Cập nhật thông tin chi tiết về Những Kiến Thức Cơ Bản Về Sàn Chứng Khoán Upcom mới nhất trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
UPCoM là một trong ba sàn chứng khoán được biết đến nhiều nhất ở Việt Nam. Không như HoSE hay HNX, sàn UPCoM có những điểm đặc trưng riêng có. Cùng bài viết đi tìm hiểu về sàn UPCoM để biết rõ hơn về những khác biệt của sàn này.
Sàn chứng khoán UPCoM tên đầy đủ là Unlisted Public Company Market, được biết đến là nơi giao dịch chứng khoán dành cho các công ty đại chúng chưa được niêm yết. Sàn Upcom tổ chức và vận hành dưới sự quản lý của Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội.
Khi doanh nghiệp thực hiện phát hành cổ phiếu thì không phải lúc nào cũng được niêm yết ngay trên sàn HoSE và HNX, sẽ có những trường hợp cổ phiếu chưa đạt tiêu chuẩn để niêm yết trên hai sàn giao dịch đó. Và sàn UPCoM ra đời nhằm tạo một thị trường hoạt động cho những cổ phiếu như vậy. Vì thế mà có thể nói sàn UPCoM được coi như là một trung gian thử nghiệm, tạo bàn đạp cho các cổ phiếu trước khi thực hiện niêm yết trên hai sàn giao dịch chính là HoSE và HNX.
Chính vì lý do như trên nên việc đăng ký giao dịch cổ phiếu trên sàn UPCoM đơn giản hơn nhiều so với sàn HoSE và HNX, doanh nghiệp chỉ cần là công ty đại chúng không niêm yết trên sàn HoSE và HNX, đồng thời chứng khoán phải đăng ký lưu ký tại trung tâm lưu ký chứng khoán.
Mặc dù thủ tục đăng ký và tính minh bạch khi giao dịch trên sàn UPCoM không cao như sàn HoSE hay HNX, nhưng mọi giao dịch chứng khoán của doanh nghiệp trên sàn UPCoM vẫn chịu sự quản lý tập trung của nhà nước và được pháp luật bảo vệ. Vì vậy mà có thể nói giao dịch trên sàn UPCoM là một bước đệm tốt trước khi đưa cổ phiếu niêm yết trên hai sàn chính là HoSE và HNX.
Và khi tham gia giao dịch trên sàn UPCoM thì người tham gia cần lưu ý là, nếu như với sàn HoSE hay HNX là các giao dịch được thực hiện bằng phương thức khớp lệnh tự động, nghĩa là chỉ cần bên mua và bên bán thống nhất thì hệ thống sẽ tự động khớp lệnh và giao dịch được hoàn thành. Thì với sàn UPCoM để các giao dịch được thực hiện thành công thì cần có thêm một đơn vị trung gian là công ty chứng khoán. Đây chính là điểm khác biệt lớn nhất giữa sàn UPCoM và hai sàn HoSE, HNX.
Bên cạnh những lợi thế như thủ tục đăng ký đơn giản, là trung gian tốt để chính thức được niêm yết thì việc hoạt động trên sàn UPCoM sẽ gặp phải những bất lợi như:
Tính thanh khoản còn thấp.
Thậm chí có nhiều mã hiện không giao dịch.
Ngoài ra, chính vì độ minh bạch của các công ty trên sàn UPCoM vẫn còn hạn chế nên rủi ro khi giao dịch trên sàn UPCoM sẽ là cao. Hơn nữa, biên độ dao động của cổ phiếu ở sàn UPCoM là ± 15% so với giá tham chiếu, cao hơn hẳn so với sàn HoSE là ± 7%, sàn HNX là ± 10%, đây cũng là một yếu tố gây rủi ro cho những người chơi trên sàn UPCoM.
Như vậy bài viết đã trình bày những thông tin cơ bản, đặc trưng, cũng như những thuận lợi và hạn chế khi tham gia giao dịch chứng khoán trên sàn UPCoM. Hi vọng sẽ là nguồn tham khảo hữu ích để người đọc hiểu rõ hơn về sàn UPCoM để có thể thực hiện giao dịch một cách hiệu quả.
Kiến Thức Cơ Bản Về Thị Trường Chứng Khoán
Kiến thức cơ bản về thị trường chứng khoán
1. Thị trường Chứng khoán sơ cấp và Thị trường Chứng khoán thứ cấp
So sánh giữa thị trường chứng khoán sơ cấp và thứ cấp
Thị trường Chứng khoán sơ cấp là thị trường mà tại đó chứng khoán được phát hành lần đầu tiên cho các nhà đầu tư, và vì là lần đầu tiên nên vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang cho Tổ chức Phát hành (Thay vì sang cho nhà đầu tư khác như bên thứ cấp). Nên bản chất của hoạt động này chính là tăng vốn điều lệ trên Thị trường Chứng khoán. Phương thức phát hành của thị trường này là Phát hành riêng lẻ và Phát hành ra công chúng.
Thị trường Chứng khoán thứ cấp là thị trường mà tại đó chứng khoán được mua đi bán lại với nhau giữa các nhà đầu tư sau khi đã được phát hành lần đầu ở Thị trường Chứng khoán sơ cấp. Điều này làm thay đổi quyền sở hữu chứng khoán giữa các nhà đầu tư và do đó Vốn điều lệ của Tổ chức Phát hành hoàn toàn không hề thay đổi gì trong quá trình này. Mục tiêu cao nhất của thị trường này là tạo tính thanh khoản, để khi một nhà đầu tư A cần tiền họ đang sở hữu 1 loại cổ phiếu thì có thể bán ngay lập tức để đổi ra tiền mặt cho một nhà đầu tư B khác đang có tiền nhàn rỗi muốn đầu tư sinh lời loại cổ phiếu đó, chính tính thanh khoản này sẽ giúp cho Tổ chức Phát hành trên Thị trường Chứng khoán sơ cấp khi cần vốn cho các dự án kế hoạch kinh doanh của mình có thể tăng vốn điều lệ mở rộng sản xuất kinh doanh.
2. Ngày giao dịch, Ngày Thanh toán, Ngày T và Ngày T+2 trong chứng khoán
Ngày T, T+1, T+2, T+3: trong giao dịch chứng khoán, khi bạn giao dịch mua bán thành công thì có nghĩa là bạn đã chốt giá, và ngày đó tính theo mốc thời gian được gọi là ngày T, tiếp sau đó 01 ngày làm việc được gọi là T+1, tiếp sau đó thêm 01 ngày làm việc nữa được gọi là T+2 và thêm 01 ngày sau đó nữa là ngày T+3.
Ngày Giao dịch: là ngày mà bạn quyết định mua/ bán cổ phiếu và đã mua/ bán thành công trên thị trường
Ngày Thanh toán: là ngày mà tại đó cổ phiếu sẽ được chuyển nhượng giữa người mua và bán, theo quy định mới nhất thì từ 01/01/2016, ngày thanh toán là 16h30 chiều ngày T+2 tức là sau giờ giao dịch hàng ngày kết thúc vào lúc 14h45.
3. Chứng khoán chưa Lưu ký và Chứng khoán đã Lưu ký
Lưu ký Chứng khoán là các cổ đông mà đại diện là Hội đồng quản trị Công ty Đại chúng đã ký gửi số chứng khoán chúng ta đang sở hữu cho một tổ chức mà ở đây ở Việt Nam là Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam quản lý và bảo đảm quyền sở hữu chứng khoán của mọi cổ đông.
Chứng khoán chưa lưu ký được hiểu là loại chứng khoán vẫn đang tồn tại dưới dạng sổ cổ đông/ Giấy chứng nhận sở hữu cổ phần. Nếu đó là các Công ty Cổ phần chưa phải Đại chúng hoặc đã là Đại chúng nhưng chưa đăng ký lưu ký với Trung tâm lưu ký Chứng khoán VN thì vẫn giao dịch mua bán được, mọi quyền lợi như cổ tức tiền mặt, đại hội cổ đông sẽ được thực hiện qua Công ty cổ phần đó hết. Còn ngược lại nếu đó là các Công ty Đại chúng đã đăng ký lưu ký với Trung tâm và cũng đã có mã chứng khoán thì nếu cầm sổ cổ đông như vậy chắc chắn là không mua bán được. Khi đó muốn bán được sổ cổ phiếu đó, bạn cần phải mở tài khoản tại một Công ty Chứng khoán, gửi sổ cổ đông cho Công ty Chứng khoán đó (Trước khi Công ty Chứng khoán đó gửi cho Trung tâm Lưu ký) để lưu ký số cổ phiếu đó lên sàn và chuyển sang trạng thái Chứng khoán đã Lưu ký rồi mới bán được trên sàn như bình thường chúng ta vẫn thấy hàng ngày.
4. Giá Tham chiếu và Cách tính
Trên sàn HOSE và HNX,, Giá đóng cửa hôm nay chính là Giá tham chiếu ngày mai (Giá đóng cửa chính là Giá giao dịch thành công cuối cùng của ngày). Giá đóng cửa ngày mai lại là Giá tham chiếu ngày kia… Cứ như thế suốt tạo ra 1 sự liền mạch về Giá thị trường.
Trên sàn UPCoM, Giá bình quân gia quyền hôm nay chính là Giá tham chiếu ngày mai hay Giá tham chiếu của hôm nay chính bình quân gia quyền toàn bộ giao dịch Phiên hôm qua. Trong một số trường hợp Đặc biệt, Giá tham chiếu không theo Quy tắc trên, Giá tham chiếu thường bị tụt rất sâu so với Giá Đóng cửa (HOSE / HNX) hoặc Giá Trung bình (UPCoM). Khi đó là trường hợp Đặc biệt và Giá tham chiếu có thể bị Điều chỉnh bởi việc Cổ tức Tiền mặt, Cổ tức Cổ phiếu hay Quyền mua của Công ty Niêm yết đó. (Ngày giao dịch không hưởng quyền”
5. Vốn hóa Thị trường và Cổ phiếu Blue-Chip, Penny, MidCap
Vốn hóa Thị trường hay Giá trị Vốn hóa Thị trường (Market Capitalization) được hiểu là Giá trị của một Công ty tính theo Giá Thị trường. Như vậy, Vốn hóa Thị trường = Số lượng Cổ phiếu Đang lưu hành x Giá thị trường của Cổ phiếu.
Vốn hóa Thị trường được ứng dụng trong rất nhiều vấn đề, đáng kể nhất là trong việc đánh giá Quy mô của 1 Công ty. Ngoài ra Vốn hóa Thị trường cũng được ứng dụng mạnh mẽ trong việc Định giá Doanh nghiệp bằng cách so sánh Vốn hóa Thị trường với Lợi nhuận Doanh nghiệp đó đang làm ra.
Những Kiến Thức Cơ Bản Về Hệ Sinh Thái
Quần thể (population) là một nhóm cá thể của một loài, sống trong một khoảng không gian xác định, có nhiều đặc điểm đặc trưng cho cả nhóm, chứ không phải cho từng cá thể của nhóm (E.P. Odium, 1971). Hoặc quần thể là một nhóm cá thể của cùng một loài sống trong cùng một khu vực (Alexi Sharov, 1996).
Quần xã (community) bao gồm cả quần xã của nhiều loài khác nhau, loài có vai trò quyết định sự tiến hóa của quần xã là loài ưu thế sinh thái.
Quần xã sinh vật (biome) là tập hợp các sinh vật thuộc các loài khác nhau cùng sinh sống trên một khu vực nhất định. Khu vực sinh sống của quần xã được gọi là sinh cảnh. Như vậy, sinh cảnh là môi trường vô sinh. Trên thực tế để dễ nhận biết và phân biệt, người ta dùng vật chỉ thị là thảm thực vật, vì yếu tố thực vật thường chiếm ưu thế trong một sinh cảnh và có ảnh hưởng rõ rệt lên sinh cảnh.
Tập hợp các sinh vật, cùng với các mối quan hệ khác nhau giữa các sinh vật đó và các mối tác động tương hỗ giữa chúng với môi trường, với các yếu tố vô sinh, tạo thành một hệ thống sinh thái, gọi tắt là hệ sinh thái (ecosystem). Hệ sinh thái là hệ chức năng gồm có quần xã, các cơ thể sống và môi trường của nó dưới tác động của năng lượng mặt trời.
Năm 1935, nhà sinh thái học người Anh, A. Tansley đề xuất khái niệm hệ sinh thái: “sinh vật và thế giới vô sinh (không sống) ở xung quanh có quan hệ khắng khít với nhau và thường xuyên có tác động qua lại”.
Hệ sinh thái là một hệ thống tác động qua lại giữa thực vật, động vật và con người với môi trường vật lý bao chung quanh chúng thể hiện qua dòng năng lượng từ đó tạo nên chu trình vật chất.
Thuật ngữ hệ sinh thái có thể áp dụng cho những quy mô khác nhau như hệ sinh thái nhỏ (gốc một cây gỗ), hệ sinh thái tương đối nhỏ (một cái ao), hệ sinh thái vừa (một khu rừng), hệ sinh thái lớn (đại dương), hệ sinh thái khổng lồ (trái đất). Hệ sinh thái không nhất thiết phải là một khu vực rộng lớn, nhưng phải có quần xã sinh sống.
Thành phần của hệ sinh thái
Hệ sinh thái hoàn chỉnh bao gồm các thành phần chủ yếu sau:
Các yếu tố vật lý (để tạo nguồn năng lượng): ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, áp suất, dòng chảy…
Các yếu tố vô cơ: gồm những nguyên tố và hợp chất hóa học cần thiết cho tổng hợp chất sống. Các chất vô cơ có thể ở dạng khí (O2, CO2, N2), thể lỏng (nước), dạng chất khoáng (Ca, PO43-, Fe …) tham gia vào chu trình tuần hoàn vật chất.
Các chất hữu cơ (các chất mùn, acid amin, protein, lipid, glucid): đây là các chất có đóng vai trò làm cầu nối giữa thành phần vô sinh và hữu sinh, chúng là sản phẩm của quá trình trao đổi vật chất giữa 2 thành phần vô sinh và hữu sinh của môi trường.
Chuỗi thức ăn và lưới thức ăn
Trong thiên nhiên, các nhóm thực vật, động vật cũng như nấm, vi khuẩn (với vô vàn cá thể) sống chung với nhau, liên kết với nhau bởi những mối quan hệ chủ yếu là về dinh dưỡng và phân bố. Tức là mối quan hệ mà trong đó luôn diễn ra cuộc đấu tranh về không gian sống và thức ăn.
Mối quan hệ về thức ăn thể hiện bằng một chuỗi dinh dưỡng được bắt đầu bằng sinh vật tự dưỡng và sau đó là một số sinh vật này làm thức ăn cho một số sinh vật khác, rồi chính nhóm này lại làm thức ăn cho nhóm khác nữa. Điều đó tạo thành chuỗi liên tục từ mức thấp đến mức cao, bắt đầu bằng mức độ tổng hợp sản phẩm tiếp đến một số mức độ tiêu thụ, chuỗi này còn được gọi là chuỗi thức ăn. Nhiều chuỗi thức ăn tạo thành lưới thức ăn.
Chuỗi thức ăn là chuỗi mà các sinh vật sau ăn các sinh vật trước. Nếu chúng ta xếp các sinh vật trong chuỗi thức ăn theo các bậc dinh dưỡng, thường sẽ tạo thành tháp sinh thái. Quan sát tháp sinh thái sẽ cho ta một số thông tin như tổng năng lượng của một hệ sinh thái tuân theo nguyên tắc nhiệt động học: năng lượng cung cấp từ nguồn thức ăn của sinh vật cấp trên luôn luôn thấp hơn cấp dưới, vì:
– Một số thức ăn được sinh vật ăn không được hấp thu, không cung cấp nguồn năng lượng hữu ích. – Phần lớn năng lượng được hấp thu, được dùng cho các quá trình sống hoặc mất đi dưới dạng nhiệt khi chuyển từ dạng này sang dạng khác và vì vậy cũng không được dự trữ trong cấp dinh dưỡng đã ăn chúng. – Các con vật ăn mồi không bao giờ đạt hiệu quả 100%. Nếu có đủ con cáo để ăn hết tất cả con thỏ có trong mùa hè (lúc nguồn thức ăn phong phú) thì có quá nhiều cáo vào mùa đông nhưng lại khan hiếm thỏ. Theo nguyên tắc ngón tay cái, chỉ khoảng 10% năng lượng từ sinh vật tiêu thụ bậc 1 hiện diện ở bậc cao kế tiếp. Năng lượng này được tích lũy lại trong sinh quyển. Ví dụ cần 100 kg cỏ để tạo thành 10 kg thỏ và 10 kg thỏ thì tạo thành 1 kg cáo.
Sinh vật sản xuất (hay tự dưỡng)
Chủ yếu là thực vật xanh, có khả năng chuyển hóa quang năng thành hóa năng nhờ quá trình quang hợp; năng lượng này tập trung vào các hợp chất hữu cơ-glucid, protid, lipid, tổng hợp từ các chất khoáng (các chất vô cơ có trong môi trường).
Sinh vật tiêu thụ (cấp 1, 2, 3)
Chủ yếu là động vật. Tiêu thụ các hợp chất hữu cơ phức tạp có sẵn trong môi trường sống.
– Sinh vật tiêu thụ bậc 1: tiêu thụ trực tiếp các sinh vật sản xuất. Chủ yếu là động vật ăn thực vật (cỏ, cây, hoa, trái …). Các động vật, thực vật sống ký sinh trên cây xanh cũng thuộc loại này. – Sinh vật tiêu thụ bậc 2: ăn các sinh vật tiêu thụ bậc 1. Gồm các động vật ăn thịt, ăn các động vật ăn thực vật. – Sinh vật tiêu thụ bậc 3: thức ăn chủ yếu là các sinh vật tiêu thụ bậc 2. Đó là động vật ăn thịt, ăn các động vật ăn thịt khác.
Sinh vật phân hủy
Sinh vật phân hủy là những loại vi sinh vật hoặc động vật nhỏ bé hoặc các sinh vật hoại sinh có khả năng phân hủy các chất hữu cơ thành vô cơ. Ngoài ra còn có những nhóm sinh vật chuyển hóa chất vô cơ từ dạng này sang dạng khác (như nhóm vi khuẩn nitrat hóa chuyển NH4+ thành NO3-). Nhờ quá trình phân hủy, sự khoáng hóa dần dần mà các chất hữu cơ được thực hiện và chuyển hóa chúng thành chất vô cơ.
Quy hoạch sinh thái cũng có nghĩa là sắp xếp và quản lý cân đối hài hòa cả 4 loại sinh thái này.
Các quá trình chính trong hệ sinh thái
Trong hệ sinh thái luôn diễn ra các quá trình chính, đó là quá trình trao đổi năng lượng, tuần hoàn các chất và sự tương tác giữa các loài.
Nguồn năng lượng trong hệ sinh thái có nguồn gốc chủ yếu từ ánh sáng mặt trời (thông qua quang hợp) và năng lượng hóa học (thông qua chuỗi thức ăn). Thông qua chuỗi thức ăn, bậc dinh dưỡng trên sẽ nhận được khoảng 10% năng lượng từ bậc dinh dưỡng thấp. Một số trường hợp ngoại lệ như bò ăn cỏ 7% (7 kg ngũ cốc tạo ½ kg thịt bò); ốc sên 33%; thỏ 20%.
Mọi sinh vật sống chính là nguồn thực phẩm quan trọng cho các sinh vật khác. Như vậy, có thể hiểu chuỗi thức ăn là một chuỗi sinh vật mà sinh vật sau ăn sinh vật trước, lưới thức ăn (food web) gồm nhiều chuỗi thức ăn.
Ví dụ: sâu ăn lá; chim sâu ăn sâu; diều hâu ăn chim sâu. Khi cây, sâu, chim sâu, diều hâu chết thì chúng sẽ bị các vi sinh vật phân hủy.
Như vậy, trong một hệ sinh thái luôn tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa tính ổn định và tính phong phú về tình trạng, về chủng loại trong thành phần của hệ sinh thái với tính cân bằng của hệ sinh thái. Hệ sinh thái càng trưởng thành thì cân bằng môi trường càng lớn.
Hệ sinh thái nào đó nếu còn tồn tại thì có nghĩa là đều đặc trưng bởi một sự cân bằng sinh thái nhất định. Thế ổn định biểu hiện sự tương quan về số lượng các loài, về chất lượng, về quá trình chuyển hóa năng lượng, về thức ăn của toàn hệ … Nhưng nếu cân bằng bị phá vỡ thì toàn hệ sẽ phải thay đổi. Cân bằng mới sẽ phải lập lại, có thể tốt cũng có thể không tốt cho xu thế tiến hóa.
Hệ sinh thái thực hiện chức năng tự lập lại cân bằng thông qua hai quá trình chính, đó là sự tăng số lượng cá thể và sự tự lập cân bằng thông qua các chu trình sinh địa hóa học, giúp phục hồi hàm lượng các chất dinh dưỡng có ở hệ sinh thái trở về mức độ ban đầu sau mỗi lần bị ảnh hưởng.
Hai cơ chế trên chỉ có thể thực hiện được trong một thời gian nhất định. Nếu cường độ tác động vượt quá khả năng tự lập cân bằng thì sẽ dẫn đến hậu quả cuối cùng là hệ sinh thái bị hủy diệt.
Một số nguyên nhân của sự phá vỡ sự cân bằng sinh thái
Sự cân bằng của hệ sinh thái bị phá vỡ do quá trình tự nhiên và nhân tạo. Các quá trình tự nhiên như núi lửa, động đất …. Các quá trình nhân tạo chính là các hoạt động sống của con người như tiêu diệt một loại thực vật hay động vật, hoặc đưa vào hệ sinh thái một hay nhiều loại sinh vật mới lạ; hoặc phá vỡ nơi cư trú vốn đã ổn định từ trước tới nay của các loài; hoặc quá trình gây ô nhiễm, độc hại; hoặc sự tăng nhanh số lượng và chất lượng một cách đột ngột của một loài nào đó trong hệ sinh thái làm phá vỡ sự cân bằng. Ví dụ:
Ở Châu phi, có thời kỳ chuột quá nhiều, người ta đã tìm cách tiêu diệt không còn một con. Tưởng rằng có lợi, nhưng sau đó mèo cũng bị tiêu diệt và chết vì đói và bệnh tật. Từ đó lại sinh ra một điều rất tai hại như mèo điên và bệnh dịch.
Sinh vật ngoại lai chính là mối lo toàn cầu. Đánh dấu ngày đa dạng sinh học thế giới 22/5, Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên thế giới (WCU) đã công bố danh sách 100 loài sinh vật du nhập nguy hiểm nhất. Chúng tàn phá thế giới sau khi “xổng” khỏi nơi cư trú bản địa, mà lại thường có sự trợ giúp của con người. Trong số 100 loài, có những loài rất quyến rũ như lan dạ hương nước và sên sói đỏ, loài rắn cây màu nâu và lợn rừng. Nguyên nhân chính là con người đã mở đường cho nhiều loài sinh vật nguy hại bành trướng. Chẳng hạn loài cầy mangut nhỏ được đưa từ châu Á tới Tây Ấn Độ để kiểm soát nạn chuột. Nhưng rất mau chóng, nó đã triệt hại một số loài chim, bò sát và lưỡng cư ở vùng này. Loài kiến “mất trí” đã tiêu diệt 3 triệu con cua trong 18 tháng trên đảo Giáng sinh, ngoài khơi Ấn Độ Dương. Sinh vật ngoại lai cũng đã xâm nhập Việt Nam như:
Ở vùng Đồng Tháp Mười và rừng Tràm U Minh hiện đang phát triển tràn lan một loài cây có tên là cây mai dương (cây xấu hổ). Cây mai dương có nguồn gốc từ Trung Mỹ, chúng sinh sản rất nhanh nhờ gió lẫn sinh sản vô tính từ thân cây. Bằng nhiều cách, chúng đã du nhập vào châu Phi, châu Á, Úc và đặc biệt thích hợp phát triển ở vùng đất ngập nước thuộc vùng nhiệt đới. Tại rừng Tràm U Minh, cây mai dương đã bành trướng trên một diện tích rộng lớn. Nếu tình trạng này tiếp diễn vài năm nữa, rừng tràm U Minh sẽ hóa thành rừng trinh nữ. Do tốc độ sinh trưởng nhanh của loài cây này, đã lấn áp cỏ – nguồn thức ăn chính cho sếu, cá, vì vậy ảnh hưởng đến sếu, cá ở Tràm Chim.
Ốc bươu vàng (pilasisnensis) được nhập khẩu vào nước ta khoảng hơn 10 năm nay. Ban đầu chúng được coi như một loại thực phẩm giàu đạm, dễ nuôi trồng, mang lại lợi ích kinh tế cao. Nhưng do sinh sản quá nhanh mà thức ăn chủ yếu là lá lúa, ốc bươi vàng đã phá hoại nghiêm trọng mùa màng ở nhiều tỉnh phía Nam. Hiện nay, đại dịch này đang phát triển dần ra các tỉnh miền Trung và miền Bắc.
Cá hổ pirama (còn gọi là cá kim cương, cá răng, tên khoa học là Serralmus nattereri) xuất hiện trên thị trường cá cảnh nước ta vào khoảng thời gian 1996-1998. Đây là loài cá có nguồn gốc từ lưu vực sông Amazon, Nam Mỹ, thuộc loại ăn thịt, hung dữ. Nhiều nước đã có quy định nghiêm ngặt khi nhập loài này, vì khi chúng có mặt trong sông, động vật thủy sinh sẽ bị tiêu diệt toàn bộ, tác hại khó mà lường hết được. Trước nguy cơ này, Bộ Thủy sản sau đó đã có chỉ thị nghiêm cấm nhập khẩu và phát triển loại cá này.
Như vậy, khi một mắc xích quan trọng trong toàn hệ sinh thái bị phá vỡ nghiêm trọng thì hệ sinh thái đó dễ dàng bị phá vỡ.
Sinh thái học
Năm 1869, nhà sinh học Đức Ernst Haeckel đã đặt ra thuật ngữ Ecology từ hai chữ Hy lạp là “Okois” có nghĩa là nhà hoặc nơi ở và “logos” có nghĩa là nghiên cứu về. Do đó, có thể hiểu “sinh thái học là môn học nghiên cứu những tác động qua lại giữa các cá thể, giữa những cá thể và những yếu tố vật lý, hóa học tạo nên môi trường sống của chúng”.
Sinh thái học là khoa học nghiên cứu về nơi ở, nơi sinh sống của sinh vật, nghiên cứu về mối quan hệ giữa sinh vật và điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của sinh vật.
Đối tượng nghiên cứu của sinh thái học chính là các hệ sinh thái. Nghiên cứu hệ sinh thái bao gồm các hệ sinh thái tự nhiên như ao, đại dương, rừng, sa mạc, hệ thực vật, hệ động vật … ngoài ra còn có các hệ sinh thái nhân tạo như ruộng rẫy, vườn cây ăn trái và một số các hệ khác.
Tags: Sinh thái học
Kiến Thức Cơ Bản Về Đào Bitcoin
Tìm hiểu về cách đào Bitcoin
Những kiến thức cơ bản về đào Bitcoin, cách đào Bitcoin
Những kiến thức cơ bản về đào bitcoin
So sánh Bitcoin và Vàng
Bitcoin được ví như vàng trong thế giới ảo của mạng internet. Vàng, Bitcoin hay các loại tiền tệ nói chung đều là công cụ trung gian để trao đổi hàng hóa trên thế giới.
Ví dụ bạn có lúa mì, và muốn đổi lấy sữa. Bạn có thể đổi trực tiếp, nhưng việc đó hơi bất tiện, vì không phải lúc nào người nuôi bò cũng muốn lấy lúa mì của bạn, họ lại cần thứ khác. Vì vậy bạn đổi lúa mì lấy vàng (bán) rồi đem vàng đổi lấy sữa (mua).
Trước khi sử dụng vàng, người ta đã dùng nhiều loại công cụ khác như vỏ sò, mai rùa, đá, lá cây… Những các loại khác có một số nhược điểm như: cồng kềnh, khó chia nhỏ, dễ dàng nuôi trồng, hoặc nhặt thêm… vì vậy sau cùng vàng đã được chọn làm công cụ phổ biến toàn cầu, vì vàng dễ mang đi, dễ chia nhỏ, dễ bảo quản (vàng ít bị oxi hóa) và không thể tạo thêm trên thế giới mà chỉ có một lượng hữu hạn.
Tương tự với Bitcoin, nó an toàn, dễ chia nhỏ (bạn có thể chia 1 bitcoin ra thành vô số phần nhỏ), dễ giao dịch và quan trọng nhất là lượng Bitcoin trên toàn cầu cũng là một số hữu hạn, sau khi đạt 21 triệu đơn vị, các máy tính sẽ không thể đào thêm Bitcoin được nữa.
Vì vậy Bitcoin đã được nhiều người chọn làm công cụ giao dịch trên internet. Trong thời gian qua, Bitcoin đã phát triển chóng mặt và lan rộng tới nhiều quốc gia và lĩnh vực kinh tế khác nhau.
Ai có thể đào được Bitcoin?
Mọi người đều có thể đào Bitcoin bằng cách tham gia mạng lưới của bitcoin. Khi đó máy tính của bạn sẽ được gọi là một Bitcoin miner. Nếu bình thường chúng ta khai thác vàng bằng cách đào xuống lòng đất và lọc quặng thô, thì với Bitcoin, người ta khai thác bằng cách dùng các máy tính để giải thuật toán.
Nếu khai thác vàng bằng các máy móc hiện đại, số lượng nhân công nhiều, bạn sẽ có nhiều vàng. Nếu chỉ đào một mình bằng cây cuốc, bạn sẽ có rất ít hoặc đôi khi chẳng thu được gì. Cũng như vậy, việc đào bitcoin đòi hỏi những máy tính đủ mạnh và có sự kết hợp với nhau, nếu bạn đào bitcoin bằng máy tính cá nhân và làm một mình, bạn sẽ chẳng thu được đủ lượng tiền để trả cho tiền điện và hao mòn máy móc.
Đào Bitcoin chẳng mất gì mà lại được tiền thật?
Sự thực hoàn toàn không phải vậy, mặc dù hiện nay giá Bitcoin đã khá cao, nhưng việc đào được lượng Bitcoin đủ lớn cũng không hề dễ dàng. Bitcoin không tự rơi vào tài khoản của chúng ta mà nó đòi hỏi rất nhiều công sức và đầu tư tốn kém.
Hiện nay, cũng không có ai cấm bạn đi đào vàng, nhưng bạn có nghĩ đào vàng là dễ và bạn sẽ giàu ngay sau một đêm? Không phải vậy, đôi khi bạn chỉ kiếm được nhiều hơn công sức bỏ ra một chút, và việc đó cũng giống như bạn trồng lúa, nuôi bò, sản xuất hàng hóa… Trên thế giới có hàng vạn cỗ máy đang miệt mài đào Bitcoin, một số có được nhiều, một số khác thì không thành công như vậy.
Giá mà đào Bitcoin từ ngày đầu, giờ có lẽ tôi đã thành triệu phú?
Ok, sẽ thuận lợi hơn cho bạn nếu bạn đào Bitcoin từ ngày đầu, nhưng để trở thành triệu phú thì bạn thực sự cần bản lĩnh và may mắn. Ban đầu việc đào Bitcoin không khó lắm (vì thuật toán Bitcoin có độ khó tăng dần theo thời gian), nhưng chính vì vậy mà nó không có nhiều giá trị.
Tỷ giá Bitcoin trên các sàn giao dịch Bitcoin đã lẹt đẹt ở mức dưới 1 dollar trong suốt mấy năm qua. Lúc ấy có thể mọi người không mặn mà lắm với việc sở hữu Bitcoin. Chỉ khi việc đào Bitcoin ngày càng khó và tốn nhiều chi phí, giá trị của Bitcoin mới được nâng dần lên. Cùng với cơn sốt làm giàu bằng đầu tư Bitcoin, tỷ giá đã tăng lên chóng mặt (và có thể còn tăng nữa), nhưng đó là giá trị thật của việc sở hữu Bitcoin chứ không phải từ trên trời rơi xuống qua những lời đồn.
Nếu sở hữu Bitcoin từ ngày đầu (với trị giá chỉ chưa đầy 1 dollar), tôi tin không nhiều người kiềm chế được việc bán ra Bitcoin khi tỷ giá lên đến 50, hoặc 100. Chỉ những ai rất may mắn và kiên nhẫn mới có thể giữ Bitcoin đến tận bây giờ. Nhưng nếu họ bán ra lúc này và thu tiền về, cũng chưa chắc họ đã quyết định đúng vì Bitcoin còn có thể tăng giá tiếp trong tương lai.
Bitcoin, cũng như nhiều cơn sốt khác, có thể tạo ra lợi nhuận nhanh chóng hoặc thua lỗ cũng nhanh chóng. Nếu biết trước tương lai để hành động thì không chỉ Bitcoin mà tên miền, bất động sản, muối, ngoại tệ… tất cả đều mang lại siêu lợi nhuận. Vấn đề là làm sao chúng ta dự đoán được điều đó, và dự đoán được rồi thì ai sẽ có can đảm để đầu tư.
Bây giờ có phải lúc thích hợp để đào Bitcoin?
Cho đến trước năm 2040 khi lượng Bitcoin của thuật toán cạn kiệt, bạn vẫn có thể đầu tư đào Bitcoin. Nếu bạn mất vài trăm dollar để đào được 1 BTC, trên thị trường giá của 1 BTC cũng khoảng vài trăm dollar, hoặc chênh lệch một chút. Sau 10 năm nữa bạn có thể mấy vài ngàn dollar để đào được 1 BTC, thì giá cũng nó cũng vẫn tương đương vài nghìn dollar. Nếu nhỉnh hơn bạn có lời, còn thấp hơn thì bạn lỗ.
Đào Bitcoin đòi hỏi thiết bị, hiểu biết và thời gian. Chỉ có bạn là người biết được nguồn lực của mình như thế nào. Nếu bạn cảm thấy mình có lợi thế trong lĩnh vực này (ví dụ bạn có vốn, có nguồn thiết bị và hiểu biết về phần cứng…) thì đây là cơ hội tốt. Ngược lại, bạn nên đầu tư vào lĩnh vực sở trường của mình, như vậy sẽ tốt hơn rất nhiều.
Tôi chỉ có một lời khuyên duy nhất, đó là tại thời điểm này (năm 2013), đào Bitcoin bằng máy tính cá nhân thông thường sẽ không phải là một lựa chọn tốt (cũng như bạn đi tìm vàng với một cây cuốc, trong khi mọi người đang khai thác bằng máy công nghiệp). Nếu muốn đào bitcoin, bạn cần có trang bị tốt hơn.
Bạn đang xem bài viết Những Kiến Thức Cơ Bản Về Sàn Chứng Khoán Upcom trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!