Xem Nhiều 6/2023 #️ Phương Pháp Giáo Dục Steiner Ngày Càng Lan Tỏa # Top 12 Trend | Sansangdethanhcong.com

Xem Nhiều 6/2023 # Phương Pháp Giáo Dục Steiner Ngày Càng Lan Tỏa # Top 12 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Phương Pháp Giáo Dục Steiner Ngày Càng Lan Tỏa mới nhất trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Rudolf Steiner (1861-1925)

Rudolf Steiner (1861-1925) là nhà giáo dục, triết gia người Áo. Sau thời kì dài biên tập để xuất bản các công trình của Johann Wolfgang von Goethe (từ 1882 đến 1886), Steiner xuất bản cuốn “Lý thuyết về kiến thức tiềm ẩn trong quan niệm về thế giới của Goethe” (The Theory of Knowledge Implicit in Goethe’s World-Conception). Cùng với ảnh hưởng của Goethe, ông chịu ảnh hưởng của Arthur Schopenhauer trong quan niệm về Ý chí (tạm dịch của chữ “the Will”), đặc biệt qua tác phẩm “Thế giới như là Ý chí và Biểu tượng” (The World as Will and Representation). Năm 1897, Steiner viết cuốn “Giáo dục dưới ánh sáng của khoa học tâm linh” (Education in the Light of Spiritual Science), là cơ sở triết lý cho việc ông xây trường, đào tạo giáo viên, và giảng dạy,…

Khác với các nền giáo dục ngày nay tập trung vào việc truyền đạt kiến thức, nền giáo dục Steiner nhấn mạnh và đặt tầm quan trọng vào ba yếu tố cơ bản của con người: Suy nghĩ, Cảm xúc, và Ý chí.

Đặc biệt khác với nền giáo dục phổ quát, với ảnh hưởng từ quan niệm thế giới là sự biểu đạt của ý chí, kiến thức nhân loại không chỉ là những kiến thức thu nhận bằng tư duy logic thông thường của Goethe và Schopenhauer, Steiner đưa ra chi tiết các phương pháp thực hành trong giảng dạy để phát triển ý chí của trẻ, ngay từ khi sinh ra cho đến lúc trưởng thành. Ông quan niệm đứa trẻ sinh ra vốn có một ý chí sống mãnh liệt, đó cũng là nguồn năng lượng để nuôi dưỡng đam mê, để đứa trẻ luôn có ý muốn, khát vọng và quyết tâm làm và làm cho được điều gì đó có ích, nhiệm vụ của giáo viên là nuôi dưỡng và phát triển cái chí này cho trẻ. Trong nền giáo dục Steiner, giáo viên được chỉ dẫn các phương pháp thực hành để phát triển ý chí cho trẻ qua các hoạt động học tập bằng trải nghiệm – các hoạt động chân tay ở tuổi mầm non và tiểu học, các dự án khoa học và nghệ thuật kéo dài nhiều tuần ở các lớp lớn hơn.

Mỗi đứa trẻ một cá thể không sợ hãi và hạnh phúc

Nền giáo dục phổ quát hiện tại dùng phương tiện cạnh tranh, thi đua, tưởng thưởng và trừng phạt để đạt được một vài kết quả kì vọng nào đó; theo đuổi cứu cánh là những gì nằm bên ngoài con người của chính đứa trẻ, những gì được người khác công nhận: sự thành công về một nghề nghiệp, sự thành danh về địa vị xã hội, đạt được uy quyền chính trị hay kinh tế.

Nếu ta tạm gọi nền giáo dục phổ quát là giáo dục theo chủ nghĩa duy vật thì nền giáo dục Steiner là nền giáo dục theo chủ nghĩa lý tưởng. Cứu cánh của trường phái giáo dục theo chủ nghĩa lý tưởng, như Krishnamurti viết: “Mục đích của giáo dục không chỉ là đào tạo những học giả, những kỹ thuật gia, những kẻ săn việc, mà còn là những nam nữ công dân vẹn toàn. Họ tự do với sợ hãi, bởi vì chỉ có giữa những con người như vậy mới có thể có một nền hòa bình vĩnh cửu.”1

Steiner nhìn đứa trẻ vượt ra ngoài chủ nghĩa quốc gia hay dân tộc, là cái sinh ra do và vì các thể chế hơn là vì chính sự tiến bộ của nhân loại. Ông nhìn mỗi đứa trẻ như một cá thể Người của nhân loại hơn là một công dân sẽ gia nhập vào lực lượng lao động của một quốc gia, một nền kinh tế.

Cũng như vậy, Steiner nhìn đứa trẻ vượt ra ngoài chủ nghĩa quốc gia hay dân tộc, là cái sinh ra do và vì các thể chế hơn là vì chính sự tiến bộ của nhân loại. Ông nhìn mỗi đứa trẻ như một cá thể Người của nhân loại hơn là một công dân sẽ gia nhập vào lực lượng lao động của một quốc gia, một nền kinh tế. Đứa trẻ ấy sinh ra với gốc gác dân tộc và thấm nhuần văn hóa dân tộc để lớn lên là cá thể không sợ hãi và hạnh phúc, một cá thể của nhân loại với nền hòa bình vĩnh cửu, như Krishnamurti mô tả.

Để thoát khỏi và vượt xa nỗi sợ hãi, uy quyền hay các hủ tục truyền thống, cá nhân phải đạt tới trạng thái thấu hiểu bản ngã của mình, nhận biết đam mê, năng lực, mọi hành vi của mình. Điều này được hiện thực hóa bằng phương pháp giảng dạy trong những ngôi trường Waldorf/Steiner, nơi các nhà giáo từ chối uy quyền đối với học trò ngay từ khi đứa trẻ còn chập chững bước đi. Giáo viên chỉ đóng vai trò người dẫn đường để mỗi học sinh học tập bằng sự vui thích, khám phá phong phú các môn học khác nhau, từ thủ công, hội họa, điêu khắc, kịch nghệ… đến ngôn ngữ, toán học, khoa học,… và từ đó tìm ra thế mạnh, niềm đam mê của chính mình. Nhân cách của người thầy, khoảng không mà thầy chủ động tạo ra để đứa trẻ được tự do bộc lộ, tự do lựa chọn, sự tôn trọng thực tâm mà thầy giáo dành cho mỗi cá nhân học sinh, là những phương thức thực hành hữu hiệu để mỗi ngày xây thêm một viên gạch vào việc hình thành những cá nhân không sợ hãi và hạnh phúc.

Không cạnh tranh, không tưởng thưởng, không trừng phạt

Điều đặc biệt là trong những ngôi trường này không có sách giáo khoa, cũng hoàn toàn vắng mặt sự cạnh tranh, thi đua, không tưởng thưởng không trừng phạt – những việc làm mà theo Krishnamurti sẽ làm gia tăng sự sợ hãi, hay sự ái ngã. Với tư tưởng giáo dục đi vào bên trong cá thể để tìm ra con người cá nhân, tìm kiếm sự mạnh mẽ nội tâm, xây dựng động lực từ bên trong mỗi học sinh, từ đam mê của cá nhân thay vì để đứa trẻ tìm kiếm và phụ thuộc vào động lực từ bên ngoài, nền giáo dục Steiner xây dựng những ngôi trường với những giáo viên hoàn toàn không phán xét, không so sánh, không thi đua từ bậc mầm non đến hết phổ thông.

Sự vắng bóng uy quyền, tưởng thưởng hay trừng phạt dễ dẫn đến tình trạng vô kỷ luật, vậy tại sao học sinh trong trường Waldorf/Steiner luôn có kỷ luật rất cao? Câu trả lời là tình yêu thương tạo ra kỷ luật từ bên trong mỗi học sinh. Điều nhỏ nhưng không nhỏ, các ngôi trường Waldorf/Steiner luôn đầy ắp tình yêu thương, ấm áp từ cách thiết kế lớp học đến cách giao tiếp giữa thầy trò, và rộng ra là tới từng phụ huynh, từng thành viên làm việc trong trường.

Bởi tất cả sự khác biệt này, như vốn dĩ một nền giáo dục đích thực hay một nền giáo dục theo chủ nghĩa lý tưởng đòi hỏi, những ngôi trường Waldorf/Steiner không thể là những ngôi trường với hàng nghìn học sinh, mà mỗi lớp học chỉ chừng hơn hai mươi học sinh và mỗi người thầy theo học trò ít nhất vài năm học (hết bậc mầm non, hết bậc tiểu học) để thấu hiểu, để tạo mối quan hệ bền vững, yêu thương và giúp từng cá nhân học sinh phát triển.

Trong khi nền giáo dục phổ thông của Việt Nam, và thậm chí nhiều nước phát triển hay đang phát triển khác, gặp phải vấn đề học sinh lớp 12 tốt nghiệp không biết mình muốn gì, không biết chọn trường nào thì nền giáo dục Steiner có được những kết quả ngoạn mục: Học sinh tốt nghiệp phổ thông Steiner chọn ngành nghề không vì bất cứ lí do nào khác ngoài đam mê cá nhân. Danh sách các học sinh cũ của các trường Waldorf/Steiner bao gồm nhiều người với nhiều thành quả, cống hiến quan trọng trong những ngành nghề đòi hỏi tính sáng tạo cao như: thiết kế, kiến trúc, làm phim, nhạc sỹ, họa sỹ, kĩ sư nghiên cứu không gian vũ trụ2… Một công trình nghiên cứu và so sánh tính sáng tạo (Torrance Test of Creative Thinking Ability) của học sinh Steiner và học sinh các trường công (mẫu dựa trên 1.165 học sinh các nước Anh, Scotland, Đức) đưa ra kết quả: chỉ số sáng tạo của học sinh Steiner cao hơn học sinh nền giáo dục công tại các nước được nghiên cứu3.

Bắt đầu từ xóa bỏ ý thức phán xét, nuôi nấng trí tưởng tượng

Ở các trường Waldorf/Steiner, việc dạy và học không bao giờ chỉ tập trung vào kiến thức mà họ có mọi hoạt động và phương thức để nuôi dưỡng ý chí, nuôi dưỡng năng lực và mong muốn làm việc của đứa trẻ qua từng giai đoạn.

Đứa trẻ được dung dưỡng cảm xúc trong từng môn học, để thích học và học bằng toàn bộ con người chứ không chỉ bằng tư duy logic, tư duy trừu tượng.

Giai đoạn tiểu học: Đứa trẻ được dung dưỡng cảm xúc trong từng môn học, để thích học và học bằng toàn bộ con người chứ không chỉ bằng tư duy logic, tư duy trừu tượng. Giai đoạn 7-12 tuổi, như các nghiên cứu của Jean Piaget về sự phát triển tư duy của trẻ đã chỉ ra: trẻ tiếp thu kiến thức và tư duy bằng hình ảnh, đây chưa phải là giai đoạn của tư duy trừu tượng. Các môn học trong trường tiểu học Waldorf/Steiner không tập trung vào tư duy trừu tượng, trẻ học qua trải nghiệm thực, tiếp xúc thực, ngay cả đến phép toán cộng trừ cũng được học bằng toàn bộ cơ thể, được gắn với cái đẹp. Tại sao lại đề cao tính đẹp trong mọi môn học? Steiner cho rằng cái đẹp gây xúc cảm nơi tâm trí, từ đó đánh thức tư duy, nuôi dưỡng ý chí.

Đặc biệt, nhìn sự phát triển tư duy của trẻ như một quá trình lặp lại và rút ngắn con đường phát triển của loài người, từ giai đoạn người-chế tác đến người hiện đại. Điều này đặc biệt thấy rõ qua môn lịch sử: trẻ bắt đầu học huyền thoại, truyền thuyết, đến sự phát triển của đế chế Hy Lạp – La Mã, giai đoạn Phục hưng, và sau cùng mới là lịch sử hiện đại của dân tộc mình; hay ở môn khoa học, trẻ bắt đầu tiếp cận với thế giới thực vật, động vật, khoáng vật, rồi mới đến con người.

Giai đoạn trung học: Trẻ học bằng tư duy logic, tư duy trừu tượng, các vấn đề khoa học được đào sâu bằng tư duy phản biện. Đặc biệt, học sinh không học khoa học mà làm khoa học, trong các phòng thí nghiệm, các nhà xưởng không kém gì tại các trường đại học lớn, theo đuổi các dự án khoa học kéo dài nhiều tháng. Các môn học nghệ thuật, đến thời điểm này, đã đạt đến trình độ chuyên nghiệp, các tác phẩm nghệ thuật của học sinh đã đạt trình độ như một họa sỹ, một nhà điêu khắc, một nhạc công trong dàn nhạc giao hưởng.

Kỳ tới: Giáo dục Steiner ở bậc mầm non

1 Krishnamurti, Giáo dục và ý nghĩa cuộc sống (NXB Thời Đại).

2 http://thewaldorfs.waldorf.net/famousparents.html

3 Báo cáo nghiên cứu “So sánh chỉ số sáng tạo học sinh Waldorf và học sinh trường công”, Ogletree & Earl J, 12/1996 (nghiên cứu tại Anh, Scotland, Đức).

Tác giả: NGUYỄN THU HƯƠNG Nguồn: Tạp chí Tia sáng ngày 07/12/2015

Phương Pháp Steiner Ngày Càng Lan Tỏa

Mỗi đứa trẻ một cá thể không sợ hãi và hạnh phúc

Nền giáo dục phổ quát hiện tại dùng phương tiện cạnh tranh, thi đua, tưởng thưởng và trừng phạt để đạt được một vài kết quả kì vọng nào đó; theo đuổi cứu cánh là những gì nằm bên ngoài con người của chính đứa trẻ, những gì được người khác công nhận: sự thành công về một nghề nghiệp, sự thành danh về địa vị xã hội, đạt được uy quyền chính trị hay kinh tế.

Nếu ta tạm gọi nền giáo dục phổ quát là giáo dục theo chủ nghĩa duy vật thì nền giáo dục Steiner là nền giáo dục theo chủ nghĩa lý tưởng. Cứu cánh của trường phái giáo dục theo chủ nghĩa lý tưởng, như Krishnamurti viết: “Mục đích của giáo dục không chỉ là đào tạo những học giả, những kỹ thuật gia, những kẻ săn việc, mà còn là những nam nữ công dân vẹn toàn. Họ tự do với sợ hãi, bởi vì chỉ có giữa những con người như vậy mới có thể có một nền hòa bình vĩnh cửu.”

Steiner nhìn đứa trẻ vượt ra ngoài chủ nghĩa quốc gia hay dân tộc, là cái sinh ra do và vì các thể chế hơn là vì chính sự tiến bộ của nhân loại. Ông nhìn mỗi đứa trẻ như một cá thể Người của nhân loại hơn là một công dân sẽ gia nhập vào lực lượng lao động của một quốc gia, một nền kinh tế.

Cũng như vậy, Steiner nhìn đứa trẻ vượt ra ngoài chủ nghĩa quốc gia hay dân tộc, là cái sinh ra do và vì các thể chế hơn là vì chính sự tiến bộ của nhân loại. Ông nhìn mỗi đứa trẻ như một cá thể Người của nhân loại hơn là một công dân sẽ gia nhập vào lực lượng lao động của một quốc gia, một nền kinh tế. Đứa trẻ ấy sinh ra với gốc gác dân tộc và thấm nhuần văn hóa dân tộc để lớn lên là cá thể không sợ hãi và hạnh phúc, một cá thể của nhân loại với nền hòa bình vĩnh cửu, như Krishnamurti mô tả.

Để thoát khỏi và vượt xa nỗi sợ hãi, uy quyền hay các hủ tục truyền thống, cá nhân phải đạt tới trạng thái thấu hiểu bản ngã của mình, nhận biết đam mê, năng lực, mọi hành vi của mình. Điều này được hiện thực hóa bằng phương pháp giảng dạy trong những ngôi trường Waldorf/Steiner, nơi các nhà giáo từ chối uy quyền đối với học trò ngay từ khi đứa trẻ còn chập chững bước đi. Giáo viên chỉ đóng vai trò người dẫn đường để mỗi học sinh học tập bằng sự vui thích, khám phá phong phú các môn học khác nhau, từ thủ công, hội họa, điêu khắc, kịch nghệ… đến ngôn ngữ, toán học, khoa học,… và từ đó tìm ra thế mạnh, niềm đam mê của chính mình. Nhân cách của người thầy, khoảng không mà thầy chủ động tạo ra để đứa trẻ được tự do bộc lộ, tự do lựa chọn, sự tôn trọng thực tâm mà thầy giáo dành cho mỗi cá nhân học sinh, là những phương thức thực hành hữu hiệu để mỗi ngày xây thêm một viên gạch vào việc hình thành những cá nhân không sợ hãi và hạnh phúc.

Không cạnh tranh, không tưởng thưởng, không trừng phạt

Điều đặc biệt là trong những ngôi trường này không có sách giáo khoa, cũng hoàn toàn vắng mặt sự cạnh tranh, thi đua, không tưởng thưởng không trừng phạt – những việc làm mà theo Krishnamurti sẽ làm gia tăng sự sợ hãi, hay sự ái ngã. Với tư tưởng giáo dục đi vào bên trong cá thể để tìm ra con người cá nhân, tìm kiếm sự mạnh mẽ nội tâm, xây dựng động lực từ bên trong mỗi học sinh, từ đam mê của cá nhân thay vì để đứa trẻ tìm kiếm và phụ thuộc vào động lực từ bên ngoài, nền giáo dục Steiner xây dựng những ngôi trường với những giáo viên hoàn toàn không phán xét, không so sánh, không thi đua từ bậc mầm non đến hết phổ thông. Sự vắng bóng uy quyền, tưởng thưởng hay trừng phạt dễ dẫn đến tình trạng vô kỷ luật, vậy tại sao học sinh trong trường Waldorf/Steiner luôn có kỷ luật rất cao? Câu trả lời là tình yêu thương tạo ra kỷ luật từ bên trong mỗi học sinh. Điều nhỏ nhưng không nhỏ, các ngôi trường Waldorf/Steiner luôn đầy ắp tình yêu thương, ấm áp từ cách thiết kế lớp học đến cách giao tiếp giữa thầy trò, và rộng ra là tới từng phụ huynh, từng thành viên làm việc trong trường.Bởi tất cả sự khác biệt này, như vốn dĩ một nền giáo dục đích thực hay một nền giáo dục theo chủ nghĩa lý tưởng đòi hỏi, những ngôi trường Waldorf/Steiner không thể là những ngôi trường với hàng nghìn học sinh, mà mỗi lớp học chỉ chừng hơn hai mươi học sinh và mỗi người thầy theo học trò ít nhất vài năm học (hết bậc mầm non, hết bậc tiểu học) để thấu hiểu, để tạo mối quan hệ bền vững, yêu thương và giúp từng cá nhân học sinh phát triển.Trong khi nền giáo dục phổ thông của Việt Nam, và thậm chí nhiều nước phát triển hay đang phát triển khác, gặp phải vấn đề học sinh lớp 12 tốt nghiệp không biết mình muốn gì, không biết chọn trường nào thì nền giáo dục Steiner có được những kết quả ngoạn mục: Học sinh tốt nghiệp phổ thông Steiner chọn ngành nghề không vì bất cứ lí do nào khác ngoài đam mê cá nhân. Danh sách các học sinh cũ của các trường Waldorf/Steiner bao gồm nhiều người với nhiều thành quả, cống hiến quan trọng trong những ngành nghề đòi hỏi tính sáng tạo cao như: thiết kế, kiến trúc, làm phim, nhạc sỹ, họa sỹ, kĩ sư nghiên cứu không gian vũ trụ

2… Một công trình nghiên cứu và so sánh tính sáng tạo (Torrance Test of Creative Thinking Ability) của học sinh Steiner và học sinh các trường công (mẫu dựa trên 1.165 học sinh các nước Anh, Scotland, Đức) đưa ra kết quả: chỉ số sáng tạo của học sinh Steiner cao hơn học sinh nền giáo dục công tại các nước được nghiên cứu 3.

Bắt đầu từ xóa bỏ ý thức phán xét, nuôi nấng trí tưởng tượng

Đứa trẻ được dung dưỡng cảm xúc trong từng môn học, để thích học và học bằng toàn bộ con người chứ không chỉ bằng tư duy logic, tư duy trừu tượng.

Giai đoạn tiểu học: Đứa trẻ được dung dưỡng cảm xúc trong từng môn học, để thích học và học bằng toàn bộ con người chứ không chỉ bằng tư duy logic, tư duy trừu tượng. Giai đoạn 7-12 tuổi, như các nghiên cứu của Jean Piaget về sự phát triển tư duy của trẻ đã chỉ ra: trẻ tiếp thu kiến thức và tư duy bằng hình ảnh, đây chưa phải là giai đoạn của tư duy trừu tượng. Các môn học trong trường tiểu học Waldorf/Steiner không tập trung vào tư duy trừu tượng, trẻ học qua trải nghiệm thực, tiếp xúc thực, ngay cả đến phép toán cộng trừ cũng được học bằng toàn bộ cơ thể, được gắn với cái đẹp. Tại sao lại đề cao tính đẹp trong mọi môn học? Steiner cho rằng cái đẹp gây xúc cảm nơi tâm trí, từ đó đánh thức tư duy, nuôi dưỡng ý chí.

Giai đoạn trung học: Trẻ học bằng tư duy logic, tư duy trừu tượng, các vấn đề khoa học được đào sâu bằng tư duy phản biện. Đặc biệt, học sinh không học khoa học mà làm khoa học, trong các phòng thí nghiệm, các nhà xưởng không kém gì tại các trường đại học lớn, theo đuổi các dự án khoa học kéo dài nhiều tháng. Các môn học nghệ thuật, đến thời điểm này, đã đạt đến trình độ chuyên nghiệp, các tác phẩm nghệ thuật của học sinh đã đạt trình độ như một họa sỹ, một nhà điêu khắc, một nhạc công trong dàn nhạc giao hưởng.

1 Krishnamurti, Giáo dục và ý nghĩa cuộc sống (NXB Thời Đại).2 http://thewaldorfs.waldorf.net/famousparents.html3 Báo cáo nghiên cứu “So sánh chỉ số sáng tạo học sinh Waldorf và học sinh trường công”, Ogletree & Earl J, 12/1996 (nghiên cứu tại Anh, Scotland, Đức).

Phương Pháp Giáo Dục Sớm Steiner Waldorf

Phương pháp giáo dục sớm Steiner, phương pháp giáo dục sớm Waldorf là gì?

Phương pháp Steiner hay còn gọi là Waldorf là một phương pháp còn khá mới và đang phát triển Việt Nam.

Phương pháp này được phát triển bởi Rudolf Steiner Joseph Lorenz là một nhà triết học, nhà tư tưởng xã hội, kiến trúc sư và thần bí học người Áo. Phương pháp Steiner cho rằng trong suốt những năm đầu đời trẻ sẽ học tập tốt nhất khi được ở trong môi trường mà trẻ học thông qua những hoạt động thực tiễn vô thức. Những hoạt động học tập trong những năm đầu đời từ đó tập trung vào trải nghiệm, cho phép trẻ học thông qua ví dụ, cơ hội chơi các trò chơi tưởng tượng. Mục tiêu chung của việc học là tạo ra những đứa trẻ với cảm giác rằng thế giới tốt đẹp.

NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA PHƯƠNG PHÁP STEINER

TRẺ CHƠI HOÀN TOÀN: Steiner cho rằng công việc chính của trẻ trong 7 năm đầu đời là thích nghi và phát triển cơ thể; tìm hiểu thế giới xung quanh và khai mở khả năng tiềm ẩn. Chính vì vậy, sức sống của trẻ trong giai đoạn này chỉ dùng cho những việc này, không phải dùng để bắt trẻ học sớm (dù bất cứ dưới hình thức nào). Não của trẻ trong giai đoạn này phát triển rất mạnh và cần được tích cực bảo vệ để được phát triển hoàn chỉnh; chỉ khi được phát triển hoàn chỉnh nó mới thực hiện chức năng của nó một cách tốt nhất. Mọi hoạt động học về mặt tri thức, dù dưới hình thức nào đều phải sử dụng đến não. Triết lí của Steiner chú trọng vào việc chơi, phát triển trí tưởng tượng của trẻ, hòa mình vào tự nhiên. Việc học chữ và các kiến thức khác có thể trì hoãn đến 7 tuổi, học sinh có thể đến lớp 3 mới biết đọc. Steiner cũng kêu gọi hoàn toàn không sử dụng thiết bị số như ti vi, điện thoại, ipad trong quá trình nuôi dạy trẻ trước 7 tuổi vì không có lợi cho quá trình phát triển tự nhiên của trẻ.

HOẠT ĐỘNG LẶP LẠI: Trường mầm non Waldorf bao gồm những hoạt động lặp lại hàng ngày bao gồm chơi tự do, nghệ thuật (như vẽ, làm mẫu…), vòng thời gian (hát, chơi, kể chuyện), vui chơi ngoài trời và hoạt động thực hành (như nấu nướng, dọn dẹp, làm vườn) với giai điệu đa dạng. Những hoạt động như thế có thời gian nhất định và lặp đi lặp lại hàng ngày để trẻ có thể dự đoán được chuyện gì sẽ xảy ra. Vui chơi ngoài trời là một hoạt động không thể thiếu trong lịch học hàng ngày, với mục đích là để cung cấp cho đứa trẻ những sự trải nghiệm của tự nhiên, thời tiết và mùa trong năm. Chương trình mẫu giáo và mầm non thường bao gồm các lễ hội theo mùa từ truyền thống với sự chú ý từ cộng đồng.

GIÁO VIÊN LÀ NGƯỜI HƯỚNG DẪN, LÀM GƯƠNG: Trong lớp học Steiner, trẻ sẽ học hỏi thông qua việc nhìn giáo viên làm. Steiner coi ngôi trường như nhà nên các giáo viên sẽ làm công việc như cha mẹ: đọc truyện, khâu vá, nấu nướng… và trẻ sẽ học cách làm cách việc đó qua việc quan sát và bắt chước giáo viên làm. Giáo viên chính là tấm gương hình ảnh mà giáo dục Steiner hướng đến cho học sinh nên giáo viên luôn phải bình tĩnh, nhẹ nhàng, xử lí thấu đáo mọi việc cả trong thực tế lẫn trong tâm trí, suy nghĩ.

ĐỒ CHƠI KHUYẾN KHÍCH SÁNG TẠO: Khác với Montessori với những học cụ được thiết kế sẵn cho trẻ với duy nhất một vài cách sử dụng, các đồ chơi của Stenier là rất đơn giản, từ tự nhiên, cho phép trẻ chơi các trò chơi tưởng tượng phong phú. Đồ chơi trong mầm non Steiner không có hình thù quá cụ thể với mục đích giúp phát huy trí tưởng tượng của trẻ. Một khúc gỗ có thể là bánh mì hay bàn ăn, có thể là xe hơi, đôi khi lại được biến thành chiếc thuyền. Chính sự đơn giản, gợi mở đầy linh hoạt của những món đồ chơi trong trường mầm non Steiner kích thích trí tưởng tượng của trẻ phát triển mạnh mẽ.

Đồ chơi trong trường mẫu giáo Steiner hoàn toàn được làm từ nguyên VẬT LIỆU TỰ NHIÊN, không có đồ chơi nhân tạo như nhựa vì chúng đẹp và đem đến sự trải nghiệm phong phú mà vật liệu nhựa không thể nào có được. Vật liệu tự nhiên nuôi dưỡng các giác quan và sức sống đang phát triển của trẻ. Tất cả những thứ bằng NHỰA, NILON hay POLYESTER hay bất cứ chất tổng hợp nào đều thuộc về thế giới khoáng vật, nó có hình thù vật chất nhưng không có sức sống, hơi ấm đối với trẻ.

CHÂN THẬT VÀ NHẸ NHÀNG: Theo Steiner, trẻ sẽ trải qua trạng thái mơ màng trong khoảng 7 năm đầu, nhưng mạnh nhất là khoảng trước 3 tuổi. Trạng thái mơ màng là trạng thái trẻ chưa có ý thức về bản thân, về cái tôi, về suy nghĩ của riêng mình, cũng như chưa có ý thức rõ rệt về thế giới xung quanh; lúc này trẻ thấy mình với mọi người và thế giới xung quanh là một. Vì những lý do trên, Steiner kêu gọi hãy bảo vệ trạng thái mơ màng này càng lâu càng tốt cho đến khi nào nó mất đi một cách tự nhiên. Vì vậy, môi trường Steiner là một môi trường êm dịu, từ màu sắc, âm thanh, đến cách người lớn di chuyển, làm việc, nói năng, đối xử với trẻ và đối xử với nhau, tất cả phải nhẹ nhàng và chân thật. Trường được trang trí bởi những màu sắc mơ màng và tự nhiên, hình vẽ, âm nhạc… tất cả đều êm dịu và chân thật. Không tivi, không máy vi tính, không có những bài hát thu sẵn được phát ra, âm thanh trong trường là tiếng cười rộn ràng và hào hứng của trẻ, tiếng nói dịu dàng của cô, tiếng cô hát và giọng non nớt hát theo của trẻ, và những âm thanh chân thật khác của cuộc sống…tất cả tạo nên một môi trường êm đềm, thân quen và yên ổn đối với trẻ.

Nên Dạy Trẻ Theo Phương Pháp Giáo Dục Montessori Hay Steiner ?

Nên dạy trẻ theo phương pháp giáo dục montessori hay steiner ? Phương pháp giáo dục Montessori và Steiner đều được đánh giá cao trong việc bồi dưỡng nên thế hệ trẻ tài giỏi, nhiều kỹ năng. Hai phương pháp này có cách giáo dục khác nhau.

Nhiều trường Mầm non quốc tế tại Quận 1 đã áp dụng hai phương pháp giáo dục này vào giảng dạy. Cha mẹ băn khoăn không biết nên chọn trường Mầm non áp dục phương pháp giáo dục nào phù hợp với bé.

Mục tiêu giáo dục của Montessori và Steiner đều đặt trẻ ở vị trí trung tâm, với các phương pháp dạy nhằm phát huy tối đa tiềm năng của con trẻ. Tuy vậy, hai phương pháp này cũng có nhiều điểm khác biệt

Phương pháp giáo dục Montessori nhấn mạnh vào tính thực tế. Trẻ cần phân biệt được thế giới thực và ảo. Dụng cụ học tập, phương pháp dạy đều phục vụ cho nhu cầu phát triển của trẻ.

Còn phương pháp giáo dục Steiner tìm cách cân bằng việc học tập với sự phát triển của trẻ cả về thể chất, tình cảm, trí tuệ phù hợp với lứa tuổi nhằm thúc đẩy sự phát triển của trẻ.

Quan điểm khác nhau về dụng cụ học tập và đồ chơi

Phương pháp Montessori, ở giai đoạn mầm non, khả năng phân biệt thế giới thực và thế giới ảo của trẻ còn chưa tốt. Trường học là nơi giúp các em có kiến thức thực tế về thế giới xung quanh. Còn trí tưởng tượng sẽ sử dụng khi các em đã có tư duy logic về thế giới khách quan. Môi trường, dụng cụ học tập, đồ chơi,… gắn với từng chức năng cụ thể. Với mỗi dụng cụ học tập, các em nắm một cách chơi cụ thể, thông qua đó học hỏi kiến thức khoa học thực dụng hay kỹ năng nào đó.

Lớp Mầm non của Steiner thì quan niệm ngược lại. Trí tưởng tượng là vốn quý nhất của trẻ. Không có món đồ chơi nào được định hình một cách chơi cụ thể. Đồ chơi được thiết kế từ gỗ, vải, tối giản nhất chi tiết và màu sắc. Các em có thể sử dụng ghế xếp lại thành toa tàu hoặc chiếc xe buýt,…

Steiner quan niệm đồ chơi là phương tiện tập kuyện cho trí tưởng tượng. Các em sẽ luôn tìm tòi và sáng tạo ra những mục đích sử dụng khác nhau của một món đồ chơi.

Quan niệm về thế giới thực và ảo

Lớp học theo quan điểm Steiner mang màu sắc cổ tích. Còn lớp học Montessori mang bầu không khí khoa học, hiện đại.

Montessori nhấn mạnh việc chơi của trẻ có tác dụng tích lũy kiến thức khoa học thực dụng và các kỹ năng vận động. Các trò chơi thuộc về trí tưởng tượng như giả tưởng, đóng kịch, đóng vai,… không được đề cao.

Montessori cho rằng trẻ em mầm non nên làm các công việc như người lớn. Trong lớp học, các vật dụng như bàn ghế, tủ, bếp,… được thiết kế thu nhỏ nhưng đầy đủ tính năng. Các em được thoải mái sử dụng và phát triển tối đa các công dụng của chúng. Điều này khẳng định cam kết mà Montessori đặt ra là tất cả vì

nhu cầu của trẻ nhỏ.

Ngược lại, lớp học mầm non tại Steiner lại là thế giới của trí tưởng tượng bay bổng. Các em cùng nhau vui đùa, hòa vào thế giới không có thực. Các món đồ chơi hoặc vật dụng bất kỳ được tận dụng làm sân khấu, biến thành các vở diễn sinh động với nhiều nhân vật tưởng tượng khác nhau.

Quan điểm về đồ chơi của Steiner và Montessori tương đồng với nhau, vì trẻ độ tuổi này học hỏi qua việc bắt chước người lớn. Các học cụ bao gồm đầy đủ vật dụng gia đình để trẻ bắt chước cha mẹ nấu ăn, rửa rát, may vá,…. Các cô giáo tại lớp học Steiner thậm chí còn làm những việc này ở lớp. Các em trực tiếp quan sát và tự tay mình thực hiện theo cô.

Chương trình học của trường mầm non Montessori ở Gò Vấp

Trường mầm non Montessori ở Gò Vấp thiết kế các bộ học chữ, số thông qua xúc giác. Các loại đồ chơi giúp trẻ phát triển tư duy logic như: bộ hộp chữ cái, kim tự tháp sắp xếp bằng hạt, bộ lắp ghép bản đồ,… được đưa vào chương trình giảng dạy. Các em tự mình khám phá ra các quy luật, kiến thức toán học, các chữ, số và kiến thức khoa học. Điều này giúp các bé có lợi thế hơn khi bước vào chương trình tiểu học bởi vì ngay trong giai đoạn mầm non, các em đã được phát huy tối đa tư duy logic và tích lũy kiến thức khoa học.

Hoàn toàn ngược lại với Montessori, lớp học mầm non Steiner không có chữ, số, cũng không có khoa học. Giáo trình giảng dạy của Steiner dựa vào cách lý giải thế giới dưới con mắt của trẻ thơ. Cô và trò cùng nhau sáng tác, ứng biến tạo nên những câu chuyện tưởng tượng. Thậm chí các cô sẽ kể lặp đi lặp lại các câu chuyện vào giờ kể chuyện để trẻ sống cùng câu chuyện, sống trong tình yêu thương,…. Không khí lớp học của Steiner là một bầu không khí cổ tích, đẹp thơ mộng, bay bổng và hài hòa với thiên nhiên.

Quan niệm về xây dựng kỹ năng xã hội

Cả Montessori và Steiner đều nhấn mạnh sự cần thiết của trật tự đối với trẻ nhỏ. Tuy nhiên, cách thực hành để đạt tới tính trật tự này thì hoàn toàn khác nhau.

Học sinh theo học phương pháp giáo dục Montessori ở trường mầm non Gò Vấp thích nghi với xã hội như những cá thể độc lập cùng tồn tại trong một tập thể. Các em được học cách chờ đợi, không làm phiền người khác, tôn trọng người khác. Các em được rèn luyện kỹ năng cá nhân mạnh mẽ, hạ cái tôi cá nhân xuống để tôn trọng các quy tắc ứng xử trong cộng đồng.

Trong khi đó, học sinh Steiner thì lại hòa mình vào môi trường có tính gắn kết cộng đồng cao. Các em cùng nhau tham gia, cùng giáo viên hoạt động trong một tập thể thống nhất. Việc này được áp dụng trong rất nhiều các hoạt động khác nhau trong suốt một ngày của bé ở trường. Trẻ phát triển cái tôi cá thể trong cộng đồng chung, đó là cách các em học để giao tiếp với xã hội.

Tuy khác nhau rất nhiều trong triết lý giáo dục, nhưng Monstessori và Steiner đều có cùng lập trường là ở độ tuổi từ 0 – 7, trẻ học hỏi thông qua sự bắt chước. Không chỉ học theo về hành động mà trẻ còn thẩm thấu cả cảm xúc, suy nghĩ của người lớn xung quanh.

Không thể khẳng định trong 2 phương pháp, phương pháp nào ưu việt hơn. Cả hai phương pháp đều khẳng định được giá trị giáo dục của mình. Montessori đào tạo ra trẻ có trí thông minh logic và Steiner đào tạo ra trẻ của mình có trí tưởng tượng cao. Nhờ đó, thế hệ trẻ hiện nay được đào tạo có tư duy tốt, khả

năng thích nghi xã hội cao. Tùy theo tính cách của con em, các bậc phụ huynh hãy chọn trường mầm non quốc tế với phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với khả năng và tư duy của trẻ.

Bạn đang xem bài viết Phương Pháp Giáo Dục Steiner Ngày Càng Lan Tỏa trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!