sinh ra bệnh gì không? Có thể bệnh do tư thế không đúng và làm sai nguyên tắc, những trường hợp ấy cũng hạn hữu, như trên đã nói, không tới một phần trăm.

Khi tập có phải kiêng gió, kiêng lạnh không? Tránh gió lùa, mùa hè hay mùa đông đều tránh đứng đầu ngọn gió.

Khi tập luôn luôn bấm mấy ngón chân, thót lỗ đít, để giữ tư thế “thượng hư – hạ thực”.

Vẫy tay từ ít tới nhiều phải đạt tới 1.800 cái trở lên mới có hiệu quả.

Có phản ứng đừng ngại mà ngừng tập, vì đó là diễn biến tốt, cứ tập số đếm như cũ, qua phản ứng, sẽ tăng số lần vẫy tay lên.

Kiên trì, quyết tâm luyện tập, tin tưởng “các bệnh tật sẽ khỏi”.

Vững lập trường, không hoang mang vì dư luận, lạc quan với cuộc sống. Chỉ cần niềm tin bằng hạt cải là có thể dời núi (nghĩa bóng là vững niềm tin mà tập luyện đến chốn, thì bệnh nguy nan như trái núi cũng phải dời khỏi người).

Có quyết tâm là thực hiện ngay, càng để chậm là ngần ngại càng khó khăn thêm, càng lâu khỏi bệnh.

Mật Nghiêm/Tổng hợp

Tổng Hợp Các Video Về Cách Vẩy Tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh

Thienphatgiao.org giới thiệu 3 Video Để Bạn Đọc Tham Khảo

Video 2: thầy Thích Trí Huệ hướng dẫn Video 3: Thầy Thích Đạo Thịnh hướng dẫn

Video về Dịch Cân Kinh 12 Thức – Thiếu Lâm Đạt Ma Sư Tổ

Video 1: 12 Thức Dịch Cân Kinh Thiếu Lâm Đạt Ma Thầy Shi Heng Yi trình bày Video 2: DỊCH CÂN KINH 12 thức có hướng dẫn HÍT THỞ(phiên bản quốc tế) Video 3: Đạt Ma DỊCH CÂN KINH 12 thức full (Tiếng Việt)

Hướng Dẫn Cách Luyện Tập Vẩy Tay Dịch Cân Kinh

Nhiều chuyên gia nhận định rằng, Dịch cân kinh là một liệu pháp mà sự áp dụng trong thực tế đã cho thấy tác dụng kỳ diệu của nó.

Dịch cân kinh là một phương pháp thể dục tập luyện đơn giản nhưng rất hiệu quả, nhằm đem lại sức khỏe dẻo dai cho người tập. Nếu tập đúng cách có thể ngăn ngừa hoặc chữa được nhiều bệnh tật kể cả những bệnh mạn tính, nan y khó khăn… Vì thế mà phương pháp đã được lưu truyền trong dân gian từ rất lâu.

Từ năm 917 (sau Công Nguyên), khi tổ sư Đạt Ma ở chùa Thiếu Lâm chỉ dạy Dịch cân kinh cho những người mới vào tu, giúp họ tránh được bệnh tật mà vượt qua những khổ hạnh trong tu tập, thì hiệu quả mầu nhiệm của phương pháp đã lan truyền ra ngoài dân gian và đi khắp thế giới.

Có rất nhiều người đã thành công với Dịch cân kinh một cách thần kỳ. Nhưng số người thất bại cũng không nhỏ, phần lớn do họ không tuân thủ đúng cách, hoặc không kiên trì nên không nhận được hiệu quả. Một phần do “tam sao thất bản”, nên từ người này qua người kia đã làm sai lệch, “biến tấu” nên đã làm giảm sút đi hiệu quả của phương pháp.

Vậy tại sao Dịch cân kinh lại có tác dụng chữa bệnh kỳ diệu đến vậy và tập thế nào cho đúng?

Dịch cân kinh là gì?

Dịch cân kinh hay còn gọi là phương pháp Phất thủ vẫy tay. Mới nhìn 1 người đứng tập ai cũng nghĩ là dễ quá, có thể tập theo được liền. Kỳ thực thì bên ngoài nhìn khá giống nhưng lại rất khác biệt bên trong và vì thế hiệu quả đem lại cũng khác xa nhau.

Cách tập đúng phương pháp Dịch cân kinh

1. Đứng thế nào cho đúng?

Trước tiên là việc đứng, chọn hướng đứng đối diện với mặt trời, nếu là ban đêm thì hướng mặt về hướng Nam. Hai chân dang rộng bằng vai (cỡ 30 – 35cm). Hai bàn chân song song hướng thẳng phía trước.

Mười đầu ngón chân bám chặt xuống sàn nhà (có thể lót một miếng vải nỉ dưới chân, hoặc đứng trên đôi dép mỏng và mềm, nhất là khi tập ngoài trời), tránh đứng vào những chỗ ẩm ướt hoặc chân trần trên nền xi măng hay nền đất.

Khi mười đầu ngón chân đã bám chặt xuống sàn (chỉ bám xuống, không co quắp ngón), cùng lúc dùng sức nhíu cơ vòng hậu môn lại và giữ “rút” nó lên một chút trong suốt thời gian tập. Đây là 1 điểm quan trọng của Dịch cân kinh cần lưu ý không được bỏ sót khi tập phương pháp này.

2. Thả lỏng

Kế đến, khi đã đứng – nhíu chắc chắn phía dưới, thì phía trên thả lỏng như “treo” vậy. Đầu nhìn thẳng, mắt hướng ra xa, nhìn hơi lên một chút để tránh gục đầu.

Lưỡi chạm nhẹ chân nướu hàm trên. Răng khép nhẹ (không nghiến), môi khép nhẹ (không bặm). Hai bàn tay khép hờ các ngón tay (không xòe tay). Mu bàn tay quay về phía trước, các ngón tay để cong tự nhiên (không duỗi thẳng) và chuẩn bị tập.

3. Bắt đầu tập

Đưa hai tay ra trước nhẹ nhàng, khoảng 30 độ so với thân, rồi đánh hai tay cùng lúc về sau (hết cỡ) khoảng 60 độ so với trục thẳng đứng và khi trả hai tay về phía trước (cùng lúc) thì không cần dùng lực, chỉ như quán tính mà tay đưa ra nhẹ 30 độ ra trước như lúc đầu. Đó là xong 1 nhịp, thời gian trung bình khoảng 1 giây cho 1 nhịp.

Nếu xét sự phân bố về lực, thì chúng ta đã dùng 7 phần lực (7/10) cho việc đứng trụ, bám sàn và nhíu cơ vòng hậu môn, làm cho ta có cảm giác việc “đứng tấn” rất chắc chắn. Còn lại 3 phần lực dùng cho việc “treo” phía trên và đánh tay đều đặn.

4. Nhịp thở

Về nhịp thở, không quan trọng phải thở đúng theo nhịp tay. Hãy để đầu óc nhẹ nhàng, thở thoải mái theo nhu cầu, không cần để tâm đến. Tâm trí không nên quá căng thẳng, hãy gác “chuyện đời” qua một bên, tốt nhất hãy nghĩ đến một đấng siêu nhiên mà mình đang tôn kính hoặc tập trung đếm số lần tập vẩy tay.

5. Thời gian tập

Thời gian đầu lúc mới tập (khoảng 1 tuần đầu) chỉ nên tập chừng 3-4 phút mỗi lần (khoảng 180 – 200 nhịp) rồi nghỉ, mỗi ngày tập 2-3 lần như vậy. Sang tuần thứ hai tăng dần lên mỗi ngày tăng thêm 1 phút. Tùy theo thể trạng và đáp ứng của mỗi người mà có thể tăng thời gian tập lên nhanh hơn, đích đến là đạt 30 phút mỗi lần tập (khoảng 1800 nhịp), sáng 1 lần, tối 1 lần như vậy là đạt yêu cầu.

6. Lưu ý

– Trước khi tập lúc sáng sớm, cần nhịn đói và uống nửa lít nước đun sôi để nguội (không uống nước đá).

– Khi tập xong lau khô mồ hôi, ngồi nghỉ ít nhất 30 phút rồi mới đi tắm, có thể chỉ cần lau mình lại bằng nước ấm, thay đồ và đi ăn sáng, sinh hoạt bình thường.

– Đến chiều, khi chuẩn bị tập, cũng nên uống nửa lít nước, không ăn no trước đó ít nhất 2 giờ, tốt nhất hãy nhịn đói mà tập đến khi xong rồi mới ăn là hay nhất.

Nếu tuân thủ tập đều như vậy trong vòng 1 tháng trở lên, chúng ta sẽ thấy cơ thể khỏe hẳn ra, ăn ngủ rất tốt, bệnh tật đẩy lui hết. Những người có bệnh như cao huyết áp, tiểu đường, mỡ máu, béo phì, gan nhiễm mỡ, trĩ, táo bón, mất ngủ, đái dầm, viêm đại tràng… sẽ thấy giảm rõ rệt.

Những bệnh nặng hơn như u xơ, phì đại tiền liệt tuyến, ung thư… cần tập kiên trì hơn, lâu hơn, và nhiều lần trong ngày hơn thì sẽ thấy kết quả. Tuy nhiên để an tâm chắc chắn kiểm soát được bệnh tật, người bệnh có thể kết hợp các phương pháp điều trị hiện tại và Dịch cân kinh sẽ giúp bệnh nhân mau đáp ứng, phục hồi sức khỏe.

Dịch cân kinh, nếu làm đúng phương pháp (tức là uống nửa lít nước trước khi tập, chân đứng bám trụ, nhíu hậu môn, lưỡi chạm chân nướu hàm trên, răng môi khép hờ, mặt quay về hướng mặt trời, tay đánh góc trước 30, góc sau 60 độ, mu bàn tay quay về trước, mỗi nhịp 1 giây, đầu nhìn thẳng, không căng thẳng, kiên trì 30 phút mỗi lần tập, 2 lần mỗi ngày trong nhiều ngày liên tục) thì chắc chắn người tập sẽ thấy được hiệu quả. Nếu không có bệnh gì thì khi tập phương pháp này da dẻ cũng hồng hào, ăn ngủ tốt lên, cơ thể vì thế mà dẻo dai, cường tráng.

Khi tập phương pháp này, cơ thể được “vận hành” lưu thông huyết mạch tốt nhất. Đặc biệt tư thế đánh tay ra sau “hết cỡ” tạo góc 60 độ giúp lồng ngực được giãn nở tối đa, tạo điều kiện cho dưỡng khí tràn vào phổi dễ dàng.

Các động tác đều đặn lặp đi lặp lại giúp kích hoạt hệ thần kinh thực vật làm việc tối ưu, hệ vận mạch được tăng cường giúp đưa máu trao đổi chất đến tận cùng những mao mạch xa nhất.

Khi huyết mạch có điều kiện làm việc tốt như vậy, bên cạnh cung cấp dưỡng chất dưỡng khí cho những vùng bị thiếu hụt xưa nay, như bệnh mạch vành, xơ vữa mạch máu, thiểu năng tuần hoàn não… thì phương pháp còn tạo điều kiện cho chất độc thải qua đường mồ hôi, gan và thận cũng được tốt hơn nên làm việc thải độc hiệu quả hơn. Kết quả là cơ thể nhanh chóng phục hồi sinh lực, từ đó tất cả các bất lợi, bệnh tật sẽ dần bị đẩy lùi vào quá khứ.

Nhìn dưới góc độ của Đông y, Dịch cân kinh cho phép “hội ngộ” âm – dương qua các đường kinh mạch chủ đạo là mạch Nhâm và mạch Đốc, nhờ việc chạm lưỡi hướng vào huyệt Nhân trung. Kết nối âm dương từ phía dưới qua các huyệt Trường cường và Hội âm nhờ việc nhíu hậu môn trong lúc tập. Khi âm dương được hòa hợp, giúp giải tỏa năng lượng, luân chuyển tuần hoàn, gia tăng nội khí, tăng cường sinh lực.

Ngoài ra những động tác của Dịch cân kinh giúp “súc rửa” cơ thể (nhờ nửa lít nước và nhịn đói khi tập), qua đó đào thải dần các độc tố ra ngoài.

Bên cạnh đó Dịch cân kinh khuyên người tập nên quay mặt về phía mặt trời để tập, (hoặc hướng Nam lúc tập đêm) để nhận được năng lượng vũ trụ thông qua việc âm dương kết nối (mặt trời là dương, mặt người là âm).

Khi đã kết nối với vũ trụ, các động tác vẫy tay của phương pháp, năng lượng sẽ được “hút” vào huyệt Bách hội trên đỉnh đầu, một loại năng lượng quý mà con người không thể tự tạo ra cũng như không có trong thực phẩm hằng ngày. Chính năng lượng này giúp điều chỉnh những vướng mắc, bất ổn trong cơ thể, đưa con người dần trở về trạng thái ổn định không bệnh tật, tinh thần luôn sảng khoái, tự tại.

Dịch cân kinh đã giúp hòa hợp âm dương trong cơ thể, giúp “súc rửa” thải độc hiệu quả, lại thu hút được năng lượng vũ trụ vào cơ thể. Tất cả những việc ấy rất cần thiết để “tạo dựng” một cơ thể cường tráng không bệnh tật, “tạo dựng” một tinh thần sảng khoái tự tin, cuộc sống vì thế mà chất lượng được tăng cao, giúp cho con người sống khỏe trường thọ.

Như vậy chúng ta đã thấy Dịch cân kinh thực sự là một phương pháp hiệu quả, lại rất đơn giản mà ai cũng có thể tập được, chỉ cần chúng ta hiểu rõ nguyên lý trị bệnh để không bỏ qua các động tác quan trọng, kiên trì tập luyện mỗi ngày thì chắc chắn hiệu quả bất ngờ sẽ đến với chúng ta.

Theo Tuổi trẻ Thủ đô

Dịch Cân Kinh Biến Người Yếu Thành Khỏe Bằng Động Tác Vẫy Tay Đơn Giản

Ngày nay, phép chữa bệnh theo Dịch cân kinh được gọi là phất thủ liệu pháp. Đây là phương pháp khí công chữa bệnh bằng cách lắc tay đơn giản, dễ nhớ, dễ tập và có hiệu quả cao đối với nhiều bệnh mạn tính khác nhau, từ suy nhược thần kinh, hen suyễn đến bệnh tiêu hóa, tim mạch, sinh dục…

Phương pháp tập Dịch cân kinh :

Tìm nơi thoáng mát, không khí trong lành. Mặc quần áo rộng rãi. Đứng thẳng, hai chân dang ra song song ngang vai, các ngón chân bám chặt vào mặt đất, hậu môn nhíu lại, bụng dưới hơi thót, ngực hơi thu vào, vai xuôi tự nhiên, hai mắt khép hờ, đầu lưỡi chạm nướu răng trên, tâm ý hướng về Đan điền (dưới rốn khoảng 3 phân).

Hai cánh tay, bàn tay và các ngón tay duỗi thẳng tự nhiên. Hai cánh tay hơi cong ở khuỷu. Đưa hai cánh tay về phía trước, đồng thời hít vào. Dùng lực vẫy hai cánh tay ra phía sau đến hết tầm và thở ra. Khi hết tầm tay ra phía sau, hai cánh tay theo đà của lực quán tính trở về phía trước, đồng thời với hít vào. Sau đó lại tiếp tục vẫy tay ra phía sau. Một lần hít vào, một lần thở ra là một cái lắc tay. Làm liên tục nhiều cái. Tối thiểu 500 cái một lần tập. Mỗi ngày có thể tập hai lần. Nếu để chữa bệnh thì mỗi lần tập phải thực hành từ 1.500 cái trở lên.

Động tác lắc tay phải bền bỉ, đều đặn, nhẹ nhàng, linh hoạt. Không cần dùng sức mạnh để cố vẫy tay ra phía sau mà chỉ dùng sức bình thường, tương ứng với nhịp thở điều hòa của cơ thể. Việc nhíu hậu môn và bám các đầu ngón chân xuống đất cũng vậy. Chỉ cần dùng sức vừa phải nhằm bảo đảm tâm lý thoải mái và thể lực dẻo dai để có thể thực hành đến hàng ngàn cái mỗi lần tập.

Động tác đưa tay về trước là do phản lực quán tính từ phía sau tạo nên. Tuyệt đối không dùng sức. Tầm tay phía trước không vượt quá thắt lưng. Trong suốt quá trình lắc tay, mặc dù cánh tay di động trước sau, nhưng phải luôn duy trì tình trạng thoải mái tự nhiên, cánh tay không gồng sức.

Những người bệnh hoặc có tật ở chân không đứng được vẫn có thể thực hành hiệu quả phất thủ liệu pháp bằng cách ngồi trên đất hoặc trên ván, vẫy tay ở vị thế cánh tay co lại khoảng 90 độ.

Cơ chế tác động của phất thủ liệu pháp

Động tác hít thở phối hợp với lắc tay điều hòa và liên tục tác động vào các cơ ngực và thành bụng, nhất là cơ hoành, giúp xoa bóp các nội tạng, thúc đẩy sự vận hành khí huyết và tăng cường chức năng của các cơ quan. Nó cũng có tác dụng khai thông những bế tắc, ứ trệ trong kinh mạch hoặc tạng phủ. Những người tiêu hóa đình trệ sau khi thực hành khoảng 500-700 cái sẽ có trung tiện hoặc ợ hơi, có cảm giác dễ chịu rất rõ. Phất thủ liệu pháp là phương pháp đơn giản nhất để chữa bệnh đau dạ dày hoặc rối loạn tiêu hóa. Những trường hợp khí nghẽn, khí bế, khí uất do stress, bệnh tật hoặc do tập khí công sai lệch cũng có thể làm cho thông bằng phất thủ liệu pháp.

Theo quan điểm của y học truyền thống và khí công cổ đại, con người và vũ trụ có quan hệ giao hòa thông qua hô hấp. Hai nhà bác học người Pháp Jacqueline Chantereine và Camille Savoire cũng kết luận: “Lực vũ trụ nhập vào con người ở đầu và xuất ra nơi bàn chân phải, âm lực của quả đất nhập vào con người nơi chân trái để lên đến đỉnh đầu ở phía sau ót”. Những động tác của phất thủ liệu pháp tuy đơn giản nhưng đã trực tiếp phát huy quy luật này đối với việc chữa bệnh và tăng cường nội khí.

Ở phía trên, động tác hít thở và lắc tay kích hoạt huyệt Bách hội ở đỉnh đầu và Đại chùy ở giữa hai bả vai để thu thiên khí, khai thông và tăng cường hoạt động của các đường kinh dương. Bách hội và Đại chùy đều là những điểm giao hội của các đường kinh dương và mạch Đốc.

Ở phía dưới, việc nhíu hậu môn và bám các đầu ngón chân xuống mặt đất kích thích hai huyệt Trường cường và Hội âm ở hai bên hậu môn và tĩnh huyệt của các đường kinh âm. Quan trọng nhất là huyệt Dũng tuyền ở giữa lòng bàn chân và Ẩn bạch ở đầu ngoài móng ngón chân cái. Động tác này có tác dụng hấp thu địa khí, khai thông và tăng cường hoạt động của các âm kinh.

Theo học thuyết Kinh lạc, dương phải thường giáng và âm phải thường thăng. Vì lắc tay liên tục đến hàng ngàn cái nên khi các đường kinh dương được khai thông và đi dần xuống (Dương giáng) điểm cuối ở đầu ngón chân, chúng sẽ tự động kích hoạt những tĩnh huyệt của kinh âm, khiến các đường kinh này chạy ngược trở lên (âm thăng). Đối với các đường kinh âm cũng vậy, khi chạy đến điểm cuối ở phía trên, nó sẽ lại kích hoạt các đường kinh dương đi trở xuống và cứ thế tiếp tục luân chuyển tuần hoàn trong cơ thể. Đây chính là một biểu hiện của quy luật Cực dương sinh âm và Cực âm sinh dương.

Phất thủ liệu pháp có tác dụng cân bằng âm dương, thuận khí, giáng hư hỏa . Theo y học cổ truyền, khí dương thường thừa mà khí âm thường thiếu. Âm hư có thể do bẩm sinh, hay quá căng thẳng, lo âu trong cuộc sống. Sự mất cân bằng đó là đầu mối của nhiều bệnh tật mà Đông y gọi chung là chứng Âm hư Hỏa vượng (hay sốt về chiều, mờ mắt, mắt đỏ, khô cổ, ù tai, đau lưng, hay lở miệng, hay ho, suyễn, viêm họng, viêm xoang mạn). Phất thủ liệu pháp có thể chữa các chứng này bằng cách kích thích các đường kinh âm để sinh âm, bồi bổ âm khí. Chính tư thế của liệu pháp cũng bảo đảm nguyên tắc thượng hư hạ thực (như thư giãn phần vai, cứng chắc phần hạ bộ, nhíu hậu môn, bám các đầu ngón chân…) – biện pháp điều trị hữu hiệu với những chứng hư hỏa. Nguyên tắc này đòi hỏi người tập luôn giữ cho phần trên của cơ thể được thư giãn về hình, hư linh về ý. Ngược lại, phần dưới phải đầy đặn, cứng chắc nhằm đưa trung tâm lực của cơ thể dồn xuống.

Phất thủ liệu pháp cũng giúp điều hòa thần kinh giao cảm. Khoa học hiện đại cho biết trên 50% bệnh tật của con người là do những cảm xúc âm tính gây ra. Chính tâm lý căng thẳng do tình chí uất ức hoặc nhịp sống quá nhanh trong một thời gian dài dễ làm thần kinh quá tải, suy nhược và rối loạn. Sự rối loạn này làm cơ thể mệt nhọc, ăn ngủ kém ngon, giảm sức đề kháng, dễ sinh bệnh tật hoặc làm trầm trọng thêm những chứng bệnh đã có. Nếu tập trung tư tưởng vào nhịp lắc tay, người tập sẽ mất đi những cảm xúc khó chịu thường ngày. Đó là nguyên tắc dùng một niệm để chế vạn niệm.

Theo học thuyết Paplov, khi ta gây hưng phấn ở một điểm và một vùng nhỏ thì những phần còn lại của vỏ não sẽ rơi vào trạng thái ức chế, nghỉ ngơi. Áp dụng những nguyên tắc này, việc tập trung vào lắc tay sẽ điều hòa được thần kinh giao cảm, phục hồi tính tự điều chỉnh, tự hoàn thiện vốn có của hệ thần kinh trung ương.

Ban biên tập Sức khỏe- Trung tâm Giải pháp Hello3s (Nguồn : Vnexpress) (Nguồn : Vnexpress)

Bạn đang xem bài viết Dịch Cân Kinh, Dịch Cân Kinh Chữa Bệnh, Dịch Cân Kinh Tăng Cường Sức Khoẻ. Dich Can Kinh Chua Benh, Dich Can Kinh Tang Cuong Suc Khoe, Dichcankinh trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!