Cập nhật thông tin chi tiết về Nâng Cao Chất Lượng Dạy Học Trong Tình Hình Mới mới nhất trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Trong học kỳ I năm học 2020 – 2021, mạng lưới trường lớp trên địa bàn tỉnh tiếp tục được rà soát, sắp xếp theo hướng hợp lý, hiệu quả, phù hợp với điều kiện thực tế địa phương và nâng cao chất lượng giáo dục. Công tác quản lý có nhiều đổi mới, chuyển biến, đội ngũ nhà giáo từng bước được nâng cao chất lượng. Các phong trào thi đua đã phát huy được hiệu quả trong công việc thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, nâng cao chất lượng dạy học. Chất lượng giáo dục toàn diện các cấp học có bước chuyển biến tích cực. Đến nay, tỷ lệ trẻ đi nhà trẻ đạt tỷ lệ 38,4%, tăng 18,7% so với thời điểm trước khi thực hiện Nghị quyết số 73 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về huy động trẻ đi nhà trẻ trên địa bàn tỉnh. Việc triển khai thực hiện chương trình sách giáo khoa mới đảm bảo theo đúng kế hoạch, học sinh lớp 1 đã tiếp cận tốt với chương trình đào tạo; chất lượng học sinh khá, giỏi ngày càng tăng (tỷ lệ học sinh khá và giỏi bậc THCS chiếm 47,3%, bậc THPT chiếm 45,1%), toàn tỉnh có 19 học sinh đạt giải kỳ thi chọn học sinh giỏi THPT cấp quốc gia…
Kết thúc học kỳ I, tỷ lệ huy động trẻ từ 3 tuổi trở xuống đi nhà trẻ đạt tỷ lệ 38,4%. Trong ảnh: Một giờ học của trẻ tại trường Mầm non Công Đa (Yên Sơn).
Cô giáo Trần Thị Thu Hương, Hiệu trưởng Trường Mầm non Hoa Sen (Sơn Dương) cho biết, trong học kỳ I trường đã huy động 105/252 trẻ từ 3 tuổi trở xuống đến lớp, đạt 42% kế hoạch; 100% trẻ được bảo đảm an toàn về thể chất, tinh thần và được khám sức khỏe định kỳ; tỷ lệ trẻ đi học chuyên cần đạt trên 100%, tỷ lệ trẻ phát triển tốt đạt hơn 97%… Có được kết quả này là nhờ sự vào cuộc, quan tâm của cấp ủy, chính quyền đầu tư cơ sở vật chất khang trang hơn, đáp ứng yêu cầu dạy học. Nhà trường đã tăng cường rà soát, tuyên truyền, vận động, đồng thời nâng cao chất lượng nuôi dạy trẻ để phụ huynh yên tâm đưa trẻ đến trường.
Để hoàn thành thắng lợi mục tiêu năm học 2020 – 2021 đề ra, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh đã triển khai nhiệm vụ kỳ II tới các cơ sở giáo dục trên địa bàn. Trong đó, trọng tâm là tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 73 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về huy động trẻ đi nhà trẻ và Nghị quyết số 05 của HĐND tỉnh quy định một số chính sách khuyến khích phát triển giáo dục mầm non ngoài công lập, Nghị quyết số 07 về quy định chính sách hỗ trợ ăn trưa cho trẻ em nhà trẻ. Đồng thời, triển khai các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục các bậc học, tiếp tục rà soát, sắp xếp lại điểm trường, lớp học gắn với bố trí đội ngũ cán bộ, giáo viên, triển khai hiệu quả kế hoạch, lộ trình nâng chuẩn trình độ đào tạo giáo viên. Đồng thời, tiếp tục thực hiện, chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cho Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đối với lớp 1 và theo lộ trình; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và giảng dạy; thực hiện kế hoạch xây dựng trường mầm non, phổ thông đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 2021 – 2025 đảm bảo về đích theo đúng kế hoạch; đẩy mạnh công tác ôn tập chuẩn bị tích cực các điều kiện cho kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2021…
Tuy nhiên, bước vào những ngày đầu học kỳ II khi tình hình dịch bệnh Covid-19 có diễn biến phức tạp, ngay lập tức Sở Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo các cơ sở giáo dục đào tạo thực hiện nghiêm các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19 trong trường học. Đồng thời chỉ đạo các cơ sở giáo dục triển khai các phương án dạy học Online trong thời gian học sinh nghỉ học kéo dài do dịch Covid-19 (bắt đầu từ 1-2-2020), bảo đảm phương châm “tạm dừng đến trường, không dừng việc học”.
Đồng chí Nguyễn Thị Hằng, Trưởng phòng Giáo dục Phổ thông, Sở Giáo dục và Đào tạo cho biết, ngay sau khi học sinh các trường nghỉ học phòng chống dịch Covid-19, Sở đã chỉ đạo các cơ sở giáo dục đào tạo xây dựng kế hoạch dạy học, ôn tập sang Online ngay lập tức, bảo đảm việc điểm danh học sinh, yêu cầu học sinh không tụ tập, giao lưu trong thời gian nghỉ học. Đồng thời, yêu cầu nhà trường thường xuyên liên hệ với gia đình, cập nhật, nắm bắt thông tin về tình hình sức khỏe của học sinh và yêu cầu học sinh thực hiện nghiêm túc thông điệp “5K” của Bộ Y tế.
Các trường học đã đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy và học tập. Việc thực hiện dạy học Online được thực hiện trong thời gian học sinh nghỉ học ở nhà phòng chống dịch Covid-19 thông qua các phần mềm, ứng dụng hiệu quả đã phát huy hiệu quả trong năm học trước và học kỳ I như Vietel Study, zoom meeting cloud; Microsoft Teams… để tạo phòng học, dạy học trực tuyến và tổ chức ôn tập, làm bài tập cho học sinh. Cùng với đó, học sinh trên địa bàn tỉnh có thể vào các trang Fanpage và trang thông tin của Sở Giáo dục và Đào tạo, của các trường để cập nhật thông tin, xem các video dạy học đã được giáo viên các trường ghi lại và phát lên.
Em Dương Thanh Trà, lớp 10A5, Trường THPT Tân Trào (TP Tuyên Quang) cho biết, em và gia đình đã được giáo viên chủ nhiệm thông báo thời gian nghỉ học và hướng dẫn em và các bạn trong lớp đăng ký học tập Online cũng như vào các trang học tập uy tín qua điện thoại và Zalo, Facebook. Em thấy việc học tập trực tuyến là rất phù hợp trong thời gian nghỉ phòng dịch bệnh, giúp chúng em không bị hổng và bổ sung thêm nhiều kiến thức bổ ích.
Với phương châm khắc phục khó khăn để “dạy tốt, học tốt”, nhất là trong tình hình dịch bệnh Covid-19 đang có diễn biến phức tạp, ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh đã chủ động điều chỉnh phương án dạy và học trong học kỳ II cho phù hợp với tình hình, cố gắng hoàn thành tốt mục tiêu năm học 2020 – 2021.
Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Giáo Dục Chính Trị Tư Tưởng Trong Tình Hình Mới
Nông Văn Thảm, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
(LSO) – Những năm qua, cấp ủy đảng các cấp đã chủ động triển khai tương đối toàn diện, có kết quả các nhiệm vụ công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; tăng cường sự thống nhất về tư tưởng chính trị trong Đảng bộ, sự đồng thuận trong xã hội, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng; khắc phục một bước tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Qua đó, tiếp tục giữ vững và mở rộng trận địa tư tưởng của Đảng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, nâng cao ý chí vượt qua mọi khó khăn thách thức, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng – an ninh, giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn tỉnh. Nổi bật là: đã chú trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, từng bước xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực công tác và phẩm chất đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh; có tinh thần đoàn kết, có ý thức tổ chức kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm trong công việc; cán bộ, đảng viên nhận thức sâu hơn các quan điểm, chủ trương nghị quyết của Đảng, nâng cao bản lĩnh chính trị, góp phần tạo sự thống nhất trong đảng bộ, sự đồng thuận trong xã hội, tạo sự thống nhất ý chí và hành động, quyết tâm thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.
Việc thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã tạo được những chuyển biến quan trọng về ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, góp phần tích cực vào thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của tỉnh.
Các cấp uỷ đã chú trọng đổi mới sinh hoạt Đảng, sinh hoạt chi bộ; coi trọng việc phát huy vai trò của đảng bộ, chi bộ trong quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên; quan tâm kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, chỉ thị, nghị quyết của Đảng; Quy định những điều đảng viên không được làm. Đồng thời, xử lý nghiêm những trường hợp đảng viên vi phạm. Qua triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) về xây dựng Đảng vừa qua cũng như thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đã mang lại kết quả quan trọng, có tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh đối với cán bộ, đảng viên. Chú trọng công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, tăng cường giáo dục cán bộ, đảng viên và Nhân dân nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá nhằm giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; thường xuyên nắm chắc diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và Nhân dân, quan tâm lãnh đạo định hướng dư luân xã hội, tập trung lãnh đạo, chủ động giải quyết kịp thời các vấn đề, vụ việc phức tạp nảy sinh.
Đội ngũ cán bộ trực tiếp tham mưu về công tác chính trị, tư tưởng của các cấp uỷ, cán bộ làm công tác giảng dạy lý luận chính trị, mạng lưới báo cáo viên, tuyên truyền viên cộng tác viên dư luận xã hội các cấp tiếp tục được củng cố, kiện toàn; năng lực công tác có bước chuyển biến đáng kể, từng bước đáp ứng việc thực hiện công tác giáo dục chính trị, tư tưởng của Đảng bộ trong tình hình mới.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên vẫn còn một số hạn chế, yếu kém, đó là:
Trước tác động tiêu cực của tình hình thế giới, của mặt trái kinh tế thị trường và những hạn chế của nền kinh tế – xã hội, đất nước, của tỉnh đã tác động đến một bộ phận cán bộ, đảng viên và Nhân dân và nảy sinh những biểu hiện băn khoăn, lo lắng, quan điểm lập trường không vững vàng, có tâm trạng hoài nghi, ảnh hưởng tới tính đồng thuận của xã hội. Tư tưởng trông chờ, ỷ lại, chậm đổi mới tư duy vẫn còn tồn tại trong một bộ phận cán bộ và đảng viên ở một số địa bàn, đơn vị tư duy mới trong sản xuất, phát triển kinh tế còn hạn chế…
Một số cấp uỷ cơ sở chưa thật sự coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân, nhất là đối với thế hệ trẻ; chưa làm tốt việc học tập, quán triệt chủ trương, nghị quyết của Đảng; phương pháp học tập, quán triệt còn chậm đổi mới, có mặt hiệu quả chưa cao. Một số cán bộ, đảng viên chưa tích cực, chịu khó học tập rèn luyện, chấp hành không nghiêm việc học tập lý luận chính trị. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên có mặt chưa tích cực, tính chiến đấu chưa cao. Một bộ phận cán bộ tham mưu công tác chính trị, tư tưởng, cán bộ làm công tác giảng dạy lý luận chính trị năng lực trình độ có mặt còn hạn chế.
Công tác kiểm tra, giám sát đối với cán bộ, đảng viên về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chưa toàn diện; kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên chấp hành kỷ luật của Đảng có mặt chậm đổi mới. Các biện pháp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên có lúc còn thiếu kịp thời, chưa kiên quyết.
Việc nắm bắt tình hình tư tưởng, dư luận xã hội và dự báo tình hình có thời điểm, có mặt còn chậm, thiếu nhạy bén, thiếu chiều sâu, nên việc chỉ đạo, xử lý đạt hiệu quả chưa cao.
Nhằm thực hiện có hiệu quả công tác tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong thời gian tới, các cấp ủy đảng cần quan tâm lãnh đạo thực hiện có hiệu quả một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, cần tiếp tục nhận thức sâu sắc công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ rất quan trọng, là trách nhiệm của toàn Đảng, là nhiệm vụ thường xuyên của cấp uỷ và của toàn bộ hệ thống chính trị và của mỗi một cán bộ, đảng viên. Các cấp uỷ đảng, trước hết là đồng chí bí thư và thủ trưởng các cơ quan phải tăng cường sự lãnh đạo và quản lý công tác tư tưởng. Mọi việc thành công hay không thành công trước hết phải bắt nguồn từ nhận thức tư tưởng, tư tưởng có thấm nhuần và thống nhất thì mới hành động đúng. Chính vì vậy, làm tốt công tác tư tưởng, tích cực nắm bắt, giải quyết đúng đắn, kịp thời những vấn đề bức xúc về tư tưởng, gắn kết chặt chẽ công tác tư tưởng với các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh, xây dựng hệ thống chính trị sẽ là yếu tố quyết định nhằm tạo nền tảng tư tưởng vững chắc trong toàn Đảng bộ.
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên nhằm nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt chẽ với phát triển văn hoá và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội trong bối cảnh đất nước và tỉnh nhà đang phải đối phó với những khó khăn, thách thức như hiện nay. Tăng cường hơn nữa công tác giáo dục chính trị, tư tưởng làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đóng vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội; làm chuyển biến nhận thức và tạo sự thống nhất cao trong tư tưởng và hành động của cán bộ, đảng viên. Khơi dậy truyền thống yêu nước, yêu quê hương, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, tạo sự thống nhất về ý chí và hành động trong Đảng bộ và Nhân dân.
Trong tuyên truyền phải có những bài viết tốt, nêu gương người tốt, việc tốt, nhưng đặc biệt quan trọng là phải phê phán những việc làm sai phạm, những cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái, tiêu cực, gây phiền hà, nhũng nhiễu Nhân dân và doanh nghiệp; phê phán những tư tưởng lệch lạc, những thông tin sai sự thật. Đề cao vai trò và trách nhiệm của các cơ quan thông tin đại chúng, bảo đảm thông tin khách quan, trung thực, đúng định hướng. Đổi mới và nâng cao chất lượng tổ chức quán triệt, học tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo hướng thiết thực, hiệu quả, phù hợp với từng đối tượng; đa dạng hoá hình thức giáo dục lý luận chính trị trong Đảng và trong xã hội. Tập trung tuyên truyền sâu rộng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đẩy mạnh việc nghiên cứu, quán triệt, tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII sắp tới và nghị quyết đại hội Đảng bộ các cấp; các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, tạo chuyển biến tích cực trong việc tổ chức thực hiện nghị quyết.
Ba là, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên, nhất là thế hệ trẻ; nâng cao tính tiên phong, gương mẫu của tổ chức đảng và đảng viên trong việc chấp hành Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước, Quy định những điều đảng viên không được làm, Quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp; phát huy vai trò của chi bộ trong quản lý, giáo dục đảng viên. Chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong hệ thống chính trị, trong trường học và trong Nhân dân. Chi bộ, tổ chức cơ sở đảng phải tăng cường công tác quản lý, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của đảng viên và quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình; phát huy vai trò giám sát, góp ý kiến nhận xét của Mặt trận và các tổ chức, đoàn thể Nhân dân về phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Bốn là, tiếp tục chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đưa nội dung học tập vào sinh hoạt đảng bộ, chi bộ một cách thường xuyên. Nâng cao bản lĩnh chính trị, kiên định, giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng; xây dựng phong cách làm việc khoa học, sáng tạo, gắn lý luận với thực tiễn, nói đi đôi với làm trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu Nhân dân; tăng cường giáo dục phẩm chất đạo đức cách mạng, tạo sự đoàn kết nhất trí trong Đảng bộ, sự đồng thuận trong Nhân dân; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên.
Năm là, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Tăng cường kiểm tra, giám sát Quy định về những điều đảng viên không được làm, thực hiện nghiêm túc quy định về nêu gương và tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, thực hiện tốt nhóm giải pháp về công tác chính trị tư tưởng; chú trọng nêu gương người tốt, việc tốt, lấy nhân tố tích cực để đẩy lùi tiêu cực; đồng thời phê phán, đấu tranh với những biểu hiện sa sút về chính trị tư tưởng, vô trách nhiệm, vi phạm các chuẩn mực đạo đức, lối sống. Chủ động đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; phòng, chống có hiệu quả cuộc đấu tranh “Diễn biến hòa bình”, làm thất bại âm mưu bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; kiên quyết đấu tranh, phê phán các quan điểm lệch lạc, sai trái trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Xây dựng bộ máy tham mưu về công tác chính trị, tư tưởng bảo đảm đủ số lượng, chất lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị ở Trường Chính trị tỉnh, trung tâm chính trị các huyện, thành phố. Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị. Coi trọng đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ cán bộ, giảng viên, giảng viên kiêm chức; xây dựng đội ngũ giáo viên có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và trí tuệ ngang tầm nhiệm vụ nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
Mọi việc thành công hay không thành công trước hết phải bắt nguồn từ nhận thức tư tưởng, tư tưởng có thấm nhuần và thống nhất thì mới hành động đúng. Chính vì vậy, làm tốt công tác tư tưởng, tích cực nắm bắt, giải quyết đúng đắn, kịp thời những vấn đề bức xúc về tư tưởng, gắn kết chặt chẽ công tác tư tưởng với các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh, xây dựng hệ thống chính trị sẽ là yếu tố quyết định nhằm tạo nền tảng tư tưởng vững chắc trong toàn Đảng bộ.
Skkn Một Số Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dạy Học Môn Lịch Sử Lớp 4 Theo Mô Hình Dạy Học Mới Vnen
Trong bài “Nên học sử ta” ghi trên báo “Việt Nam Độc lập” Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà việt Nam”
Đất nước ta, nhân dân Việt Nam ta đã trải qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước với nhiều chiến công hiển hách, lẫy lừng. Là một người dân Việt Nam yêu nước, mỗi chúng ta phải yêu và hiểu biết về lịch sử của đất nước, của dân tộc mình. Chính vì vậy mà trong chương trình giáo dục phổ thông, môn Lịch sử đóng vai trò quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục học sinh (HS) tình yêu quê hương đất nước, tự hào về truyền thống của dân tộc. Lịch sử là chiếc nôi để các em hiểu biết và hướng về cội nguồn lịch sử dân tộc. Dạy học lịch sử không chỉ khơi dậy các nhân vật, sự kiện lịch sử mà làm tái hiện lại một cách sống động lịch sử hào hùng của dân tộc. Lịch sử không thể tái hiện lại trước mắt học sinh ở trong phòng thí nghiệm hoặc trong thực tiễn mà thông qua việc tiếp xúc với những chứng cứ vật chất, những dấu vết của quá khứ, tạo ra ở học sinh những hình ảnh cụ thể, sinh động, chính xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử, tạo ra những biểu tượng về con người và hoạt động của họ trong bối cảnh thời gian, không gian xác định, trong những điều kiện lịch sử cụ thể.
Dạy Lịch sử là bước đầu hình thành cho học sinh các kĩ năng quan sát sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn thông tin khác nhau. Góp phần bồi dưỡng ở học sinh thái độ và thói quen: ham học hỏi, tìm hiểu để biết, nắm vững kiến thức về Lịch sử dân tộc Việt Nam và thêm yêu mến tự hào về lịch sử dân tộc. Do vậy, việc khơi dậy niềm say mê, tìm tòi, tiếp thu kiến thức của học sinh, tạo sự hứng thú trong giờ học lịch sử là nhiệm vụ và mục đích của người giáo viên (GV) trong sự nghiệp đào tạo thế hệ mới, con người mới xã hội chủ nghĩa.
Môn Lịch sử nói chung, phân môn Lịch sử lớp 4 bậc Tiểu học nói riêng đều nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về một số sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu theo dòng thời gian của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước (khoảng năm 700 trước công nguyên) đến năm 1858. Về nội dung chương trình môn lịch sử lớp 4. Với dòng thời gian kéo dài từ buổi đầu dựng nước (700 năm trước Công Nguyên đến đầu thời Nguyễn giữa thế kỉ XIX) được chia làm 8 giai đoạn, 26 sự kiện lớn, 22 mốc thời gian cụ thể, rất nhiều đời vua, nhiều tên nước và nhiều kinh đô khác nhau.
1. MỞ ĐẦU: 1.1. Lí do chọn đề tài Trong bài "Nên học sử ta" ghi trên báo "Việt Nam Độc lập" Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết: "Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà việt Nam" Đất nước ta, nhân dân Việt Nam ta đã trải qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước với nhiều chiến công hiển hách, lẫy lừng. Là một người dân Việt Nam yêu nước, mỗi chúng ta phải yêu và hiểu biết về lịch sử của đất nước, của dân tộc mình. Chính vì vậy mà trong chương trình giáo dục phổ thông, môn Lịch sử đóng vai trò quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục học sinh (HS) tình yêu quê hương đất nước, tự hào về truyền thống của dân tộc. Lịch sử là chiếc nôi để các em hiểu biết và hướng về cội nguồn lịch sử dân tộc. Dạy học lịch sử không chỉ khơi dậy các nhân vật, sự kiện lịch sử mà làm tái hiện lại một cách sống động lịch sử hào hùng của dân tộc. Lịch sử không thể tái hiện lại trước mắt học sinh ở trong phòng thí nghiệm hoặc trong thực tiễn mà thông qua việc tiếp xúc với những chứng cứ vật chất, những dấu vết của quá khứ, tạo ra ở học sinh những hình ảnh cụ thể, sinh động, chính xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử, tạo ra những biểu tượng về con người và hoạt động của họ trong bối cảnh thời gian, không gian xác định, trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Dạy Lịch sử là bước đầu hình thành cho học sinh các kĩ năng quan sát sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn thông tin khác nhau. Góp phần bồi dưỡng ở học sinh thái độ và thói quen: ham học hỏi, tìm hiểu để biết, nắm vững kiến thức về Lịch sử dân tộc Việt Nam và thêm yêu mến tự hào về lịch sử dân tộc. Do vậy, việc khơi dậy niềm say mê, tìm tòi, tiếp thu kiến thức của học sinh, tạo sự hứng thú trong giờ học lịch sử là nhiệm vụ và mục đích của người giáo viên (GV) trong sự nghiệp đào tạo thế hệ mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Môn Lịch sử nói chung, phân môn Lịch sử lớp 4 bậc Tiểu học nói riêng đều nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về một số sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu theo dòng thời gian của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước (khoảng năm 700 trước công nguyên) đến năm 1858. Về nội dung chương trình môn lịch sử lớp 4. Với dòng thời gian kéo dài từ buổi đầu dựng nước (700 năm trước Công Nguyên đến đầu thời Nguyễn giữa thế kỉ XIX) được chia làm 8 giai đoạn, 26 sự kiện lớn, 22 mốc thời gian cụ thể, rất nhiều đời vua, nhiều tên nước và nhiều kinh đô khác nhau. Với thời lượng 1tiết/tuần của phân môn lịch sử. Nếu giáo viên chỉ đơn thuần dựa vào sách hướng dẫn học mà không nghiên cứu sâu về phương pháp giảng dạy thì học sinh khó có thể ghi nhớ được lượng kiến thức lớn như đã nêu. Mặt khác, thực tế hiện nay, học sinh ở các bậc học nói chung đều không yêu thích học môn Lịch sử mà thường dành nhiều thời gian cho việc học Toán, Tiếng Việt, Tiếng Anh. Nhiều năm gần đây, tình hình HS học và tiếp thu, ghi nhận những kiến thức Lịch sử của dân tộc, của đất nước khá hạn chế. Đặc biệt là kết quả thi của bậc học THPT còn quá thấp làm cho dư luận không khỏi băn khoăn suy nghĩ và đặt ra câu hỏi tại sao các em lại ngại, lại không thích học hay thờ ơ với Lịch sử dân tộc, thờ ơ với Lịch sử đất nước như vậy? Đây là nỗi đau, sự trăn trở của người thầy, cô trước vấn đề này. Trước thực trạng đó tôi đã rất trăn trở trong việc đổi mới phương pháp dạy học, làm thế nào để các em hứng thú trong học tập và nâng cao chất lượng dạy học phân môn Lịch sử. Đó cũng chính là lí do thúc đẩy tôi chọn đề tài "Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4 theo mô hình dạy học mới VNEN" làm đề tài nghiên cứu. 1.2. Mục đích nghiên cứu: - Với đề tài này, tôi mong muốn được nâng cao nhận thức của bản thân về việc dạy học Lịch sử cho học sinh, tìm ra các biện pháp khắc phục tồn tại, khó khăn, giúp giáo viên soạn giảng linh hoạt, trên cơ sở đó giúp học sinh hình thành kỹ năng học Lịch sử hiệu quả. - Cung cấp những tri thức thực tiễn về tổ chức dạy học Lịch sử cho học sinh lớp 4. - Đề xuất một số biện pháp thực hiện dạy học Lịch sử cho học sinh lớp 4 theo hướng tích cực nhằm nâng cao chất lượng dạy môn Lịch sử lớp 4. 1.3. Phạm vi nghiên cứu Học sinh lớp 4. Phương pháp dạy, học môn Lịch sử ở lớp 4. 1.4 Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng một số phương pháp sau: Phương pháp phân tích tổng hợp Phương pháp điều tra, quan sát Phương pháp trải nghiệm Phương pháp nghiên cứu, thu thập tài liệu Phương pháp nghiên cứu sản phẩm + Phương pháp đàm thoại - gợi mở. Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm 2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận. 2.1.1. Cơ sở tâm sinh lí của việc dạy học Lịch sử. Để có giờ dạy Lịch sử thành công, chúng ta cần hiểu rõ về đặc điểm nhận thức và quá trình tư duy của học sinh. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh là cơ sở nền móng của việc xây dựng các phương pháp dạy học lịch sử ở Tiểu học. Lịch sử vốn là một môn học đặc thù, kiến thức lịch sử là những gì đã diễn ra trong quá khứ. Chính vì thế, nhiệm vụ dạy học lịch sử là khôi phục lại bức tranh quá khứ để từ đó rút ra bài học từ quá khứ, vận dụng nó vào trong cuộc sống hiện tại và tương lai. Do đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học còn non yếu, chưa đầy đủ, sâu sắc và chưa đạt đến trình độ tư duy khái quát cao nên việc trình bày và giảng dạy kiến thức phải hết sức đơn giản, nhẹ nhàng, cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ. Đặc biệt, tư duy của các em luôn dựa trên các hình ảnh lịch sử cụ thể nên khi trình bày phải hết sức coi trọng việc tạo biểu tượng cụ thể. Đây là cơ sở để đề xuất các biện pháp hình thành năng lực học lịch sử cho học sinh Tiểu học. 2.1.2. Cơ sở sử học của việc dạy học Lịch sử trong trường Tiểu học. Trong những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy học đã được thực hiện ở tất cả các trường tiểu học trong cả nước. Đây là con đường giúp HS tiếp cận với tri thức mới, nhằm thay đổi cách dạy học truyền thống "thầy giảng - trò nghe, thầy đọc - trò chép". Theo quan điểm dạy học mới, dạy học là quá trình HS tự khám phá, tự tìm ra chân lí. Phương pháp dạy môn Lịch sử cũng không nằm ngoài định hướng đó. Đặc trưng nổi bật của nhận thức Lịch sử là con người không thể tri giác trực tiếp những gì thuộc về quá khứ. Vì vậy nhiệm vụ tất yếu của dạy Lịch sử là phải tái hiện lại bức tranh Lịch sử, cho HS tiếp cận những thông tin từ sử liệu, các sự kiện, hiện tượng, nhân vật tiêu biểu - người thật, việc thật trong lịch sử, những chứng cứ, những dấu vết của quá khứ. Tạo ra ở HS những hình ảnh cụ thể, sinh động, chính xác về các nhân vật, sự kiện Lịch sử mà vẫn phải đảm bảo tính chính xác, khoa học; tính tư tưởng chính trị; tính vừa sức; tính thực tiễn - học đi đôi với hành. Lịch sử không chỉ là môn học có tác dụng quan trọng trong việc phát triển trí tuệ mà còn giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức cho thế hệ trẻ. Nghị quyết Hội nghị TƯ 5 (khóa VIII) chỉ rõ: "Để nền giáo dục phát triển bền vững, xây dựng lớp thế hệ trẻ có đủ đức, tài thì bên cạnh các môn khoa học tự nhiên, cần coi trọng hơn nữa các môn khoa học xã hội và nhân văn, nhất là Tiếng Việt, Lịch sử, Địa lý và Văn hóa Việt Nam". Nhưng trong thực tế, một bộ phận GV và cả HS vẫn còn những nhận thức chưa đúng về môn Lịch sử, xem nhẹ vai trò của Lịch sử, thờ ơ với môn học này dẫn đến chất lượng dạy và học không cao. Như vậy, muốn đào tạo con người phát triển toàn diện thì vấn đề cấp thiết là thay đổi cách dạy, cách học môn Lịch sử. 2.2. Thực trạng dạy - học Lịch sử ở trường Tiểu học. * Thuận lợi: Chương trình Lịch sử lớp 4 theo mô hình trường học mới Việt Nam gọi tắt là VNEN được phân chia theo từng giai đoạn hay gắn với từng triều đại lịch sử. Các đề mục trong sách giáo khoa đã được biên soạn sắp xếp thành một hệ thống khoa học, kênh hình, kênh chữ rõ ràng, màu sắc đẹp. Hình thức học thể hiện rất rõ nét, HS có thể tự điều hành lẫn nhau để tìm hiểu nội dung kiến thức. Sau mỗi bài đều có các bài tập vận dụng và có cả Hoạt động ứng dụng (Tìm kiếm sự hỗ trợ của người thân ) để củng cố, mở rộng kiến thức đã học Giáo viên được thực hiện mô hình dạy học mới VNEN nên đã quen dần với việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học của học sinh. Học sinh đã có ý thức hơn trong học tập, việc tổ chức các hoạt động học,chủ động tìm hiểu kiến thức thông qua logo hướng dẫn học, bước đầu có ý thức học hỏi, tìm tòi, khám phá về Lịch sử. * Khó khăn Về nội dung chương trình Lịch sử lớp 4 theo mô hình trường học mới VNEN cũng giống như chương trình trước đây nhưng cách chia nội dung bài theo sách VNEN thì mỗi bài học là được tích hợp nhiều nội dung, gồm một chuỗi sự kiện, hiện tượng hay nhân vật lịch sử tiêu biểu của một giai đoạn lịch sử nhất định. Thời lượng dành cho mỗi bài học thường là 2 đến 3 tiết. Sự liên kết về mặt thời gian của các triều đại trong từng giai đoạn còn chưa rõ ràng . Nội dung bài khá dài và dàn trải. Thiết bị dạy học phục vụ cho việc dạy học môn Lịch sử trong nhà trường còn nhiều hạn chế, thiếu tranh ảnh, mô hình, sa bàn, tư liệu Nhận thức, quan niệm của một bộ phận GV đặc biệt là phụ huynh còn xem nhẹ môn Lịch sử mà chỉ chú trọng vào các môn Toán, Tiếng Việt, Tiếng Anh. Vì vậy nên chưa đầu tư, quan tâm đúng mức vào chất lương dạy và học cho môn Lịch sử. Tình trạng GV khi dạy thường cắt xén thời gian, nội dung, chương trình còn HS học Lịch sử chỉ để đối phó vẫn còn xảy ra. Với HS lớp 4, môn Lịch sử là môn học hoàn toàn mới mẻ đối với chính các em,Trong khi muốn cho HS yêu thích, hứng thú với môn học lại phụ thuộc rất lớn vào GV, việc dạy môn Lịch sử không hấp dẫn, khả năng nắm bắt kiến thức, kĩ năng quan sát, tưởng tượng, khái quát hóa còn yếu, khả năng ghi nhớ của các em còn chậm mà các nhân vật, mốc lịch sử, sự kiện lịch sử lại nhiều nên các em chỉ có thể ghi nhớ một cách máy móc (nhanh nhớ nhưng lại mau quên). Kĩ năng đọc, kể, tường thuật của các em chưa lưu loát, do đó ảnh hưởng đến thời gian và tiến trình chung của môn học. Tinh thần hợp tác chưa cao, nhiều em chưa tự tin khi hợp tác trong nhóm, một số em còn thụ động, các em chưa biết cách theo dõi kênh chữ kết hợp kênh hình để tìm hiểu nội dung bài. Vì vậy, sau thời gian tiếp cận với môn học, tôi đã khảo sát HS và thu được kết quả như sau : Thời gian Kết quả đạt được Hoàn thành Tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành Đầu năm học: 2017- 2018 Tổng số HS 4A(30 em) 3 10 19 63,6 8 26.4 Có thể thấy rằng, số HS thích học, tìm hiểu về Lịch sử đạt ở mức hoàn thành tốt kết quả chưa cao. Vẫn còn nhiều HS ở mức chưa hoàn thành. Vì vậy, việc hình thành kiến thức lịch sử để tiến tới bồi dưỡng lòng yêu nước, lòng tự tôn, tự cường dân tộc cho mỗi học sinh chính là cái đích của dạy lịch sử mà mỗi giáo viên mong muốn. Giáo viên cần phải có những biện pháp phù hợp để dạy Lịch sử cho học sinh. Đó cũng là lí do để tôi đưa ra các biện pháp áp dụng vào dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử 4. 2.3. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4. 2.3.1. Biện pháp 1: Góp phần nâng cao nhận thức và quan điểm về môn học Lịch sử. Trên thực tế giảng dạy, tôi thấy môn Lịch sử chưa tìm được chỗ đứng xứng đáng trong nhà trường, số tiết vào loại ít nhất (1tiết/ tuần). Nội dung kiến thức dài và có phần cứng nhắc, HS ngại học.Vì vậy, phải có sự thay đổi mang tính cách mạng về quan niệm đối với môn Lịch sử. Phải xây dựng và hình thành quan niệm đúng đắn về vị trí và tầm quan trọng của môn Lịch sử từ các cấp quản lí giáo dục đến cha mẹ học sinh và toàn xã hội. Theo giáo sư Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam: "Thế hệ trẻ lớn lên qua nền giáo dục phổ thông mà không yêu mến lịch sử dân tộc, không có một vốn hiểu biết cần thiết về lịch sử và văn hóa dân tộc và nhân loại, không có một niềm tự tin dân tộc, thì làm sao có thể hoàn chỉnh được phẩm chất của người công dân Việt Nam. Từ đặc điểm đó, vấn đề được đặt ra là: * Đối với giáo viên: Phải luôn xác định rằng muốn các em học tốt môn Lịch sử thì giáo viên phải là người yêu thích Lịch sử, phải tự trang bị cho mình kho tàng kiến thức về lịch sử. Việc bồi đắp kho tàng này không bao giờ là đủ mà phải được thực hiện liên tục, thường xuyên suốt cuộc đời. Bởi vậy, tôi luôn tìm đọc những cuốn sách về lịch sử, những câu chuyện, bộ phim lịch sử, các tài liệu trên mạng internet để hiểu hơn về lịch sử dân tộc cũng như thế giới. Giáo viên có yêu lịch sử thì mới có thể truyền được tình yêu đó đến học sinh của mình bởi vì ở cấp tiểu học các em xem giáo viên như thần tượng, như một chuẩn mực để các em hướng đến, các em bắt chước, làm theo. Với mô hình trường học mới VNEN phương pháp dạy và học đã có sự thay đổi, học sinh được chủ động học tập, chủ động tìm hiểu kiến thức song các em chỉ máy móc làm theo câu lệnh của sách chứ thực ra cũng không hiểu hoặc không nắm được cách học, cách ghi nhớ. Do đó, giáo viên vẫn là người đóng vai trò rất quan trọng. Lời giảng,lời kể của giáo viên rõ ràng, truyền cảm sẽ gây được sự chú ý của học sinh. Giáo viên phải nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, tài liệu, nắm vững các kiến thức cơ bản cần truyền đạt, đảm bảo hệ thống kiến thức chính xác, từ đó có phương pháp giảng dạy thích hợp. Ví dụ: Nếu giải quyết chung một đề tài khó thì cần có sự đan xen về trình độ học sinh trong cùng một nhóm để các em hỗ trợ cho nhau. Nhưng cũng có lúc, tôi tạo điều kiện cho các em học sinh còn chậm, còn nhiều hạn chế cùng làm việc với nhau theo nhóm và dành riêng cho các em một đề tài dễ hơn . Đây cũng là lúc tôi phát huy vai trò của mình " Dạy học phân hóa đối tượng học sinh." Trong quá trình giảng dạy, tôi hướng dẫn học sinh khai thác nội dung bài học qua từng hoạt động học tập. Phân chia thời gian hợp lý. Có hình thức khen thưởng, khuyến khích học sinh tích cực phát biểu ý kiến, tham gia xây dựng bài, tránh tối đa hình thức xử phạt, la mắng làm học sinh tự ti mà thu mình lại . * Đối với học sinh: Phải thay đổi suy nghĩ về môn Lịch sử bởi đây chính là môn học giúp HS tìm về cội nguồn dân tộc. Đây cũng là môn học bổ trợ kiến thức cho các môn học khác. * Đối với phụ huynh: Thay đổi quan điểm, nhận thức Lịch sử chỉ là môn phụ nên không cần dành nhiều thời gian mà chỉ tập trung vào những môn cần thiết. Phụ huyngh phải thấy được trách nhiệm, vai trò của mình trong việc giáo dục tình yêu quê hương đất nước, lòng tự hào dân tộc từ đó giúp HS hiểu và có trách nhiệm với môn học, với chính bản thân mình. Ở tiểu học, phụ huynh có thể đọc sách cùng con, cùng tìm hiểu về các sự kiện, các trận đánh hay nhân vật, triều đại Lịch sử trên cơ sở định hướng, khắc sâu kiến thức và khơi gợi cho con ham thích tìm hiểu về Lịch sử nước nhà, từ đó sẽ yêu thích môn học hơn. 2.3.2.Biện pháp 2: Trên sơ sở nắm vững chương trình, nội dung dạy học Lịch sử lớp 4. Phân loại dạng bài và xác định những phương pháp dạy học phù hợp Các bài học Lịch sử lớp 4 theo mô hình trường học mới VNEN thì mỗi bài học là được tích hợp nhiều nội dung, gồm một chuỗi sự kiện, hiện tượng hay nhân vật lịch sử tiêu biểu của một giai đoạn lịch sử nhất định. Thời lượng dành cho mỗi bài học thường là 2 đến 3 tiết. Vì vậy, ở mỗi bài sẽ có sự vận dụng phương pháp dạy học cho từng tiết khác nhau. Do đó, GV cần xác định linh hoạt phương pháp dạy học cho từng nội dung kiến thức phù hợp. . a) Dạng bài có nội dung về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, tình hình kinh tế - chính trị, văn hóa- xã hội. Gồm các bài dạy: Bài 1: Buổi đầu dựng nước và giữ nước (Khoảng năm 700 TCN đến năm 179 TCN) - Tiết1: Nhà nước Văn Lang; Nhà nước Âu Lạc; Bài 2: Hơn một nghìn năm đấu tranh giành lại độc lập - Tiết1: Nước ta dưới ách đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc; Bài 4: Nước Đại Việt thời Lý (Từ năm 1009 đến năm 1226) - (Tiết 1&2); Bài 5: Nước Đại Việt thời Trần. Bài 6: Nhà Hồ. Bài 8: Trường học, văn thơ, khoa học thời Hậu Lê. Bài 9: Trịnh - Nguyễn phân tranh; Công cuộc khẩn hoang và sự phát triển của thành thị. Sau mỗi bài học HS nắm được: - Hoàn cảnh, địa phận, thời gian ra đời và tồn tại của nhà nước; tên vua, tên nước, nơi đóng đô, - Hiểu một cách đơn giản về tổ chức bộ máy nhà nước. - Biết được những nét chính về đời sống kinh tế, vật chất; văn hóa tinh thần của con người trong xã hội. - Vẽ hoặc mô tả đơn giản bộ máy chính quyền nhà nước. - So sánh ở mức độ thấp tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của các triều đại hoặc các giai đoạn lịch sử khác nhau. Học sinh có thái độ: Có ý thức tìm hiểu lịch sử dân tộc qua các triều đại thông qua phim ảnh, các câu chuyện lịch sử, Vấn đề cần lưu ý: Phải mô tả được tình hình nước ta như thế nào, tình cảnh đất nước, quan lại, chính quyền, cuộc sống nhân dân. Trong tình cảnh đó, chính quyền (hay nhân dân, nhân vật lịch sử) đã làm gì, làm như thế nào và kết quả của những việc làm đó. b) Dạng bài thứ 2: Dạng bài về các nhân vật Lịch sử gắn liền cuộc khởi nghĩa, các trận đánh. Gồm các tiết dạy: Bài 1: Hơn một nghìn năm đấu tranh giành độc lập(Khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40 (Tiết 2); Chiến thăng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo năm 938 (Tiết 3). Bài 3: Buổi đầu độc lập (Cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ nhất do Lê Hoàn chỉ huy). Bài 4: Nước Đại Việt thời Lý (cuộc kháng chiến chống quân Tống lần 2 (Lý Thường Kiệt). Bài 5: Nước Đại Việt thời Trần (cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên. Bài 7: Chiến thắng Chi Lăng và nước Đại Việt buổi đầu thời kì Hậu Lê (trận Chi Lăng). Bài 10: Phong trào Tây Sơn và vương triều Tây Sơn (Quang Trung đại phá quân Thanh). Vấn đềNâng Cao Chất Lượng Dạy Học Môn Tin Học 6 Bằng Phương Pháp Dạy Dạy Học Trực Quan
––&—–
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN TIN HỌC 6 BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY DẠY HỌC TRỰC QUAN
Lĩnh vực: Tin học
Cấp học : Trung học cơ sở Năm học : 2016 – 2017
A. ĐẶT VẤN ĐỀ …………………………………………………….
I. Lý do chọn đề tài …………………………………………………..
II. Phạm vi nghiên cứu ……………………………………………….
III. Thời gian nghiên cứu ……………………………………………..
IV. Đối tượng nghiên cứu …………………………………………….
V. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ………………………………………….
I. Cơ sở lý luận………………………………………………………..
II. Cơ sở thực tiễn……………………………………………………..
III. Thực trạng vấn đề…………………………………………………
IV. Mô tả giải pháp của đề tài…………………………………………
1. Các biện pháp tiến hành:………………………………………..
1.1. Biện pháp 1: Trực quan hoá thông tin dạy học.
1.2: Biện pháp 2: Tạo những tác nhân kích thích trực quan thông qua biểu trưng ngôn ngữ, biểu trưng đồ họa, biểu trưng tranh ảnh.
1.2.1 Dạy học trực quan bằng biểu trưng ngôn ngữ.
1.2.2 Dạy học trực quan bằng biểu trưng đồ họa.
1.2.3 Dạy học trực quan bằng biểu trưng hình ảnh
1.2.4. Kết hợp các loại hình trực quan.
1.3. Biện pháp 3: Xây dựng các kĩ năng, thực hành.
1.3.1. Kĩ năng nhận biết tính năng các loại biểu tượng.
1.3.2. Rèn luyện kĩ năng thao tác trên máy
1.4. Biện pháp 4: Sử dụng phần mềm hỗ trợ quản lý phòng máy (Netop School hoặc Italic và mạng LAN).
2. Kết quả
2.1. Khả năng áp dụng
2.2. Lợi ích kinh tế- xã hội
C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ: ……………………………..
I. Kết luận: ………………………………………………………….
1.Những điều kiện, kinh nghiệm áp dụng, sử dụng giải pháp.
2. Những triển vọng trong việc vận dụng và phát triển giải pháp.
3 Những bài học kinh nghiệm
II. Khuyến nghị: …………………………………………………….
D. PHỤ LỤC: ……………………………………………………….
ĐỀ TÀI: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN TIN HỌC 6 BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRỰC QUAN
Thực hiện Nghị quyết 40/2000/NQ-QH của Quốc hội và chỉ thị số 14/2001 CTTTg của thủ tướng chính phủ về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Đến nay việc đổi mới giáo dục phổ thông đã trở thành nền nếp sâu rộng từ đổi mới nội dung chương trình sách giáo khoa, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, phương pháp dạy học, đặc biệt là chú trọng đến đối tượng dạy học. Phần lớn giáo viên đứng lớp đã thích nghi với chương trình, phương pháp mới nhất là sử dụng, khai thác triệt để tác dụng thiết bị thực hành, của trang thiết bị, phương tiện dạy học nh bảng phụ, tranh ảnh, thiết bị thí nghiệm – thực hành, máy chiếu qua đầu, máy chiếu đa chức năng, …..
Xuất phát từ cuộc vận động ứng dụng đẩy mạnh công nghệ thông tin vào dạy học của Bộ giáo dục, Sở giáo dục, Phòng giáo dục và Ban giám hiệu nhà trường nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Đặc biệt là bộ môn Tin học, môn Tin học là một môn khoa học công cụ, tri thức và kỹ năng Tin học được áp dụng rộng rãi, hỗ trợ đắc lực cho rất nhiều ngành khoa học khác nhau trong hầu hết lĩnh vực của đời sống và là một phần không thể thiếu của trình độ văn hóa phổ thông của con người trong thời đại mới. Bởi vậy dạy tin học cho học sinh không chỉ truyền thụ nội dung đơn giản, mà phải hướng cho học sinh những nhận thức, những hiểu biết ngang tầm thời đại…
Do hạn chế về nhiều mặt cơ sở vật chất, trang thiết bị, trình độ giáo viên… mà đôi khi phương pháp dạy học đã không tận dụng hết những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, để truyền tải nhiều thông tin cho người học một cách trực quan nên chất lượng dạy và học có mặt hạn chế.
Sự thành công của một tiết dạy ngoài phương pháp giảng dạy của giáo viên và cách học của học sinh, còn cần sự có mặt của đồ dùng, phương tiện, thiết bị và phần mềm dạy học. Chính vì vậy mà bản thân tôi luôn cố gắng tìm tòi, nghiên cứu, trao đổi với đồng nghiệp và nghiên cứu các ứng dụng của thiết bị và phần mềm dạy học phù hợp với đặc trưng của bộ môn. Trong quá trình tìm tòi, nghiên cứu, học hỏi và ứng dụng đó bản thân tôi đã tìm ra một số biện pháp hữu ích góp phần trong việc nâng cao chất lượng bộ môn Tin học lớp 6.
Để nâng cao chất lượng môn tin học nói chung và tin học 6 nói riêng tôi đã đăng kí nghiên cứu và thực hiện sáng kiến kinh nghiệm “Nâng cao chất lượng dạy học môn tin học 6 bằng phương pháp dạy học trực quan”, đề ra một số biện pháp về việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan với đồ dùng dạy học đó là máy chiếu (Projecter hoặc Tivi màn hình lớn), các phần mềm dạy học (Netop school, Violet..), tranh ảnh, biểu tượng… mà bản thân tôi đã nghiên cứu và áp dụng thành công tại đơn vị trường THCS mà tôi đang công tác.
Qua các năm giảng dạy bộ môn Tin học lớp 6, tôi nhận thấy rằng nếu truyền thụ tri thức chỉ thông qua lời nói thì học sinh cảm thấy mệt mỏi, không có hứng thú trong học tập, việc tiếp thu bài giảng của học sinh không cao. Khi sử dụng phương tiện trực quan trong bài giảng giúp học sinh dễ dàng tiếp thu và tham gia bài giảng một cách tích cực và chủ động. Phương tiện dạy học vừa điều khiển nhận thức một cách sinh động, vừa là nguồn tri thức phong phú để lĩnh hội tri thức và rèn luyện kỹ năng. Phương pháp dạy học trực quan là một trong những phương pháp dạy học tích cực giúp học sinh dễ dàng chiếm lĩnh kiến thức thông qua quan sát. Tuy vậy, trong quá trình dạy học một số học sinh vẫn chưa chú ý đến sự hướng dẫn của giáo viên nên việc chiếm lĩnh kiến thức vẫn còn thụ động. Vì vậy trong quá trình dạy học giáo viên phải biết kết hợp các phương pháp dạy học một cách thích hợp, linh hoạt khai thác và vận dụng tốt các phương tiện sẽ kích thích được hứng thú tư duy của học sinh.
Việc khai thác tốt các hình ảnh và mô hình đưa ra thông qua phương pháp dạy học trực quan trong quá trình dạy học không chỉ giúp học sinh tiếp thu kiến thức mới nhanh hơn, hiệu quả hơn mà còn rèn luyện kỹ năng quan sát, phân tích, dự đoán, so sánh, khái quát, kỹ năng vận dụng để học sinh nâng cao kỹ năng kiến thức và có hứng thú hơn đối với môn học.
Một thực tế khác là ý thức học tập của một số học sinh chưa cao, chưa thực sự hứng thú trong học tập, lười hoạt động, không tích cực tự giác, ý thức tự học, tự rèn luyện yếu hoặc chỉ biết đến máy tính như một công cụ giải trí.
Qua điều tra khảo sát về cả lí thuyết và thực hành tôi tiến hành đã thu được kết quả như sau:
Qua kết quả khảo sát thì đa số các em nắm kiến thức lí thuyết còn yếu, các em hay quên và chưa vận dụng vào thực hành được nếu không có sự hướng dẫn của giáo viên.
Tỉ lệ yếu kém còn cao: chiếm 37%
Từ thực tế trên và bản thân tôi là một giáo viên dạy bộ môn Tin học luôn suy nghĩ phải đưa ra những giải pháp như thế nào để các em nắm lí thuyết chắc hơn nhớ lâu hơn và vận dụng vào thực hành tốt hơn. Sau một thời gian suy nghĩ tiến hành thực nghiệm tôi đã thu được những kết quả rất tốt sau đây tôi xin đề ra một số giải pháp sử dụng các dụng cụ trực quan trong dạy học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Tin học lớp 6.
3. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới
Việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào thực tiễn giảng dạy góp phần nâng cao chất lượng học tập bộ môn Tin học của học sinh, giúp các em vừa ôn luyện được kiến thức cũ, phát hiện nội dung kiến thức mới. Từ đó các em lĩnh hội tri thức một cách nhẹ nhàng, hứng thú, say mê học tập, rèn cho học sinh óc tư duy sáng tạo nhằm nâng cao chất lượng bộ môn.
Đề tài tập trung giới thiệu và giải quyết những vấn đề về “Các phương pháp dạy học trực quan ở môn tin học 6”
Năm học: 2016 – 2017
– Môn Tin học lớp 6.
– Học sinh khối 6
V. Phương pháp nghiên cứu
– Tổng hợp điều tra về mức độ học sinh thích học, mức độ học sinh hiểu bài trong các giờ học có sử dụng dụng cụ trực quan
– Kiểm tra việc học tập của học sinh (bài cũ, bài mới).
– Sử dụng bảng biểu đối chiếu.
– Kiểm tra chất lượng sau giờ học.
– Tận dụng tối đa các buổi học thực hành để các em được làm quen và luyện tập thật tốt các bài học lý thuyết.
– Hiện nay việc sử dụng các dụng cụ trực quan giúp cho giáo viên xây dựng tư liệu tương đối phong phú. Việc khai thác tư liệu có thể từ nhiều nguồn như: Khai thác thông tin tranh ảnh từ mạng Internet, từ sách báo tài liệu, tạp chí, băng hình, phim, các phần mềm,…
– Trao đổi, chia sẻ, rút kinh nghiệm
Do nhiều yếu tố nên phạm vi nghiên cứu và thực hiện là với môn Tin học tại 3 lớp 6A, 6B và 6C của trường THCS nơi tôi đang công tác trong năm học 2016 – 2017.
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN TIN HỌC 6 BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRỰC QUAN I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Việc đổi mới chương trình sách giáo khoa đặt trọng tâm vào việc đổi mới phương pháp dạy học. Chỉ có đổi mới căn bản phương pháp dạy học và chúng ta có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong giáo dục, mới có thể đào tạo được lớp người năng động, sáng tạo có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới hướng tới nền kinh tế tri thức.
Trong vài thập kỷ gần đây, đã có sự bùng nổ về thông tin hay gọi là thời đại thông tin. Cùng với việc sáng tạo ra hệ thống công cụ mới, con người cũng đã tập trung trí tuệ từng bước xây dựng ngành khoa học tương ứng để đáp ứng những yêu cầu khai thác tài nguyên thông tin. Trong bối cảnh đó, ngành Tin học được hình thành và phát triển thành một ngành khoa học độc lập với các nội dung, mục tiêu, phương pháp nghiên cứu riêng và ngày càng có nhiều ứng dụng trong hầu hết các lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người.
Tin học được đưa vào nhà trường, vào giáo dục của nước ta nhằm giúp học sinh chúng ta theo kịp với trình độ phát triển của khu vực và thế giới. Đưa Tin học vào nhà trường nói chung và THCS nói riêng là một việc làm cần thiết để các em làm quen và tiếp cận với công nghệ khoa học tiên tiến.
Hoạt động nhận thức của con người là từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Đối với học sinh lớp 6 khi học bộ môn Tin học này không thể làm trái với nguyên lý nhận thức đó. Việc dạy tin học trong nhà trường hiện nay đối với nước ta không phải là dễ, vì Tin học nó gắn liền với một công cụ riêng của môn học là máy tính. “Tin học là ngành khoa học nghiên cứu các quá trình có tính chất thuật toán nhằm mô tả biến đổi thông tin. Là khoa học dựa trên máy tính điện tử nghiên cứu cấu trúc, các tính chất chung của thông tin, các quy luật và phương pháp thu thập, lưu trữ, tìm kiếm thông tin, xử lý thông tin một cách tự động chính xác qua công cụ là máy tính điện tử”. Vậy làm thế nào để cho học sinh dễ hiểu một cách nhanh chóng chính xác và có kỹ năng thực hành là một nhiệm vụ rất quan trọng của người giáo viên dạy Tin học hiện nay.
Để giảng dạy tốt bộ môn Tin học có chất lượng, đạt kết cao thì người thầy giáo ngoài tin thông về bộ môn Tin học, cần nắm chắc phương pháp dạy học trực quan. Phương pháp dạy học trực quan là phương pháp dạy học mà từ các hình ảnh, hoạt động trực quan đến tư duy trừu tượng hay còn gọi trực quan hoá thông tin thông qua các công cụ trực quan.
II/ CƠ SỞ THỰC TIỄN
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức hướng dẫn các hoạt động độc lập để học sinh tự chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là chính nhưng khi soạn giáo án, giáo viên phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực hiện trên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng tranh luận sôi nổi của học sinh. Để làm được điều này thì đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên.
Khó khăn lớn nhất hiện nay ở các trường học khi áp dụng phương pháp dạy học trực quan vào giảng dạy vẫn là trang thiết bị nghe nhìn, phương tiện dạy học… còn nhiều thiếu thốn và bất cập. Trường THCS nơi tôi đang công tác tuy đã có được sự quan tâm hỗ trợ tích cực của các cấp lãnh đạo và phụ huynh học sinh nhưng đến nay vẫn chưa có phòng học bộ môn, phòng máy vi tính đã có số lượng tương đối đầy đủ nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu do sĩ số đông (30-35 HS/lớp). Để áp dụng phương pháp này vào dạy Tin học thì đòi hỏi phải có đèn chiếu (máy chiếu qua đầu – Over head) hay đèn chiếu (Projecter), máy vi tính đó là chưa kể đến việc nếu áp dụng đồng loạt thì mỗi lớp cũng đều phải được trang bị.
Tin học là một môn học đã được đưa vào giảng dạy tại trường THCS nơi tôi đang công tác nhưng so với các nơi khác cũng có thể nói là đang còn chậm, đặc biệt là các em lớp 6 cũng đã tiếp xúc với bộ môn này từ tiểu học mặc dù các em rất thích máy tính nhưng là để chơi các trò chơi trên máy chứ chưa ý thức được tầm quan trọng của bộ môn nên chất lượng học tập còn hạn chế. Đây là bộ môn đặc trưng muốn đạt chất lượng cao đòi hỏi các em phải tiếp xúc với máy tính nhiều nhưng thời lượng mỗi tuần chỉ có 2 tiết trên lớp thì các em chưa thể thực hành hết các kiến thức đã học mà nếu có thực hành hết thì sẽ chóng quên. Một thực tế khác là ý thức học tập của một số học sinh không cao, không hứng thú trong học tập, lười hoạt động, không tích cực tự giác, ý thức tự học, tự rèn luyện yếu.
III. THỰC TRẠNG KHI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
* Một số thuận lợi và khó khăn khi thực hiện đề tài:
1. Thuận lợi: * Nhà trường:
– Tuy môn Tin học mới chỉ là môn học tự chọn nhưng nhà trường đã tạo điều kiện để học sinh có thể học từ khối lớp 6, tạo điều kiện sắm sửa máy móc, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học môn Tin học.
* Giáo viên:
Giáo viên được đào tạo vượt chuẩn chuyên ngành về tin học để đáp ứng yêu cầu cho dạy và học môn tin học trong bậc THCS.
* Học sinh:
Vì là môn học trực quan, sinh động, môn học khám phá những lĩnh vực mới nên học sinh rất hứng thú học, nhất là những tiết thực hành.
Đời sống kinh tế gia đình của một số em học sinh ở nhà đã có máy vi tính nên cũng có những thuận lợi nhất định đối với môn học.
2. Khó khăn: * Nhà trường:
Nhà trường đã có một phòng máy vi tính để cho học sinh học nhưng vẫn còn hạn chế về số lượng cũng như chất lượng, mỗi ca thực hành có tới 3 em ngồi cùng một máy nên các em không có nhiều thời gian để thực hành làm bài tập một cách đầy đủ. Hơn nữa nhiều máy cấu hình máy đã cũ, chất lượng không còn tốt nên hay hỏng hóc, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng học tập của học sinh.
* Giáo viên:
Môn Tin học mới chỉ là môn tự chọn trong chương trình bậc THCS nên chương trình và sự phân phối chương trình bước đầu chưa có sự thống nhất và đang hoàn chỉnh. Hơn nữa khi thực hành, các máy móc chất lượng kém thường gặp sự cố, trục trặc dẫn đến học sinh thiếu máy, không thực hành được.
* Học sinh:
Đa số các em học sinh chỉ được tiếp xúc với máy vi tính ở trường là chủ yếu, do đó sự tìm tòi và khám phá máy vi tính với các em còn hạn chế, nên việc học tập của học sinh vẫn còn mang tính chậm chạp.
IV. MÔ TẢ GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI 1. Các biện pháp tiến hành:
1.1. Biện pháp 1: Trực quan hoá thông tin dạy học.
Trực quan hoá thông tin dạy học là một quá trình thông qua đó người học tri giác các tài liệu học tập dưới dạng các biểu trưng hình ảnh, âm thanh, mô hình, vật thật… với sự hỗ trợ của dụng cụ trực quan.
Dụng cụ trực quan được sử dụng trong môi trường học tập như trong dạy học, giáo dục qua mạng dựa trên cơ sở máy tính… dụng cụ trực quan có thể được sử dụng hiệu quả để giảng dạy các sự kiện, các chỉ dẫn, các quá trình và các khái niệm trừu tượng mà chúng thường khó nhớ, khó hiểu. Các mục tiêu dạy học có thể thực hiện tốt nếu biết phát huy thông qua công cụ trực quan.
Có thể nói dụng cụ trực quan có nhiều thuận lợi hơn hẳn so với dạy học bằng ngôn ngữ: Chứa nhiều thông tin và tổ chức thuận lợi các thông tin trong cùng một vị trí, làm đơn giản các khái niệm, làm sáng tỏ các chi tiết của một khái niệm dựa trên ngôn ngữ trừu tượng. Đặc biệt là tranh ảnh trực quan làm tăng khả năng tiếp nhận và ghi nhớ trong học tập đây là một trong những mục tiêu hàng đầu của giáo dục.
Từ những ưu điểm trên, tôi nhận thấy nếu áp dụng vào dạy học nhờ dụng cụ trực quan là đèn chiếu, tranh ảnh, biểu tượng…. vào dạy Tin học có hiệu quả rất cao.
Trước khi sử dụng dụng cụ trực quan cho một bài học thì trước hết giáo viên cần xác định bài nào cần dụng cụ trực quan và những dụng cụ trực quan đó là gì phục vụ cho những đơn vị kiến thức nào trong bài học.
Tiếp đến là công tác chuẩn bị với dụng cụ trực quan.
Ví dụ dạy bài: “Máy tính và phần mềm máy tính” cần chuẩn bị những đồ dùng trực quan khi giới thiệu cấu trúc chung của máy tính điển tử như: bộ xử lí trung tâm (CPU), thanh RAM, các ổ đĩa các thiết bị lưu giữ thông tin như USB, đĩa mềm, đĩa CD, DVD… hay hình ảnh của một số loại máy vi tính trong thực tế bằng cách chụp bởi tranh ảnh hoặc các dụng cụ trực quan thiết thực như thế HS mới nhớ lâu và thấy trong thực tế có thể gọi tên dụng cụ trực quan chính xác.
Đèn chiếu tương đối dễ sử dụng và việc chuẩn bị cho việc dạy học với đèn chiếu tương đối dễ dàng, ít tốn thời gian. Tuy nhiên để sử dụng đèn chiếu thì phải có sự chuẩn bị kiến thức và các nội dung kiến thức cần trình chiếu. Nội dung đưa lên máy chiếu phải rõ ràng chính xác và phải có máy vi tính.
Sau bài dạy tôi tiến hành kiểm tra nhận thức của học sinh bằng hình thức kiểm tra 15 phút. Kết quả thu được:
* Hiệu quả của biện pháp 1: Sau khi áp dụng một số ví dụ vào đề tài, số học sinh biết phân biệt các thiết bị của máy tính tăng lên rõ rệt.
Tỉ lệ khá giỏi đã được nâng lên so với chất lượng khảo sát đầu năm học: Tăng 26%
Tỉ lệ yếu giảm: 12 %
Tỉ lệ kém còn: 0%
Tuy nhiên một số học sinh vẫn chưa xác định đúng các vị trí thiết bị, …. Như vậy bước đầu việc vận dụng kiến thức, kĩ năng của các em vào làm bài tập thực hành đã có hiệu quả rõ rệt.
1.2. Biện pháp 2: Tạo những tác nhân kích thích trực quan thông qua biểu trưng ngôn ngữ, biểu trưng đồ họa, biểu trưng tranh ảnh.
Muốn sử dụng phương pháp dạy học này thành công thì việc đầu tiên người thầy phải làm là thiết kế các thông điệp trực quan đòi hỏi nhiều sức lực và trí lực nhưng lại là công việc đem lại nhiều lợi ích. Việc thiết kế các tài liệu dạy học trực quan mới có thể tạo nên sự thay đổi, và khi người học chú ý sẽ cho nhiều điều bổ ích. Người thiết kế phải quan tâm tới khía cạnh giảng dạy, tính trực giác và đặc biệt quan tâm tới những kĩ năng học tập của học sinh trong nghiên cứu và thực hành. Người giáo viên phải biết phân tích chọn lựa các loại hình trực quan sao cho phù hợp với nội dung bài học.
1.2.1 Dạy học trực quan bằng biểu trưng ngôn ngữ.
Biểu trưng ngôn ngữ được tạo ra từ chữ viết dưới dạng một từ đơn lẻ hoặc câu hoàn chỉnh dùng đặt tên đối tượng, định nghĩa, mô tả đối tượng.
Thường khi dạy các bài học lý thuyết tôi thường sử dụng loại biểu trưng trực quan bằng ngôn ngữ.
Ví dụ: Dạy bài “Máy tính và phần mềm máy tính” giáo viên chiếu sơ đồ cấu trúc chung của máy tính điện tử lên màn hình rồi yêu cầu học sinh quan sát và cho biết máy tính điện tự gồm những phần nào. Sau đó giáo viên chỉ vào từng đối tượng trên sơ đồ và giới thiệu lần lượt các khái niệm của các thành phần trong cấu trúc máy tính.
Ví dụ dạy bài “Định dạng văn bản”, thì đưa lên màn hình các bước thực hiện định dạng Font như sau:
Bước 1. Chọn khối văn bản cần định dạng
Bước 3. Hộp thọai Font xuất hiện chọn Font
+ Font: chọn phông chữ
+ Font Style: kiểu chữ
+ Size : cở chữ
+ Font color: màu chữ
+ Underline Style: đường gạch chân
+ Underline Color: màu đường gạch chân
+ Effects: các hiệu ứng
+ Preview: khung hiển thị
? Nêu các bước để định dạng văn bản phông chữ, kiểu chữ, cỡ chữ bằng menu lệnh (HS chỉ cần quan sát màn hình và nêu được các bước cần định dạng phông chữ…)
? Thao tác quan trọng nhất trong định dạng văn bản là gì (HS chọn phần văn bản cần định dạng)
Chẳng hạn khi dạy bài “Làm quen với soạn thảo văn bản” giáo viên cần cho học sinh làm quen với việc sao chép, di chuyển, cắt (xoá)… nhanh qua các biểu tượng.
Giáo viên đưa các biểu tượng
Tương tự bài “Chỉnh sửa văn bản” giáo viên đưa các biểu tượng
? Hãy nêu tên các biểu tượng trên và tính năng của các biểu tượng
Dạy bài “Định dạng văn bản” ngoài việc định dạng văn bản bằng menu lệnh giáo viên cần cho học sinh định dạng văn bản thông qua các biểu tượng sau.
HS nhìn vào biểu tượng và nêu chức năng của các biểu trượng từ đó các em nắm chắc hơn kiến thức lí thuyết để vận dụng vào làm thực hành tốt hơn.
* Dạy bài “Trình bày trang văn bản và in” ngoài việc dùng lệnh in, xem văn bản bằng menu lệnh thì có thể in, xem văn bản thông qua các biểu tượng sau.
1.2.3 Dạy học trực quan bằng biểu trưng hình ảnh
Giáo viên cần giải thích cho học sinh: Có rất nhiều kiểu dáng và hình thức khác nhau nhưng cấu tạo thì tương tự nhau, chuột có 3 nút bấm chính. Điều này lam cho các em dễ dàng nhận biết được chuột máy tính mà các em không bị ngỡ ngàng khi gặp phải loại chuột có kiểu dáng khác nhau.
Thiết bị nhớ USB cũng có nhiều kiểu dán khác nhau
Đặc biết là khi giới thiệu về một số thiết bị như Ram, Chíp, đĩa cứng, main của máy tính, nếu không có hình ảnh trực quan thì học sinh sẽ không hiểu được và chỉ hiểu mơ hồ, làm cho các em không có hứng thú học, giáo viên có thể đưa một số hình ảnh để học sinh nhận biết.
Ram máy tính
Chíp máy tính
Đĩa cứng
Main máy tính
1.2.4. Kết hợp các loại hình trực quan.
Giữa các loại hình trực quan, người thiết kế có thể kết hợp đa dạng các loại biểu trưng trực quan ngôn ngữ, hình ảnh, đồ họa với nhau. Đối với hầu hết học sinh ba loại này bao gồm nhiều mức độ khác nhau rất có ích trong học tập.
Ví dụ: Khi dạy bài “Máy tính và phần mềm máy tính” ta có thể sử dụng kết hợp giữa biểu trưng hình ảnh và biểu trưng ngôn ngữ.
1.3: Biện pháp 3: Xây dựng các kĩ năng, thực hành.
Giáo viên yêu cầu:
– Quan sát hình ảnh và cho biết ở hình trên đâu là thiết bị xuất, nhập,. .
* Dạy bài “Làm quen với soạn thảo văn bản”, “Tổ chức thông tin trong máy tính”, “Định dạng văn bản”… ta có thể sử dụng kết hợp cả ba hình thức trực quan
* Dạy bài “Định dạng văn bản” giáo viên chiếu hình ảnh sau và kết hợp cho học sinh thực hiện định dạng phông chữ, cỡ chữ, kiểu chữ… trên máy tính thì học sinh dể tiếp thu bài và ghi nhớ lâu hơn.
* Hiệu quả của biện pháp 2: Sau khi áp dụng biện pháp tạo những tác nhân kích thích trực quan thông qua biểu trưng ngôn ngữ, biểu trưng đồ họa, biểu trưng tranh ảnh học sinh nhận biết các biểu tượng được nhanh hơn, phân biệt và ghi nhớ các biểu tượng, các nút lệnh điều khiển được lâu hơn. Từ đó học sinh có thể sử dụng các kiến thức đã học để thực hành cũng như vận dụng vào thực tiễn tốt hơn.
Các bước sao chép khối
1.3.1. Kĩ năng nhận biết tính năng các loại biểu tượng.
Sau một tiết học tôi thường củng cố lại cho học sinh những cái vừa học bằng các dạng bài tập trắc nghiệm giúp học sinh nắm lại bài, học sinh có thể phân biệt được lệnh, các biểu tượng và nắm ý nghĩa của các biểu tượng.
Ví dụ: Dạy bài “Làm quen với soạn thảo văn bản”, Nối các ý của cột A, B, C, D sao cho hợp lý.
A
B
C
D
Ctrl + O
Ctrl + N
Ctrl + S
Alt + F4
File Open
File Save
File Exit
File New
Tạo tập tin văn bản mới
Đóng tập tin văn bản
Mở văn bản đã có
Lưu văn bản
Các bước chuyển khối
* Bài “Chỉnh sửa văn bản”: Dùng các từ, cụm từ điền vào chổ trống cho phù hợp.
(1) Edit Copy
(2) Edit Cut
(3) Edit Paste
(4) Delete
(5) Ctrl + V
(6) Ctrl + C
(7) Ctrl + X
Bước1. Chọn khối
Các bước xoá khối
Bước3. Đưa con trỏ đến vị trí mới.
Bước1. Chọn khối
Bước3. Đưa con trỏ đến vị trí mới.
* Bài học kinh nghiệm:
Bước1. Chọn khối
2. Kết quả:
1.3.2. Rèn luyện kĩ năng thao tác trên máy
Để việc học Tin học của học sinh đạt kết quả tốt, chất lượng cao, học sinh nắm chắc bài, biết thao tác trên máy tính cần cho học sinh học tại phòng máy, học sinh vừa nghe giáo viên giảng bài vừa ghi bài và thực hiện trên máy tính theo từng bước một. Với cách tổ chức học như thế này kết quả cho thấy học sinh nắm chắc bài học, đa số các em đều thực hiện được các thao tác thực hành.
2.1. Khả năng áp dụng
* Hiệu quả của biện pháp 3: Sau khi áp dụng biện pháp xây dựng các kĩ năng, thực hành học sinh dễ dàng phân biệt được các biểu tượng các nút lệnh mà vốn học sinh rất khó nhớ và dễ nhầm lẫn. Tránh được hiện tượng học sinh khi thực hành phải mò mẫm các công cụ, các biểu tượng khi sử dụng phần mềm để làm bài tập thực hành cũng như vận dụng vào thực tiễn.
Các phần mềm hỗ trợ quản lý phòng máy giúp cho giáo viên và học sinh dễ dàng giao tiếp và trao đổi thông tin với nhau bằng cách quan sát nhiều màn hình làm việc của học sinh cùng lúc hay truyền tải hình ảnh từ máy giáo viên đến từng máy học sinh. Đây là biện pháp hay đã được sử dụng ở một số nước trên thế giới. Tuy nhiên, hiện tại việc áp dụng các phần mềm này chưa thật sự đem lại hiệu quả cao do điều kiện bản quyền hay một số yêu cầu khác.
Để đạt hiệu quả trong mỗi tiết học trên lớp, giáo viên sử dụng triệt để mạng thông tin trên kênh hình (tranh vẽ, ảnh chụp, đồ dùng trực quan, phần mềm dạy học ….).
Sau mỗi lần thử nghiệm nên có một thời gian nhìn nhận đánh giá kết quả và rút kinh nghiệm cho lần sau.
Qua phần kiểm tra đánh giá khả năng nhận thức của học sinh kết quả tương đối khả quan. Lần kiểm tra sau kết quả cao hơn lần kiểm tra trước.
2.2. Lợi ích kinh tế- xã hội
Chứng tỏ học sinh đã có nhiều tiến bộ, tuy nhiên tỉ lệ học sinh mắc những sai sót còn khá cao.
Phương pháp dạy học trực quan cùng với những phương pháp kĩ thuật dạy học tích cực khác giúp nâng cao chất lượng dạy và học, đưa chất lượng giáo dục đi lên. Đặc biệt trong bộ môn tin học, dạy học trực quan là rất cần thiết và đóng góp không nhỏ vào kết quả giảng dạy.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có một số khó khăn:
-Người giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới tổ chức, hướng dẫn được tốt các hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên.
-Trang thiết bị nghe nhìn, phương tiện dạy học… còn nhiều hạn chế.
Trước khi đề tài thực hiện Sau khi thực hiện đề tài
-Các tài liệu, tư liệu minh họa, trình bày, tranh ảnh cần tìm hiểu sưu tầm và cập nhật thường xuyên để theo kịp thời đại.
Biểu đồ so sánh kết quả trước và sau khi thực hiện đề tài C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ I KẾT LUẬN
Qua một thời gian thực hiện ứng dụng phương pháp dạy học trực quan vào dạy học tin học lớp 6 tôi nhận thấy:
– Việc ứng dụng giúp giáo viên truyền thụ kiến thức cho học sinh một cách tích cực và trực quan, tiết kiệm thời gian trong tiết dạy lí thuyết từ đó HS có thời gian thực hành nhiều hơn và trong quá trình thực hành học sinh nhớ kiến thức lâu hơn
– Đối với học sinh tôi nhận thấy học sinh học tập tích cực hơn, hào hứng hơn, chú ý hơn, tham gia xây dựng bài sôi nổi hơn. Đặc biệt các em ghi nhớ kiến thức lâu hơn, chất lượng đi lên rõ rệt.
2. Những triển vọng trong việc vận dụng và phát triển giải pháp.
Sau khi áp dụng các biện pháp trên vào các tiết dạy thể hiện chất lượng các mức như sau:
Kết quả cụ thể:
Qua thời gian nghiên cứu đề tài trong năm học bằng nhiều phương pháp khác nhau, qua dự giờ đồng nghiệp và dạy thể nghiệm. Tôi đã tìm ra một số kinh nghiệm áp dụng vào trong giảng dạy và thu được những kết quả nhất định. Trong giờ học các em chú ý hơn, tích cực hơn, đã kích thích được khả năng tư duy sáng tạo, tự tin của các em, các em nắm bài một cách chủ động không máy móc. Kết quả số học sinh giỏi, khá tăng lên, số học sinh trung bình, yếu, kém giảm đi rõ rệt.
II. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1.Những điều kiện, kinh nghiệm áp dụng, sử dụng giải pháp.
Dạy học là một nghệ thuật. Sử dụng tốt phương pháp dạy học trực quan là con đường tốt nhất để đạt được mục đích yêu cầu tiết dạy trong đó phương tiện dùng công cụ trực quan đặc biệt có hiệu quả tốt giúp người học hiểu và nắm chắc thông tin cần thiết. Việc sử dụng dụng cụ trực quan vào quá trình dạy học là cần thiết đối với mỗi giáo viên vì nó mang lại hiệu suất, hiệu quả của giáo dục cao.
Muốn học sinh học tốt các môn học nói chung và môn Tin học nói riêng thì điều đầu tiên người giáo viên phải tạo được ở học sinh niềm say mê, hứng thú học tập bộ môn. Giờ học phải thu hút sự chú ý ham học hỏi của học sinh, tạo cho các em lòng tin vào khả năng của mình, nhiệt tình ham mê học tập.
Qua một thời gian nghiên cứu đề tài bằng nhiều phương pháp khác nhau, qua dự giờ của các đồng nghiệp, qua dạy thể nghiệm, đối chứng, tôi đã tìm ra được một số kinh nghiệm áp dụng vào trong giảng dạy và thu được những kết quả nhất định, trong giờ học các em đã chú ý hơn, tích cực hơn, đã kích thích phát huy được khả năng tư duy, tính tích cực của các em, các em nắm bài một cách chủ động không máy móc.
Việc sử dụng phương pháp trực quan vừa giúp giáo viên dễ dàng tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập, vừa giúp học sinh dễ dàng hiểu bài và khắc sâu kiến thức. Trong quá trình dạy học môn tin học hiện nay, kênh hình được coi là một công cụ, một phương tiện cho việc dạy và học môn tin học, phương pháp mà người giáo viên tin học sử dụng trong quá trình dạy học cũng phải dựa trên cơ sở kênh hình, có như vậy mới phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh. Do vậy, kết quả học tập cuối năm số học sinh khá giỏi tăng lên, số học sinh yếu giảm rõ rệt.
Tóm lại, việc áp dụng đề tài này đã góp phần một cách tích cực nâng cao chất lượng học tập bộ môn Tin học của học sinh.
Để áp dụng thành công đề tài này vào thực tiễn môn Tin học lớp 6, giáo viên phải thật sự hiểu rõ tầm quan trọng của phương pháp trực quan trong dạy học.
III. Khuyến nghị
Kinh nghiệm thực tiễn dạy học và kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy để nâng cao chất lượng dạy học cần có các điều kiện sau:
– Tạo không khí học tập tích cực, giáo viên phải tạo ra mỗi giờ học là một niềm vui niềm say mê trong học tập của học sinh. Giáo viên luôn tạo ra những thách thức vừa sức, tổ chức những họat động tự lực của học sinh trong từng tiết học.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
– Kết hợp nhiều phương pháp dạy học với phương pháp dạy học trực quan có nhằm gây hứng thú với học sinh và giúp học sinh chủ động nắm bắt kiến thức.
– Qua mỗi lần thử nghiệm nên có một thời gian nhìn nhận đánh giá kết quả và rút kinh nghiệm cho lần sau, biết cách khai thác trí lực của học sinh theo hướng tích cực, chủ động thì việc tiếp thu kiến thức, rèn luyện lỹ năng của học sinh sẽ trở nên thuận lợi và có kết quả hơn.
– Các thiết bị dạy học rất có ý nghĩa giáo viên phải luôn phát huy hết tác dụng của các thiết bị dạy học, đặc biệt là dụng cụ trực quan có như vậy mới gây được hứng thú học tập của các em. Bên cạnh mỗi tiết dạy giáo viên luôn nỗ lực chuẩn bị các đồ dùng trực quan đầy đủ phù hợp với nội dung bài dạy từ đó vậy giáo viên mới tạo được sự hứng thú bộ môn cho các em.
Qua quá trình thực hiện giảng dạy bản thân tôi có một số khuyến nghị sau: Đề nghị nhà trường trang bị thêm các trang thiết bị học tập (bàn, ghế, máy vi tính, …) ở phòng thực hành để học sinh có đủ điều kiện học tập tập tốt hơn.
– Sách giáo khoa và sách giáo viên lớp: 6 – NXB Giáo dục
– Các bài giảng điện tử ở các trang web: http://diendan.bachkim.vn; http://baigiang.edu.vn;
– Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn Tin học THCS – NXB Giáo dục
– Tài liệu tập huấn Đổi mới phương pháp dạy học môn Tin – NXB Giáo dục
– Sách bồi dưỡng Sinh viên cao đẳng sư phạm và giáo viên THCS về đổi mới chương trình và SGK Môn Tin học – NXB Hà Nội
– Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và SGK – NXB ĐH Sư phạm
– Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS Môn Tin học – NXB giáo dục.
Bạn đang xem bài viết Nâng Cao Chất Lượng Dạy Học Trong Tình Hình Mới trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!