Cập nhật thông tin chi tiết về Giải Pháp Sàng Lọc Máu An Toàn mới nhất trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
KTV NGUYỄN ĐÀO HIẾU – Khoa HHTM
I. ĐẠI CƯƠNG
Vi rút là một trong những nguyên nhân gây ra một số bệnh nghiêm trọng ở người. Trong đó vi rút viêm gan B (HBV: Hepatitis B virus), vi rút viêm gan C (HCV: Hepatitis C virus), vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV: Human immunodeficiency virus) là vi rút gây bệnh thông qua đường máu. Các vi rút này biến đổi liên tục về cấu trúc và hệ gen để trốn thoát các loại sinh phẩm xét nghiệm, hậu quả là tăng tỷ lệ lây nhiễm trong cộng đồng.
Hình 1: Hệ thống Cobas s 201 phiên bản 2.0 tại Khoa Huyết học- Truyền máu BVĐK Quảng Nam
Phương pháp xét nghiệm dùng cho sàng lọc HIV, HBV và HCV trong truyền máu là xác định tác nhân gây bệnh gián tiếp dựa trên kết quả của phản ứng miễn dịch “kháng nguyên-kháng thể”. Ưu điểm của xét nghiệm là đơn giản, tốn ít thời gian, giá thành hợp lý, song phương pháp này có nhược điểm là trong giai đoạn “cửa sổ” khi đó kháng thể hoặc kháng nguyên chưa đạt ngưỡng phát hiện, do vậy xét nghiệm sẽ cho ra kết quả âm tính. Bên cạnh đó, tương tác không đặc hiệu của kháng thể hoặc kháng nguyên với những bất thường protein khác trong máu có cấu trúc gần giống với kháng nguyên hoặc kháng thể có thể dẫn đến kết quả dương tính giả. Cùng với sự phát triển của kỹ thuật sinh học phân tử, kỹ thuật NAT đã được đưa vào sử dụng, kỹ thuật này có độ nhạy cao cho phép phát hiện và nhân bản đặc hiệu theo hàm mũ các trình tự đích của tác nhân gây bệnh từ một lượng nhỏ vi rút, do đó, cho phép phát hiện sớm và chính xác các tác nhân gây bệnh. Hơn thế nữa, NAT có thể được sử dụng để phát hiện đồng thời HIV, HBV và HCV thông qua một xét nghiệm trong thời gian là 4-5 giờ, đảm bảo an toàn cho đơn vị máu truyền.
Trên thế giới, khi sàng lọc máu, các nước phát triển thực hiện song song giữa phương pháp xét nghiệm gián tiếp kháng nguyên – kháng thể và xét nghiệm NAT cho đơn vị máu từ cuối những năm 1990 đầu những năm 2000. Ở Việt Nam, hầu hết các phòng xét nghiệm sàng lọc HIV, HBV và HCV đều sử dụng phương pháp xét nghiệm miễn dịch kháng nguyên kháng thể hay còn gọi là xét nghiệm huyết thanh học, xét nghiệm NAT chưa được sử dụng. Đến năm 2015, Viện HHTMTW thực hiện theo Thông tư 26 TT-BYT ngày 16/9/2013 hướng dẫn hoạt động truyền máu, triển khai xét nghiệm NAT đảm bảo an toàn truyền máu.
II XÉT NGHIỆM NAT
NAT (nucleic acid test) hay NAAT (nucleic acid amplification test) là kỹ thuật sinh học phân tử dùng trong chẩn đoán, mục tiêu của xét nghiệm là phát hiện sự có mặt vật liệu di truyền (RNA hoặc DNA) của tác nhân gây bệnh tồn tại trong mẫu nghiệm qua đó xác định sự hiện diện của tác nhân gây bệnh. Tùy vào mục đích mà có những ứng dụng kỹ thuật khác nhau, các nhóm kỹ thuật phổ biến là:
PCR (polymerase chain reaction)
LCR (Ligase chain reaction)
bDNA (Branched DNA)
NASBA (Nucleic acid sequence-based amplification)
TMA (Transcription mediated amplification)
Xét nghiệm NAT có nhiều ưu điểm như:
Có thể phát hiện nồng độ rất thấp RNA hay DNA (10copys/ml).
Rút ngắn thời gian cửa sổ trong xét nghiệm sàng lọc an toàn truyền máu vì nó có thể phát hiện tác nhân gây bệnh trong thời kỳ ủ bệnh.
Có khả năng phát hiện được các chủng đột biến cũng như thể ẩn vi rút.
Độ nhạy và độ đặc hiệu cực cao đối với a xít nucleic của vi rút.
Trong xét nghiệm sàng lọc cho an toàn truyền máu, xét nghiệm NAT có thể rút ngắn thời gian của sổ phát hiện so với các kỹ thuật miễn dịch. Tuy nhiên, nó không thể thay thể hoàn toàn được cho các xét nghiệm này do có những thời điểm xét nghiệm NAT không thể phát hiện DNA hay RNA vi rút trong mẫu người hiến máu, ví dụ khi cơ thể sinh ra nhiều kháng thể trung hòa hết toàn bộ vi rút trong máu thì xét nghiệm NAT sẽ âm tính, trong khi các xét nghiệm miễn dịch vẫn có thể phát hiện được.
Hiện nay, hai kỹ thuật đang được ứng dụng phổ biến trong xét nghiệm sàng lọc máu ở Việt Nam và trên thế giới là RT-PCR (Real time PCR) và TMA.
1. Xét nghiệm PCR
PCR là một thử nghiệm dựa trên cơ sở phản ứng mở rộng primer nhờ enzyme DNA polymerase chịu nhiệt (thường là Taq polymerase) để khuếch đại in vitro các nucleic acid đặc trưng với các thành phần chủ yếu của phản ứng là: (1) enzyme polymerase chịu nhiệt, có hoạt tính tối đa ở 72oC và bền được với nhiệt độ; (2) 4 loại desoxyribonucleotide (dNTP) là Adenine, Thymine, Guanine, và Cytosine (dATP, dTTP, dGTP, dCTP); (3) DNA chứa các đoạn DNA đích sẽ được nhân bản trong ống phản ứng; (4) các đoạn mồi (primer) xuôi và ngược là các đoạn oligonucleotide có chiều dài khoảng 20 – 30 nucleotide có trình tự bổ sung một cách đặc hiệu với trình tự của 2 đầu đoạn DNA sẽ được nhân bản; (5) ion Mg2+ trong muối MgCl2 ở nồng độ thích hợp, (6) dung dịch đệm Tris-KCl để làm dung môi thích hợp cho phản ứng. Khi ống nghiệm phản ứng này được cho vào buồng ủ chu kỳ nhiệt của máy luân nhiệt (thermal cycler), mà chúng ta thường gọi là máy PCR, chương trình nhiệt độ trong máy sẽ làm cho nhiệt độ trong buồng ủ nhiệt của máy thay đổi theo chu kỳ, nhờ vậy mà phản ứng nhân bản DNA sẽ xảy ra.
Nguyên lý
Về mặt nguyên tắc, một chu kỳ nhiệt độ sẽ bao gồm 3 giai đoạn nhiệt độ. (1) Đầu tiên nhiệt độ sẽ được đưa lên 94oC, ở nhiệt độ này các liên kết hydro của mạch đôi DNA sẽ bị mất đi, nhờ vậy DNA đích bị biến tính thành các mạch đơn; giai đoạn nhiệt độ này được gọi là giai đoạn biến tính. (2) Kế đó nhiệt độ sẽ được hạ đến 55oC- 65oC là nhiệt độ thích hợp để các đoạn mồi tìm đến bắt cặp bổ sung vào hai đầu của đoạn DNA đích, giai đoạn nhiệt độ này được gọi là giai đoạn bắt cặp. (3) Cuối cùng, nhiệt độ được đưa lên 72oC là nhiệt độ thích hợp cho hoạt tính của enzyme Taq polymerase để kéo các dNTP lại đầu 3’ của đoạn mồi đang bắt cặp trên đầu 5’ của sợi DNA đích để bắt nguồn cho sự tổng hợp nên mạch bổ sung. Như vậy, qua một chu kỳ nhiệt, một DNA đích đã được nhân bản thành hai bản sao; và nếu chu kỳ này được lặp đi lặp lại liên tục 30 đến 40 lần thì từ một DNA đích đã nhân bản được thành 230 đến 240 bản sao, tức là đến hàng tỷ bản sao. Phát hiện các sản phẩm khuếch đại này bằng phương pháp điện di và nhuộm màu.
Hình 2: Nguyên tắc PCR là nhân bản qua các chu kỳ nhiệt
Real-time PCR là kỹ thuật PCR mà kết quả khuếch đại DNA đích hiển thị được ngay sau mỗi chu kỳ nhiệt của phản ứng nhờ tín hiệu huỳnh quang, chính vì vậy nên được gọi là real-time; và do đặc điểm này nên với real-time PCR người làm thí nghiệm không cần thiết phải làm tiếp các thí nghiệm để đọc và phân tích kết quả để xác định có sản phẩm khuếch đại đích hay không vì kết quả cuối cùng của phản ứng khuếch đại cũng được hiển thị ngay sau khi hoàn tất phản ứng khuếch đại. Như vậy, có thể nói real-time PCR là kỹ thuật nhân bản DNA đích trong ống nghiệm thành hàng tỷ bản sao dựa vào các chu kỳ nhiệt và kết quả khuếch đại trong ống phản ứng được hiển thị cùng lúc với phản ứng khuếch đại xảy ra để người làm thí nghiệm có thể thấy được.
2. Hệ thống xét nghiệm Cobas s 201
2.1. Phạm vi sử dụng
Xét nghiệm định tính in vitro phát hiện trực tiếp acid nucleic trong huyết tương người:
RNA của HIV-1 Nhóm M,
RNA của HIV-1 nhóm O,
RNA của HIV-2,
RNA của HCV,
DNA của HBV
Mẫu có thể được xét nghiệm dưới dạng mẫu đơn lẻ hay mẫu gộp từ nhiều túi mẫu máu ban đầu và được đánh giá cùng với các xét nghiệm huyết thanh học.
Mẫu huyết tương được sử dụng có nguồn gốc từ túi máu hiến hoặc mẫu máu từ người đã ngưng tim.
Không được dùng cho mục đích chẩn đoán tác nhân nhiễm.
2.2. Nguyên lý: Xét nghiệm cobas s 201 dựa trên 4 quy trình chính:
+ Phân phối/ hút mẫu và hút mẫu chứng tự động sử dụng máy hút mẫu Hamilton Microlab Star/Starlet IDV tùy chọn (POOLING Mẫu).
Hình 3: Máy hút mẫu Hamilton Microlab Star/Starlet IDV
+ Chuẩn bị mẫu tự động dùng máy COBAS AmpliPrep (CAP).
Hình 4: Máy COBAS AmpliPrep (CAP)
+ Khuếch đại tự động Acid Nucleic và phát hiện thời gian thực động và phân biệt các sản phẩm PCR sử dụng máy COBAS TaqMan (CTM).
Hình 5: Máy COBAS TaqMan (CTM)
+ Quản lý dữ liệu tự động dùng phần mềm tập hợp và quản lý dữ liệu (PDM)
Hình 6: Phần mềm quản lý dữ liệu (PDM)
III KẾT LUẬN
Kỹ thuật xét nghiệm NAT có ưu điểm nổi bật là độ nhạy và độ đặc hiệu rất cao, do phát hiện trực tiếp ADN hoặc ARN của vi rút; xác định axít nucleic của vi rút theo các trình tự đặc hiệu; giúp phát hiện vi rút ở giai đoạn cửa sổ từ lúc phơi. Theo các nghiên cứu trên thế giới, so với xét nghiệm sàng lọc huyết thanh, kỹ thuật NAT giúp rút ngắn giai đoạn cửa sổ từ 82 xuống 23 ngày đối với vi rút HCV; từ 59 xuống 34 ngày đối với vi rút HBV và từ 21 xuống 11 ngày đối với vi rút HIV. Ngoài ra, trước đây, các máy móc thông thường chỉ xét nghiệm được 120 mẫu với thời gian sáu tiếng, thì một lần xét nghiệm NAT đã được 520 mẫu, thời gian chỉ mất ba đến bốn tiếng.
Năm 2015, cả nước tiếp nhận được 1.160.726 đơn vị máu toàn phần và khối tiểu cầu gạn tách từ một người hiến. Trong đó, ngoài việc xét nghiệm sàng lọc cho 100% đơn vị máu bằng kỹ thuật huyết thanh học phát hiện nhiễm vi rút HBV, HCV, HIV, giang mai, sốt rét… Trong đó, bước đầu thực hiện xét nghiệm sàng lọc bằng kỹ thuật NAT cho 417.893 mẫu máu (đạt 36% tổng số máu tiếp nhận và sử dụng (417.893/1.160.726), phát hiện được 442 mẫu máu nhiễm bệnh. Ước tính xét nghiệm NAT có thể phát hiện được mẫu nhiễm HBV là 1/1.184 mẫu, HCV là 1/37.990 mẫu, với HIV là 1/83.579 mẫu đã có xét nghiệm huyết thanh học âm tính trước đó.
Theo đánh giá của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), truyền máu là một trong ba yếu tố đánh giá sự phát triển y tế của mỗi quốc gia. Cả nước dự kiến tiếp nhận khoảng 1,3 triệu vào năm 2016 và đạt 1,8 triệu đơn vị máu năm 2020. Do vậy, việc đảm bảo an toàn truyền máu luôn được đặt lên hàng đầu, trong đó xét nghiệm sàng lọc máu, bảo đảm an toàn truyền máu là một trong những yếu tố quan trọng bậc nhất góp phần đạt được mục tiêu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bạch Khánh Hòa, Nguyễn Anh Trí (2008), Ứng dụng kỹ thuật NAT để phát hiện sớm HIV, HBV, HCV ở người cho máu, Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài cấp Bộ.
Nguyễn Hoàng Lộc, Trần Minh Thi, Nguyễn Thị Lệ (2005), Giáo trình Sinh học phân tử, NXB Đại học Huế.
Phạm Hùng Vân (2009), PCR và real-time PCR: Các vấn đề cơ bản và các áp dụng thường gặp, Nhà Xuất Bản Y Học.
Bộ Y tế (2013), Thông tư số 26/2013/TT-BYT ngày 16/09/2013 Hướng dẫn hoạt động truyền máu.
Bộ Y tế (2013), Thông tư số 15/2013/TT-BY ngày 24/05/2013 Hướng dẫn bảo đảm chất lựợng thực hiện kỹ thuật xét nghiệm HIV.
Choo QL, Kuo G, Weiner AJ, Overby LR, Bradley DW, Houghton M (1989). “Isolation of a cDNA clone derived from a blood-borne non-A, non-B viral hepatitis genome”, Science, 244 (4902): pp 359-62.
Bernard. P, Dipak. D, Syamalyma. D, Jayne. L, Lawrence. P ( 2000 ), “HTLV II associated cutanous T-cell lymphoma in a patient with HIV 1 infection”, The New England journal of Medicine 342, pp 930-936.
Decker et al. (1997), Hepatitis C 1997: Essay and Expert Opinions on its Natural History, Epidermiology, Diagnosis and Therapy. Abbott Diagnostics Division.
Giulio Pisani, Karen Cristiano, Simonetta Pupell, and Giancarlo Maria Liumbruno (2016), “West Nile Virus in Europe and Safety of Blood Transfusion”, Transfus Medicine and Hemother, 43(3), pp 158-167.
Marano G, Vaglio S, Pupella S, Facco G, Catalano L, Piccinini V, Liumbruno GM, Grazzini G (2016), “Human T-lymphotropic virus and transfusion safety: does one size fit all?”, Transfusion, 56(1): pp 249-60.
Marja E.Koivenen, et al (2006). “Principles of Immunochemical Techniques Used in Clinical Laboratories”, Laboratory Medicine Volume 37 Number 8, pp 490-497.
Pooria Gill1, Amir Ghaemi (2008), “Nucleic acid isothermal amplification technologies – a review”, Nucleosides, Nucleotides, and Nucleic Acids, 27: pp 224-243.
Các Dịch Vụ, Các Kỹ Thuật Xét Nghiệm Sàng Lọc Máu Tại Viện
Tổ chức Y tế thế giới và Bộ Y tế quy định bắt buộc phải thực hiện xét nghiệm sàng lọc một số tác nhân lây truyền bệnh (xét nghiệm sàng lọc HIV, viêm gan vi rút B, viêm gan vi rút C và vi khuẩn gây bệnh giang mai) đối với đơn vị máu hiến tặng để nhằm đảm bảo an toàn truyền máu.
Thời gian gần đây, do tác động của toàn cầu hóa, giao thương, du lịch, tỷ lệ nhiễm các vi rút lây truyền qua đường truyền máu và một số các vi rút nguy hiểm ngày càng cao và có xu hướng lan rộng trong cộng đồng. Chính vì vậy các hoạt động tuyên truyền, tuyển chọn người hiến máu, xét nghiệm sàng lọc máu càng đóng vai trò quan trọng trong đảm bảo an toàn truyền máu.
I. CÁC DỊCH VỤ XÉT NGHIỆM ĐƯỢC THỰC HIỆN TẠI KHOA XÉT NGHIỆM SÀNG LỌC MÁU
Khoa Xét nghiệm sàng lọc máu của Viện Huyết học – Truyền máu TW đã đạt chứng nhận phù hợp với tiêu chuẩn ISO 9001:2008 (28/12/2011), chứng nhận ISO 9001:2015 (2019), giấy chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn TCVN ISO 13485:2001 (3/2/2016) và tiêu chuẩn TCVN ISO 15189:2014 (30/8/2016).
Với việc áp dụng các kỹ thuật xét nghiệm hiện đại, tự động, Khoa Xét nghiệm sàng lọc máu đang thực hiện các xét nghiệm sau:
Xét nghiệm HBsAg bằng kỹ thuật hóa phát quang hoặc điện hóa phát quang
Xét nghiệm Anti-HCV bằng kỹ thuật hóa phát quang hoặc điện hóa phát quang
Xét nghiệm kháng nguyên kháng thể HIV bằng kỹ thuật hóa phát quang hoặc điện hóa phát quang
Xét nghiệm CMV-IgM bằng kỹ thuật điện hóa phát quang
Xét nghiệm giang mai bằng kỹ thuật TPHA
Xét nghiệm sinh học phân tử NAT phát hiện HBV, HCV, HIV
Sản xuất mẫu chứng nội kiểm xét nghiệm (HBsAg, Anti-HCV, kháng nguyên kháng thể HIV, giang mai, kháng thể bất thường, HBV-ADN, HCV-ARN, HIV-ARN)
Xét nghiệm khẳng định các trường hợp HIV dương tính cho bệnh nhân và người hiến máu (Phòng xét nghiệm HIV được Bộ Y tế cho phép)
Xét nghiệm định nhóm máu hệ ABO, Rh
Xét nghiệm sàng lọc kháng thể bất thường
Định nhóm kháng nguyên hệ hồng cầu (E, Mia….) cho đơn vị máu
II. CÁC XÉT NGHIỆM THỰC HIỆN ĐỐI VỚI ĐƠN VỊ MÁU TỪ NGƯỜI HIẾN MÁU
Mẫu máu từ người hiến máu được đựng trong 3 loại ống khác nhau:
Ống 2ml máu toàn phần được chống đông bằng EDTA: Sử dụng cho xét nghiệm định nhóm máu, sàng lọc kháng thể bất thường và giang mai;
Ống 4ml máu toàn phần, được chống đông bằng EDTA: Sử dụng cho xét nghiệm sàng lọc huyết thanh học HBsAg, Anti-HCV, kháng nguyên kháng thể HIV, CMV-IgM (nếu có);
Ống 6ml máu toàn phần, được chống đông bằng EDTA: Sử dụng cho xét nghiệm sinh học phân tử (NAT), sàng lọc HBV, HCV, HIV.
Các mẫu máu từ người hiến máu sau khi được kiểm tra đảm bảo đủ điều kiện đưa vào xét nghiệm (thể tích, nhiệt độ vận chuyển, độ tán huyết và mỡ máu…) sẽ được nhập vào phần mềm quản lý xét nghiệm để khai báo và chỉ định xét nghiệm trên phần mềm.
Nhận bàn giao mẫu xét nghiệm và nhập thông tin mẫu xét nghiệm vào phần mềm quản lý xét nghiệm sàng lọc máu
Các xét nghiệm được tiến hành đối với mẫu máu từ người hiến máu bao gồm:
1. Xét nghiệm định nhóm máu, sàng lọc kháng thể bất thường và giang mai
Thiết bị thực hiện xét nghiệm: Máy xét nghiệm Olympus PK7300.
Máy xét nghiệm tự động hoàn toàn, công suất xét nghiệm cao: 300 test/giờ.
Việc kiểm tra chất lượng xét nghiệm định nhóm máu, sàng lọc kháng thể bất thường và giang mai được thực hiện định kỳ hằng ngày trước khi tiến hành xét nghiệm và sau mỗi 12 giờ thiết bị xét nghiệm liên tục.
Phương pháp xét nghiệm: Ngưng kết hạt.
Hệ thống máy xét nghiệm định nhóm máu PK7300 sử dụng trong xét nghiệm định nhóm máu, sàng lọc kháng thể bất thường, giang mai
Các bước thực hiện:
Mẫu máu được ly tâm để phân tách huyết tương và hồng cầu.
Mẫu máu được đưa vào máy xét nghiệm, máy sẽ tự động quét mã barcode, tự động xử lý mẫu và sau 1 giờ máy xét nghiệm sẽ in ra kết quả nhóm máu; đồng thời, kết quả xét nghiệm sẽ được chuyển tự động ra phần mềm quản lý xét nghiệm.
Thời gian trả kết quả xét nghiệm: 3,5 giờ/200 mẫu.
2. Xét nghiệm định nhóm kháng nguyên hồng cầu (E, Mia)
Chỉ sử dụng cho những trường hợp chỉ định của bác sĩ lâm sàng.
Mẫu máu được đưa vào xét nghiệm để chọn ra những những đơn vị máu có kháng nguyên hệ hồng cầu như kháng nguyên E, kháng nguyên Mia âm tính.
Việc truyền các các đơn vị có kháng nguyên hệ hồng cầu âm tính có thể giúp bệnh nhân giảm sinh các kháng thể do truyền máu nhiều lần.
3. Xét nghiệm sàng lọc HBsAg, kháng thể HCV, kháng nguyên kháng thể HIV, kháng thể CMV-IgM (nếu có).
Thiết bị thực hiện xét nghiệm: Máy xét nghiệm Roche cobas 8000, Abbott Alinity.
Máy xét nghiệm tự động hoàn toàn.
Việc kiểm tra chất lượng xét nghiệm xét nghiệm HBsAg, kháng thể HCV, kháng nguyên kháng thể HIV, kháng thể CMV-IgM (nếu có) được thực hiện định kỳ hằng ngày trước khi tiến hành xét nghiệm và sau mỗi 12 giờ thiết bị xét nghiệm liên tục.
Phương pháp xét nghiệm: Hóa phát quang/điện hóa phát quang.
Hệ thống máy xét nghiệm Roche cobas 8000, Abbott Alinity i sử dụng cho xét nghiệm sàng lọc HBsAg, kháng thể HCV, kháng nguyên kháng thể HIV
Các bước thực hiện:
Mẫu máu được đưa vào hệ thống tiền phân tích để ly tâm với tốc độ 3.000 vòng/10 phút, mẫu ly tâm xong được mở nắp tự động và tự động chuyển vào module xét nghiệm;
Máy xét nghiệm quét barcode ống mẫu, xử lý mẫu và tự động xét nghiệm hoàn toàn. Sau 30 phút, máy xét nghiệm sẽ in ra kết quả xét nghiệm đầu tiên và lần lượt cho ra kết quả các mẫu xét nghiệm tiếp theo.
Kết quả được đẩy tự động ra phần mềm quản lý xét nghiệm sàng lọc máu.
Thời gian trả kết quả xét nghiệm: 3,5 giờ/200 mẫu.
4. Xét nghiệm sàng lọc HBV-ADN, HCV-ARN, HIV-ARN bằng kỹ thuật sinh học phân tử (NAT)
Thiết bị thực hiện xét nghiệm: Máy xét nghiệm Roche cobas 6800, Grifols Panther Procleix.
Phương pháp xét nghiệm: Realtime PCR, khuếch đại qua trung gian phiên mã (TMA).
Xét nghiệm NAT phát hiện HBV-ADN, HCV-ARN, HIV-ARN được thực hiện sàng lọc cho 100% đơn vị máu hiến tại Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương từ 1/1/2015.
Tất cả các mẫu máu có kết quả xét nghiệm HBsAg, kháng thể HCV, kháng nguyên kháng thể HIV không phản ứng được đưa vào làm xét nghiệm NAT.
Thời gian thực hiện xét nghiệm: tối thiểu 552 mẫu/3,5 giờ.
Hệ thống máy xét nghiệm Roche cobas 6800 và Grifols Panther Procleix sử dụng để xét nghiệm sàng lọc HBV-ADN, HCV-ARN, HIV-ARN bằng kỹ thuật sinh học phân tử (NAT)
ThS. Nguyễn Thị Thanh Dung
Trưởng Khoa Xét nghiệm sàng lọc máu
(Ảnh: Công Thắng)
Phương Pháp Sàng Lọc Ung Thư Cổ Tử Cung
Hằng năm có trên 510.000 trường hợp mắc và 288.000 phụ nữ tử vong do ung thư CTC trên thế giới, 80% trong số đó là phụ nữ sống ở các quốc gia đang phát riển, trong khi tỉ lệ mắc và tử vong do ung thư CTC có xu hướng giảm dần ở các nước phát triển nhờ thành tựu trong phòng bệnh, phát hiện và điều trị sớm.
Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, chỉ số mắc bệnh mới thay đổi theo từng vùng và từng quốc gia, trung bình 7-16 trường hợp mắc mới trên 100.000 phụ nữ. Ở Việt Nam, tỉ lệ mắc mới ung thư CTC 16,8/100.000 phụ nữ (GS. Nguyễn Chấn Hùng, 2008) và hằng năm có 2.500 – 5.600 ca tử vong đuợc báo cáo. Ung thư CTC là ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ Việt Nam [www.who.int/vaccine research/diseases/hpv/enl], là bệnh gây tử vong cao nếu ở giai đoạn muộn, tuy nhiên có thể phòng ngừa và điều trị khỏi nếu phát hiện sớm.
Các yếu tố nguy cơ (theo y văn gồm): nhiễm HPV type nguy cơ cao, sinh hoạt tình dục sớm trước 20 tuổi, có nhiều bạn tình, phơi nhiễm với các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STD), có con sớm, có nhiều con, trước đó có tế bào CTC bất thường, có mẹ hoặc chị gái bị ung thư CTC, hút thuốc lá, mắc bệnh suy giảm miễn dịch (HIV, dùng corticoid kéo dài).
Sàng lọc phát hiện sớm và điều trị có hiệu quả là yếu tố then chốt để thực hiện thành công chương trình phòng chống ung thư CTC, đó cũng là nhiệm vụ được ưu tiên trong chương trình phòng chống ung thư quốc gia giai đoạn 2006-2010.
Thiếu chương trình sàng lọc và hướng dẫn điều trị hiệu quả là lý do chính của tỉ suất mắc bệnh ung thư CTC cao ở các nước đang phát triển.
Các chương trình sàng lọc hiệu quả với mức độ bao phủ cao có thể làm giảm gánh nặng bệnh tật do ung thư CTC. Việc xây dựng và thực hiện chương trình tầm soát ung thư CTC có hiệu quả là vấn đề cần thiết để làm giảm tỉ lệ mắc và tỉ lệ tử vong do ung thư CTC gây ra, từ đó thực hiện thành công “Chíến lược Quốc gia về CSSKSS giai đoạn 2001-2010” và “Chương trình phòng chống ung thư tại Việt Nam”.
Tổng quan các phương pháp sàng lọc ung thư CTC
Có nhiều phương pháp sàng lọc ung thư CTC như phương pháp phết mỏng tế bào CTC (Pap smear), quan sát CTC bằng mắt thường với dung dịch Acid acetic 5% (Phương pháp VIA), phương pháp quan sát với Lugol Iodine (phương pháp VILI), xét nghiệm HPV (HPV DNA testing) …
Một chương trình sàng lọc ung thư CTC thành công là chương trình sàng lọc đó có tác động lên tỉ lệ ung thư CTC, chương trình đó phải sàng lọc được càng nhiều phụ nữ càng tốt. Nếu lý tưởng, chương trình phải sàng lọc được 80% số phụ nữ. Sau đó, những phụ nữ có tổn thương tiền ung thư CTC cần phải được điều trị trước khi chúng tiến triển thành ung thư CTC, lúc đó tỉ lệ ung thư CTC có thể giảm đáng kể, có thể lên đến 93%. “Ngăn chặn ung thư CTC thành công cần có sự phối hợp một cách hiệu quả các chương trình như độ bao phủ sàng lọc, liên kết sàng lọc và điều trị, điều trị hiệu quả và giám sát.”
Phương pháp phết mỏng tế bào CTC (Pap smear)
Là phương pháp đã được chứng minh có nhiều thành công đáng kể ở các nước phát triển hơn 50 năm qua, đã làm giảm 70-80% tỉ lệ ung thư ở các nước phát triển. Tuy nhiên, các chương trình sàng lọc dựa vào xét nghiệm tế bào CTC khó được thiết lập và duy trì ở các quốc gia đang phát triển, bởi vì chúng tốn kém và phức tạp như: giá đắt, lấy tiêu bản phải tốt, có đủ phương tiện xử lý, kinh nghiệm đọc và phân tích mẫu bệnh phẩm, lưu trữ thông tin và trả kết quả. Nếu có bước nào trong chu trình trên không chính xác hoặc trở ngại thì chương trình sàng lọc sẽ thất bại. Nhiều bước, nếu không muốn nói là hầu hết tất cả các bước trong quá trình xét nghiệm tế bào CTC là vấn đề nan giải đối với những vùng khó khăn, xa xôi thiếu thốn phương tiện. Lấy ví dụ ở nhiều nước, Pap smear chỉ được thực hiện ở những vùng đô thị, bởi vì ở những vùng cơ sở y tế xa xôi, các chuyên gia về tế bào học còn rất thiếu, thời gian xử lý và phân tích kết quả thường kéo dài, và do không nhận được kết quả ngay, nhiều phụ nữ không quay trở lại nơi khám để lấy kết quả và bị mất dấu trong quá trình theo dõi. Do vậy, việc tầm soát ung thư CTC bằng phương pháp Pap smear ở các nước đang phát triển khó có thể thực hiện đại trà vì những giới hạn về nguồn lực. Nhiều nghiên cứu ở Ấn Độ và Kenya cho thấy rằng chỉ 1% dân số được tầm soát.
Việc lấy mẫu và đọc kết quả không đơn giản nên không dễ thực hiện tại các tuyến y tế cơ sở.
Phòng xét nghiệm phải có bác sĩ nên chỉ thực hiện ở cơ sở y tế tuyến tỉnh, thành phố.
Mất nhiều thời gian nên khách hàng phải chờ đợi dẫn đến mất dấu khách hàng.
Việc huấn luyện các khâu lấy bệnh phẩm, nhuộm, cố định và đọc tiêu bản cần nhiều nguồn lực, chi phí khá cao.
Độ nhạy của Pap smear trung bình 66% (11-90%), độ đặc hiệu trung bình 67% (14-97%). Nhiều nguyên nhân dẫn đến sai số, trong đó có sai số do người đọc chiếm đến 40% các trường hợp âm tính giả
Xét nghiệm HPV
Là xét nghiệm có thể phát hiện được DNA từ các type HPV nguy cơ cao, là một giải pháp cho việc sàng lọc ung thư CTC. Test HPV (+) không có nghĩa là bệnh nhân mắc ung thư CTC, nhưng giúp cán bộ y tế phân định được nhóm đối tượng có HPV nguy cơ cao, có nhiều khả năng tiến triển thành ung thư CTC.
Cách đọc kết quả VIA:
Kết quả VIA
Dấu hiệu lâm sàng
Âm tính Không có tổn thương bắt màu trắng acetic hoặc bắt màu nhạt như polyp, viêm, nang Naboth Dương tính Có những vùng bắt màu rõ, nét, ranh giới rõ có thể kèm hoặc không vùng gờ lên tiếp giáp vùng chuyển tiếp (SCJ); có thể kèm khí hư, tổn thương mụn cóc (warts). Nghi ngờ ung thư Nhìn thấy rõ những khối sùi như bắp cải, loét, rỉ nước hoặc chảy máu khi đụng vào.
Đây là cách tiếp cận “tầm soát tập trung” chứ không phải “tầm soát đại trà”, chi phí xét nghiệm cao.
Do vậy hạn chế của xét nghiệm HPV ở các nước đang phát triển là chi phí đắt, đòi hỏi phương tiện, trang thiết bị đặc biệt, phòng xét nghiệm, phải có nhân viên được tập huấn, phải mất 6 giờ đến 1 tuần mới có kết quả, đòi hỏi nhóm đối tượng phải được tầm soát, thăm khám định kỳ để chẩn đoán và điều trị sớm.
Một số phương pháp sàng lọc hiệu quả và ít tốn kém, đó là quan sát CTC bằng mắt thường với acid acetic 5% (VIA) và quan sát với Lugol iodine (VILI) có thể khả thi ở các quốc gia đang phát triển.
Phương pháp quan sát CTC bằng mắt thường với Lugols iodine (VILI)
Phương pháp quan sát CTC bằng mắt thường với acid acetic 5% (VIA)
“Sàng lọc để ngăn chặn ung thư CTC đầu tiên là phải đạt đựơc độ bao phủ, nếu chúng ta không đạt được độ bao phủ từ 70-80% thì sẽ không có hiệu quả đối với việc giảm tỉ lệ tử vong. Do đó, phải chọn test khả thi và đủ điều kiện đạt mức độ bao phủ.”
Sàng lọc ung thư CTC bằng phương pháp quan sát trực tiếp với acid acetic (VIA) hiện được đề xuất như một phương pháp hiệu quả đáp ứng được các thông điệp trên, hỗ trợ ngành y tế trong việc tầm soát ung thư CTC.
Nguyên tắc và cách thực hiện VIA rất đơn giản. Dùng dung dịch acid acetic loãng (3-5%) bôi vào CTC, quan sát bằng mắt thường sau 1 phút, dung dịch acid acetic sẽ làm đông kết protein tế bào tiền ung thư tạo phản ứng trắng trên bề mặt CTC và có thể quan sát bằng mắt thường.
Phương pháp VIA đã được áp dụng thành công ở tuyến cơ sở tại nhiều nước đang phát triển trong vòng hơn mười năm qua và có những ưu điểm như:
Là một kỹ thuật đơn giản, đào tạo cán bộ chỉ cần thời gian ngắn khoảng 5 ngày, nhân viên y tế không phải là bác sĩ cũng có thể thực hiện được phương pháp này sau khi được đào tạo. Người thực hiện VIA có thể tích lũy kinh nghiệm đọc kết quả trong thời gian ngắn.
Là một phương pháp không đòi hỏi đầu tư kinh phí cao, có thể thực hiện ở những cơ sở y tế có trang thiết bị đơn giản như ở các trạm y tế xã/phường. Chỉ cần có những trang bị đơn giản như bàn khám phụ khoa, đèn gù chiếu sáng hoặc đèn pin, các dụng cụ khám phụ khoa thông thường như mỏ vịt, kẹp bông và dung dịch acid acetic 3-5% là có thể thực hiện được.
Đặc điểm
Phết mỏng tế bào CTC
HPV DNA test
VIA
VILI
Độ nhạy 47 – 62% 66-90% 67-79% 44-93% Độ đặc hiệu 60-95% 62-96% 49-86% 75-85% Số lần khám để sàng lọc và điều trị Thăm khám 2 hoặc nhiều lần Có thể sử dụng khám và điều trị 1 lần Giảm tỷ lệ tử vong 13,5% 22,0% 34,9% Chi phí cho 1 phụ nữ 25 (usd) 78 (usd) 11 (usd) (VIA +CRYO) Chi phí cho sự giảm 1% tử vong 1,85 (usd) 3,55 (usd) 0,31(usd) Chú thích Đánh giá bởi IARC ở Ấn độ và 3 nước Châu phi cần đánh giá thêm
Với xét nghiệm VIA, kết quả sàng lọc được trả lời ngay, giảm số lần quay trở lại nhận kết quả đối với phụ nữ.
Nhiều nghiên cứu cho thấy phương pháp VIA cho kết quả ít ra là ngang với xét nghiệm tế bào CTC, VIA có độ nhạy cao hơn Pap smear trong việc phát hiện các tổn thương tiền ung thư CTC và không có trở ngại gì về kỹ thuật và cơ sở vật chất.
Nghiên cứu trên cũng khuyến nghị VIA có thể được đề nghị như một phương pháp thay thế, bổ sung cho phương pháp tế bào học trong tầm soát ung thư CTC ở các tuyến y tế cơ sở.
Dựa trên các nghiên cứu đã tiến hành, nhiều tổ chức chuyên môn trong đó có Tổ chức y tế thế giới, Hiệp hội sản phụ khoa Hoa Kỳ, Hiệp hội Sản phụ khoa Canada, và Liên đoàn Sản phụ khoa Quốc tế đã xác nhận VIA như một lựa chọn quan trọng đối với việc sàng lọc ung thư CTC ở những nơi có nguồn lực hạn chế, các tác giả kết luận rằng: “Bản chất không xâm nhập và tính dễ áp dụng của phương pháp này cùng với việc có kết quả ngay lập tức, đã khiến cho VIA trở thành một phương pháp sàng lọc hấp dẫn.
Một số hạn chế của VIA:
VIA có độ đặc hiệu thấp và độ nhạy cao hơn PAP smear nên có tỉ lệ dương tính giả cao hơn có thể dẫn đến việc điều trị quá mức trên những phụ nữ thật sự không có tổn thương tiền ung thư trong chiến lược khám và điều trị ngay.
Hiện chưa có bằng chứng kết luận về tác động đến sức khoẻ và chi phí của việc điều trị quá mức sau khi chẩn đoán VIA dương tính.
Test có thể ít chính xác ở phụ nữ sau mãn kinh.
Kết quả test phụ thuộc vào người đánh giá.
Để phương pháp VIA đạt hiệu quả tầm soát tốt cần có một chương trình huấn luyện chuẩn và các biện pháp kiểm soát chất lượng.
Phương pháp VIA với những ưu điểm và tiện lợi nói trên sẽ là chọn lựa phù hợp nhất trong các phương pháp sàng lọc ung thư CTC để áp dụng đến tận tuyến quận/huyện và xã/ phường nhằm nâng cao độ bao phủ và khả năng sàng lọc các tổn thương tiền ung thư CTC tại các nước kém phát triển hay phát triển.
BS. LÊ TRẦN ANH THƯ Bệnh viện đa khoa Hoàn Mỹ Đà Nẳng
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phạm Việt Thanh. Vaccine dự phòng và ung thư CTC. Hội nghị phòng chống ung thư phụ khoa lần thứ II TP. HCM 5-6/10/2007. 2. Trần Hữu Bích. Đánh giá nhu cầu các chương trình phòng chống ung thư CTC tại Việt Nam năm 2007 – Tập san Hội thảo đánh giá nhu cầu xây dựng chương trình phòng chống ung thư CTC tại Việt Nam. Hà Nội 13-4/2007. 3. Blumenthal PD, McIntosh N. Cervical Cancer Prevention Guidelines for Low-Resource Settings. JHPIEGO 2005. 4. Ericlucas – WHO/IARC – Những kinh nghiệm toàn cầu về sàng lọc ung thư CTC. 5. Path – Preventing cervical cancer, unprecedented opportunities for improving womens health – June, 2007. 6. Sankaranaraganan Retal 1998. Visual inspection of the uterine cervix after the application of acid acetic in the detection of cervical carcinoma and its precursors – Cancer 83 (10): 2150-2156.
Phương Pháp Iui Là Xét Nghiệm Sàng Lọc Tinh Trùng Chữa Hiếm Muộn
Phương Pháp IUI là thủ thuật bơm tinh trùng trực tiếp vào tử cung người mẹ để tăng khả năng thụ thai cao hơn cho các cặp vợ chồng hiếm muộn, mong con. Với các cặp vợ chồng có thời gian thụ thai hạn chế cũng có thể áp dụng phương pháp này để tăng cơ hội thụ thai khi sử dụgn các loại thuốc kích thích rụgn trứng, tạo nhiều trứng hơn.
Phương Pháp IUI là gì?
Phương Pháp IUI là cách lọc rửa các tinh trùng khỏe mạnh nhất, đạt được yêu cầu thụ thai nhất để bơm vào lòng tử cung người mẹ bằng thiết bị chuyên dụng. Ống IUI sẽ đưa tinh trùng đã được kiểm tra vào gần với vị trí trứng rụng nhất trong tử cung người mẹ.
IUI là chữ viết tắt của từ tiếng Anh Intrauterine insemination, mục đích của phưogn pháp IUI là tăng số lượng tinh trùng đến ống dẫn trứng và sau đó tăng cơ hội thụ tinh.
Phương pháp này được áp dụng đối với những vấn đề sinh sản khác gồm:
Dị ứng tinh dịch
Mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục, như HIV hay viêm gan
Trục trặc xuất tinh hay cương cứng
Giao hợp khó và đau đớn
Bất thường dịch nhầy ở cổ tử cung hay lạc nội mạc tử cung dạng nhẹ
Vô sinh không rõ nguyên nhân
Ngoài ra, phương pháp IUI còn có thể giúp người phụ nữ thụ tinh bằng tinh trùng của người khác tặng hay tinh trùng đã được lưu giữ đông lạnh trước khi người chồng tiến hành điều trị ung thư.
bơm tinh trùng vào buồng tử cung giá bao nhiêu?
Chi phí để điều trị IUI khá đa dạng và tùy thuộc vào số lượng thuốc cần sử dụng, nơi thực hiện và có được bảo hiểm y tế hỗ trợ chi trả hay không.
Tại Việt Nam, mức phí trung bình cho một lộ trình điều trị IUI qua các bước dao động từ 10 triệu đến 20 triệu. Trong trường hợp cần sử dụng tinh trùng được hiến tặng, chi phí này có thể sẽ tăng thêm.
làm iui tỷ lệ thành công khoảng bao nhiêu?
Tỷ lệ thành công của IUI phụ thuộc vào độ tuổi và vấn đề sinh sản của mỗi cặp vợ chồng. Nghiên cứu cho thấy với những cặp vô sinh không rõ nguyên nhân, tỷ lệ mang thai với mỗi quy trình IUI tự nhiên sẽ đạt khoảng 4-5% và khi dùng thuốc kích thích rụng trứng thì tỉ lệ này tăng khoảng 7-16%.
Phụ nữ sau khi thực hiện iui bao lâu thì biết có thai?
Việc bơm tinh trùng chỉ cần vài phút nhưng việc dùng thuốc rụng trứng sẽ mất khoảng 1 tuần trước khi trứng rụng. Tùy thuộc vào nguyên nhân của vấn đề thụ thai, bạn có thể sẽ cần thực hiện 3 hay 4 lộ trình IUI trước khi có thai hay tìm đến giải pháp điều trị khác, như thụ tinh trong ống nghiệm IVF.
Hiện nay, với những chị em ở độ tuổi cuối 30 và lớn hơn, bác sĩ sẽ khuyên chuyển sang phương pháp IVF ngay từ đầu hay sau 1 hoặc 2 lần thất bại với IUI.
Điều kiện để phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung thành công?
Tất nhiên, IUI chỉ có thể thành công khi có ít nhất 1 “nàng” trứng “gặp gỡ” thành công với 1 “chàng” tinh binh đầy đủ sức khỏe. Mỗi lần trị liệu IUI tương ứng với một chu kỳ, tính từ ngày kinh đầu cho đến khi rụng trứng. Sau khi bơm tinh dịch vào buồng tử cung, việc kiểm tra xem tinh trùng có gặp trứng hay không sẽ được tiến hành trong 2 tuần tiếp theo.
Các bước của một quy trình thực hiện iui
Thông thường, một lộ trình điều trị IUI sẽ thường đi theo những bước sau:
Sản xuất trứng: Bác sĩ có thể sẽ để trứng rụng tự nhiên hay kích thích trứng rụng theo chu trình IUI mà không dùng thuốc rụng trứng. Thuốc kích rụng trứng cũng có thể được chỉ định vào ngày đầu kỳ kinh để kích thích hai buồng trứng sản sinh ra vài quả trứng chín. Bình thường, mỗi phụ nữ chỉ có được một quả trứng rụng vào mỗi tháng.
Theo dõi trứng: Với bộ dụng cụ kiểm tra rụng trứng có thể giúp theo dõi thời điểm rụng trứng, khoảng khắc “vàng” để tiến hành bơm tinh trùng. Khi trứng ra khỏi nang trứng, bộ dụng cụ này sẽ cho thấy sự tăng đột biến của hoóc-môn kích thích thể vàng luteninizing và ngày hôm sau sẽ tiến hành bơm tinh trùng. Bác sĩ cũng có thể xác định ngày trứng rụng bằng cách siêu âm.
Lọc rửa tinh trùng: Một khi trứng rụng, anh xã sẽ cần xuất tinh và tinh trùng này sau đó sẽ được lọc rửa. Qui trình này sẽ tập trung vào những tinh binh khỏe mạnh, gan lì rồi cô đặc chúng lại thành một lượng dung dịch nhỏ.
Bơm tinh trùng: Bác sĩ sẽ dùng một ống thông mỏng, dài qua cổ tử cung để đưa tinh trùng vào lòng tử cung. Qui trình này thường không đau nhưng một số chị em sẽ có hiện tượng chuột rút nhẹ.
Kiểm tra thụ thai: Việc kiểm tra náy sẽ hoàn tất khoảng 2 tuần sau khi bơm tinh trùng.
Để việc thụ thai được an toàn, đạt kết quả khả quan hơn các mẹ nên trực tiếp đến các bệnh viện uy tín như Từ Dũ, Mekong, Bình An hoặc các bệnh viện lớn để tham khảo tư vấn của bác sĩ trước khi quyết định phương pháp IUI hay các cách thụ thai khác hợp với thể chất của mình hiện tại.
Bạn đang xem bài viết Giải Pháp Sàng Lọc Máu An Toàn trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!