Cập nhật thông tin chi tiết về Phương Pháp Luận Phát Triển Hệ Thống Thông Tin mới nhất trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Phương Pháp Luận Phát Triển HTTT Faculty of MIS GV: LÊ THỊ QUỲNH NGA Nội Dung Tại sao cần phát triển HTTT Nội dung cơ bản của phát triển HTTT Tiến hóa cách tiếp cận phát triển HTTT Vòng đời phát triển HTTT Các phương pháp khác phát triển HTTT Xây dựng thành công HTTT Sơ đồ tổng quát quá trình phân tích thiết kế HTTT Tại sao cần phát triển HTTT Có ~ vấn đề cản trở/hạn chế Tạo ưu thế mới, năng lực mới Do yêu cầu của đối tác Xây dựng HTTT ko chỉ là giải pháp kỹ thuật mà là 1 bộ phận quan trọng trong chiến lược tổng thể phát triển tổ chức cần lộ trình chuyển dịch tổ chức về TC & QL Nội dung cơ bản của phát triển HTTT Phương pháp luận phát triển HT: các hoạt động phát triển & trình tự thực hiện Phương pháp, công nghệ & công cụ sử dụng tổ chức & QL quá trình phát triển HTTT Tiến hóa cách tiếp cận phát triển HTTT Tiếp cận hướng tiến trình Tiếp cận hướng dữ liệu Tiếp cận hướng cấu trúc Tiếp cận hướng đối tượng Vòng đời phát triển HTTT Systems Development Life Cycle (SDLC) Quá trình phát triển HTTT kể từ khi sinh ra đến khi tàn lụi Là phương pháp luận cho phát triển, duy trì & thay thế HTTT Các pha SDLC: Khởi tạo & lập kế hoạch (Planning) Phân tích (Analysis) Thiết kế (Design) Triển khai (Implementation) Vận hành & bảo trì (Maintenance) Quan điểm về SDLC Khởi tạo & lập kế hoạch (Planning) Xác định, phân tích, định độ ưu tiên & sắp xếp nhu cầu về HTTT Phân tích (Analysis) Điều Nghiên & mô hình hóa yêu cầu HT Thiết kế (Design) Chuyển đổi giải pháp đề nghị thành các đặc tả HT Thiết kế Logic: Các đặc trưng được mô tả độc lập với công nghệ máy tính Thiết kế vật lý: Các đặc tả logic được chuyển thành các chi tiết cụ thể gắn với công nghệ Triển khai (Implementation) Viết chương trình, thử nghiệm, cài đặt & hỗ trợ HTTT Vận hành & bảo trì (Maintenance) Sửa đổi & cải tiến HTTT 1 cách có HT Chu kỳ sống phát triển HT truyền thống Waterfall 1 pha bắt đầu khi pha khác hoàn tất, lặp & quay về ít Vấn đề với cách tiếp cận Waterfall Yêu cầu HT bị khoá chặt sau khi đã xác định (ko thể thay đổi) Sự tham gia của Người dùng bị giới hạn (chỉ trong giai đoạn xác định yêu cầu) Tập trung quá nhiều vào các điểm đến hạn của các pha SDLC Các phương pháp khác phát triển HTTT Phương pháp làm bản mẫu (Prototyping) Phương pháp thiết kế ứng dụng liên kết (Joint Application Design (JAD)) Phương pháp phát triển ứng dụng nhanh (Rapid Application Development (RAD)) Phương pháp làm bản mẩu (Prototyping) Tiến trình phát triển lặp: Các yêu cầu nhanh chóng chuyển thành HT làm việc HT được sửa đổi liên tục Hợp tác gần gũi giữa người dùng & người phân tích Phương pháp thiết kế ứng dụng liên kết (Joint Application Design (JAD)) Tiến trình có cấu trúc bao gồm sự tham gia của người dùng, nhà phân tích, & nhà quản lý Các phiên làm việc theo nhóm tập trung trong vài ngày Mục đích: để xác định hay xem xét yêu cầu HT Phương pháp phát triển ứng dụng nhanh (Rapid Application Development (RAD)) Giảm thời gian thiết kế & triển khai Bao gồm: prototyping, JAD, CASE tools, & Bộ tạo chương trình (code generators) Xây dựng thành công HTTT Có hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng hoạt động QL tổng thể Đạt mục tiêu thiết kế Chi phí vận hành chấp nhận được Tin cậy, đáp ứng các chuẩn mực dễ học, dễ nhớ & dễ dùng Mềm dẻo, dễ bảo trì Sơ đồ tổng quát quá trình phân tích thiết kế HTTT Khảo sát hiện trạng HT Xác định mô hình nghiệp vụ: mô tả TT TC Phân tích HT & đặc tả yêu cầu: mô hình DFD, mô hình ERD Thiết kế HT: logic & vật lý Sơ đồ tổng quát quá trình phân tích thiết kế HTTT Khảo sát hiện trạng HT: Hồ sơ, tài liệu khảo sát, tổng hợp Xác định yêu cầu (mô hình nghiệp vụ): mô tả TT TC Sơ đồ ngữ cảnh, sơ đồ phân rã chức năng DS các thực thể DL các ma trận phân tích mô tả chi tiết các chức năng nghiệp vụ, sơ đồ ngữ cảnh miền nghiên cứu, sơ đồ phân rã chức năng rút gọn, chi tiêt DS thực thể DL rút gọn, tự điển DL Sơ đồ tổng quát quá trình phân tích thiết kế HTTT Phân tích HT & đặc tả yêu cầu (mô hình khái niệm): mô tả chi tiết tiến trình, mô hình DFD vật lý, mô hình ERD, tự điển dữ liệu Thiết kế logic (mô hình logic) Đặc tả logic mỗi tiến trình, DFD logic ở các mức, thiết kế biểu mẫu, báo cáo Mô hình dữ liệu quan hệ, tự điển dữ liệu Thiết kế vật lý (mô hình vật lý) Đặc tả module chương trình, đặc tả cấu trúc hệ thống, Đặc tả tương tác, giao diện Đặc tả CSDL vật lý, thiết kế an toàn & bảo mật hệ thống
Phương Pháp Phát Triển Phần Mềm: Truyền Thống Và Agile
Published on
Phương pháp phát triển phần mềm: Truyền thống và Agile. Cảm ơn anh Ngô Trung Việt chọn lọc, biên dịch và giới thiệu tới cộng đồng.
1. Phương pháp phát triển phần mềm : truyền thống và Agile Anthony Lattanze Câu hỏi đầu tiên trong tâm trí nhiều người có thể là: Khuôn khổ qui trình phát triển phần mềm là gì? Tất nhiên, câu trả lời cho điều này là “Điều này là tuỳ.” Qui trình phát triển là nghi thức chung mà các tổ chức tuân theo để phát triển sản phẩm. Trong khi điều này là áp dụng được nói chung cho bất kì miền chế tạo nào, chúng ta có thể an toàn mà nói rằng qui trình phát triển là nghi thức hay thủ tục chung mà các tổ chức tuân theo để phát triển hệ thống dùng nhiều phần mềm và sản phẩm. Trong phần lớn các năm 1980 cho tới nay, sự hội tụ của các cộng đồng cải tiến qui trình đã từng dồn vào qui trình phát triển phần mềm, cho dù sản phẩm và hệ thống tiến hoá nhiều hơn chỉ phần mềm. Mô hình thác đổ từ Khái MLISTD 2167 Phân niệm hệ tích yêu Phân thống cầu hệ tích yêu Thiết kế thống sơ bộ Thiết kế cầu phần chi tiết Viết mã mềm và kiểm thử đơn Kiểm thử triển vị khai Lẫn lộn chung khác là thuật ngữ vòng đời phần mềm, điều thường được dùng một cách đồng nghĩa để chỉ qui trình phát triển phần mềm. Vòng đời phần mềm có xu hướng rất trừu tượng, mô tả các giai đoạn chung của các dự án phát triển phần mềm. Vòng đời phần mềm còn nhiều hơn phát triển hệ thống hay sản phẩm; nó nói tới con đường từ cái nôi tới nấm mồ mà các yêu cầu được thu thập và phân tích, và phần mềm được phát triển, kiểm thử, triển khải, bảo trì, và cuối cùng cho nghỉ việc. Mô hình vòng đời tương tự, có tên là V-mô hình (Forsberg et al., 1996), tồn tại trong cộng đồng kĩ nghệ hệ thống. Tổ chức tạm thời chung của những pha tổng quát này thường định nghĩa loại vòng đời phần mềm mà một tổ chức dùng. Được tổ chức theo cách này, vòng đời có thể là thác đổ, và theo cách khác nó có thể là lặp hay xoáy ốc. Những vòng đời đa dạng này được mô tả trong Hình 1. Mỗi một trong những vòng đời này phục vụ cho các hoàn cảnh phát triển hệ thống và doanh nghiệp khác nhau. Qui trình thác đổ có thể được dùng trong những tình huống mà các yêu cầu sản phẩm hay hệ thống và các công nghệ được hiểu rõ. Các vòng đời lặp hay xoáy ốc thường được dùng trong hoàn cảnh doanh nghiệp nơi các yêu cầu là biến động, công nghệ không được hiểu rõ, hay cả hai. Theo lí thuyết, việc lặp giúp nhận diện và kiểm soát rủi ro do các yêu cầu biến động hay công nghệ thách thức sớm hơn là cách tiếp cận thác đổ giúp. Các vòng đời phát triển phần mềm lặp dường như là được ưa chuộng nhất ngày nay. 1
2. Xác định mục tiêu, phương án và ràng buộc, Đánh giá phương án nhận diện và giảm Phân tích nhẹ rủi ro rủi ro Phân tích rủi ro Phân tích rủi ro Bản mẫu 1 2 3 Lập kế hoạch yêu cầu Thiết kế Viết mã Lập kế hoạch phát triển Kiểm thử Phát triển và trắc nghiệm lần lặp sản phẩm tiếp Lập kế hoạch V- mô hình kĩ nghệ hệ thống cổ điển Yêu cầu hệ thống Kiểm thử hệ thống Yêu cầu phần mềm Kiểm thử chấp nhận Thiết kế sơ bộ Kiểm thử tích hợp Thiết kế chi tiết Phân tích và thiết kế Kiểm thử cấu phần Kiểm thử đơn vị Xây dựng Hình 1 Mô hình vòng đời tổng quát. 2 Kiểm thử và tích hợp Mô hình xoáy ốc của Boehm
3. Tuy nhiên, trong thực hành, nếu người ta xem xét kĩ càng điều tổ chức thực sự làm khi nó xây dựng hệ thống dùng nhiều phần mềm, một tổ hợp của vòng đời lặp và thác đổ thường được dùng. Một khi thiết kế kiến trúc ổn định, thời kì không chắc chắn qua đi, và cách tiếp cận hướng thác đổ trực tiếp hơn có thể được lấy, hay những lần lặp khác nhau có thể được dùng để xây dựng và triển khai các phiên bản đa dạng của sản phẩm hay hệ thống. Các khuôn khổ qui trình phần mềm cung cấp nhiều chi tiết hơn các mô hình vòng đời tổng quát cung cấp, nhưng dầu vậy vẫn cần được làm thể nghiệm hay điều chỉnh cho các dự án và các tổ chức đặc biệt. Các khuôn khổ qui trình phần mềm tổ hợp các mô hình vòng đời phần mềm tổng quát, nhưng qui định các vai trò, trách nhiệm, vật phẩm, thủ tục, phương pháp, vân vân mà phải được tạo ra khi tuân theo khuôn khổ qui trình này. Các tổ chức thường bắt đầu với một khuôn khổ qui trình phần mềm và điều chỉnh nó theo qui trình phát triển phần mềm đặc biệt của họ. Các qui trình phần mềm của tổ chức được làm thể nghiệm là các khuôn khổ qui trình đặc biệt hơn nhiều và mô tả đặc biệt điều được làm, điều được sản xuất ra, và bởi ai. Các qui trình phần mềm của tổ chức có thể xác định các vai trò đặc biệt, trách nhiệm, vật phẩm, thủ tục, dạng thức tài liệu, khuôn mẫu, chuẩn, vân vân. Xem xét kĩ lưỡng hơn về qui trình phát triển của tổ chức, chúng ta thấy rằng không có một sự liên tục của các hoạt động mà khêu gợi yêu cầu, phân tích các yêu cầu, và làm tài liệu các yêu cầu, thiết kế, vân vân mãi cho tới khi hệ thống hay sản phẩm chạy ra. Xây dựng hệ thống phức tạp dùng nhiều phần mềm không giống như chế tạo theo dây chuyền lắp ráp, điều ít nhiều là sự liên tục của các chất liệu thô đi vào từ đầu này của nhà máy chế tạo và sản phẩm chạy ra từ đầu kia. Các qui trình được tổ chức dùng để phát triển hệ thống dùng nhiều phần mềm giống nhiều với tập các qui trình tách rời nhưng có tương hỗ mà được dùng cùng nhau để phát triển sản phẩm hay hệ thống. Qui trình nặng cân so với nhẹ cân Các cộng đồng cải tiến qui trình truyền thống có nguồn gốc ở trong các mô hình vòng đời thác đổ, cải tiến chất lượng toàn bộ, mô hình hoá trưởng thành năng lực, ISO 9000, Six Sigma, và những vấn đề khác. Nhiều trong các phong trào này bắt đầu từ đầu những năm 1980 khi nhu cầu về phần mềm liên tục mất kiểm soát, và thất bại dự án tăng lên là qui tắc. Điều đó là hiển nhiên bởi việc đưa người thông minh vào một phòng để chọc ngoáy mã trong 12 giờ một ngày sẽ không tất yếu đưa tới hệ thống với chức năng và thuộc tính đặc tính chất lượng mong muốn. Truyền thống dùng các khuôn khổ qui trình để hướng dẫn công việc của người thiết kế và người phát triển, và để cải tiến thực hành, vẫn diễn ra ngày nay. Tính mau lẹ ngày nay là mục nóng trong qui trình phát triển phần mềm. Nếu từ mau lẹ (agile) không xuất hiện trong tiêu đều hay tiêu đề con của một khuôn khổ qui trình, dường như là nó bị khinh rẻ bởi thế hệ mới các kĩ sư xem như “trường phái cổ” và “quá nặng cân.” Tương tự, những người thuần khiết từ các cộng đồng qui trình truyền thống dường như hơi chút nghi ngờ về phong trào qui trình nhẹ cân. Trong thực hành, các cực đoan thường không bao giờ là câu trả lời tốt nhất, và đây chắc chắn là trường hợp trong các tranh cãi qui trình nặng cân và nhẹ cân vẫn nổi lên dữ dội ngày nay. Các cộng đồng cải tiến qui trình truyền thống có xu hướng lấy tài liệu làm trọng tâm và tuỳ thuộc vào các qui trình tổ chức được cấu trúc cao, được xác định nghiêm ngặt, và được tuân theo trung thành để xây dựng hệ thống dùng nhiều phần mềm. Khẳng định là ở chỗ các hệ thống được xây dựng theo cách này có chiều chi phí, lịch biểu và chất lượng sản phẩm dự đoán được nhiều hơn – và có nhiều dữ liệu để hỗ trợ cho khẳng định này. 3
4. Mặc dầu những kiểu các khuôn khổ qui trình truyền thống này đã đóng góp lớn cho cải tiến cách các hệ thống được xây dựng, chúng thường nặng nề nhiều hơn cần thiết trong nhiều tình huống và hoàn cảnh doanh nghiệp. Nhiều trong những khuôn khổ này về nguồn gốc được tạo ra với các dự án lớn của bộ quốc phòng Mĩ trong tâm trí và thường quá tốn kém và rắc rối để cho các tổ chức nhỏ có thể theo được trong xây dựng hệ thống và sản phẩm dùng nhiều phần mềm. Một biện luận khác, mới gần đây là ở chỗ các qui trình nghiêm ngặt có xu hướng làm xơ cứng tính sáng tạo của tổ chức, và có bằng chứng từ các trường hợp nghiên cứu của các tổ chức đa dạng để gợi ý rằng có tính đúng đắn nào đó cho luận cứ này. Một ví dụ tuyệt vời là trường hợp nghiên cứu (Hindo, 2007) mô tả cho thành công nổi bật của công ti 3M trong khả năng của nó để lợi dụng phát kiến công nghệ. Tổ hợp của phát minh doanh nghiệp và cấu trúc công ti lớn thường là sự trộn lẫn bất thường. Các công ti lớn điển hình thấy khó phát kiến, và các công ti nhỏ thường thấy khó đạt tới sản xuất qui mô lớn, dự đoán được, có chi phí-hiệu quả. Tuy nhiên, 3M là công ti đã 100 năm đã tận hưởng danh tiếng là một trong những công ti phát kiến nhất trên thế giới trên hành tinh này, với nhiều thu nhập của nó dựa trên các công nghệ phát kiến mới được phát triển bên trong 3M. Thành công này đã được qui cho môi trường khuyến khích nhận rủi ro và sự dung thứ nào đó cho thất bại như chất xúc tác cho khám phá. Bên trong tổ chức nghiên cứu và phát triển của 3M, các qui trình cực nhẹ cân cho phép các kĩ sư được tự do khám phá các ý tưởng mà không bị nặng gánh hay bị gây sức ép của việc đáp ứng cách đo thống kê và các mục đích hay hạn chót thời gian đưa ra thị trường. Một kĩ sư nghiên cứu của 3M khẳng định rằng 5,000 ý tưởng phải được khảo sát để tìm ra một ý tưởng sẽ sinh lời. Mặc cho bản ghi theo dõi về phát kiến, thay đổi trong cấp quản lí điều hành nảy sinh trong những thay đổi nền tảng cho nghiêng về nhẹ cân và các qui trình phát triển ở 3M. Ông CEO mới, người chủ trương mạnh mẽ về quản lí chất lượng toàn bộ (TQM) và Six Sigma – các khuôn khổ qui trình được dựa vào, đã quyết định thể chế hoá kiểm soát qui trình nghiêm ngặt để đo, quản lí, và cải tiến qui trình phát kiến của 3M. Qui trình kiểm điểm pha nghiêm ngặt được thể chế hoá để thúc đẩy nghiên cứu có hứa hẹn. Dưới qui trình này, nếu một dự án nghiên cứu không cho thấy dẫn đến sản phẩm sinh lời sau khi kiểm điểm, dự án này bị cắt bỏ. Mục đích của loại kiểm soát qui trình này là để tăng tốc, hệ thống hoá, và dịch chuyển phát kiến thành sản phẩm sinh lời được cho thị trường. Mục đích của cấp quản lí là làm phát kiến thành dự đoán được nhiều hơn và có chi phí-hiệu quả. Tuy nhiên, phát kiến và khám phá cần qui trình hỗn độn và không dự đoán được nơi cách đo thống kê thô không cho biết được toàn thể câu chuyện về phát kiến thành công. Chẳng hạn, Post-It Notes đã được phát minh tại 3M là ví dụ cổ điển về chất dính bị thất bại đã tìm thấy thành công trong ứng dụng hoàn toàn không được lập kế hoạch trong Post-It Notes. Post-It Notes đã được dùng một thời gian dài trong các phòng thí nghiệm của 3M trước khi ai đó trong tổ chức này đã hứng khởi đưa nó ra thị trường như một sản phẩm cho người tiêu thụ. Dựa trên mục đích nghiên cứu gốc, điều đã dự định để phát triển chất dính mới, con số thống kê đã chỉ ra chương trình nghiên cứu này là thất bại. Tuy nhiên, thực tại là ở chỗ Post-It Notes khéo léo đã làm nảy sinh thu nhập hàng tỉ đô la cho công ti 3M. Theo các kĩ sư ở 3M, dưới chế độ mới về nghiên cứu có kiểm soát, được giám sát chặt chẽ, chất dính cho Post-It Notes chắc đã bị cắt bỏ từ lâu trước khi Post-It Notes được phát minh và tiềm năng thương mại của nó được khảo sát. Dưới các qui trình mới, dự án nghiên cứu bị cắt bỏ, cái không cho kết quả trong khung thời gian nhất quán với các con số thống kê và bên trong khuôn khổ qui trình được xác định nghiêm ngặt. Mặc dầu thu nhập từ chế tạo sản phẩm hiện có tăng trưởng dưới kiểm soát qui trình nghiêm ngặt, thu nhập từ phát kiến mới tụt thẳng xuống. Việc áp dụng kiểm soát qui trình nghiêm ngặt cho các chức năng nghiên cứu và phát triển làm xơ cứng hiệu quả tính sáng tạo. Thất bại không được dung thứ, vì nó là xấu theo thống kế, và các chi phí khảo sát không 4
5. bị trói buộc mà các con số thống kê đã chỉ ra sẽ không dẫn tới sản phẩm sinh lời đã bị khử bỏ. Về truyền thống, 3M đã là nơi các nhà nghiên cứu được cho phạm vi rộng để theo đuổi nghiên cứu tới chỗ nó đưa tới. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu giỏi nhất đã bỏ 3M để tìm đồng cỏ xanh tươi hơn nơi họ có thể theo đuổi chương trình nghiên cứu của họ trong môi trường không bị trói buộc. Hiệu quả của những thay đổi này là đáng ngạc nhiên. Năm 2004, 3M được xếp hạng thứ nhất trên danh sách các công ti phát kiến nhất của Boston Consulting Group. Nó đã tụt xuống thứ hai trong năm 2005, thứ ba trong năm 2006, và xuống thứ bẩy trong năm 2007. Trước khi chấp nhận kiểm soát qui trình nghiêm ngặt, một phần ba các sản phẩm của 3M đã dựa trên phát kiến mới. Sau khi chấp nhận kiểm soát qui trình nghiêm ngặt, con số này tụt xuống một phần tư. Theo trường hợp nghiên cứu này, kiểm soát qui trình nghiêm ngặt dường như phục vụ cho việc chế tạo các sản phẩm đã thiết lập tốt, nhưng tác động nghiêm trọng tới các tổ chức nghiên cứu và phát kiến bên trong 3M. Với một công ti như 3M, không phát kiến trong phân đoạn thị trường của nó có thể là án tử hình chậm. Xu hướng tiêu cực này tại 3M gần đây đã được CEO mới đề cập tới, người đã loại bỏ nhiều sự cứng nhắc trong các tổ chức nghiên cứu và phát triển bên trong 3M và đã thiết lập lại nhiều thực hành trước đây. Điều này đề cập tới câu hỏi: Tại sao các tổ chức cứ nhấn mạnh vào những cực đoan: nhẹ cân hay nặng cân, kiểm soát cao hay kiểm soát mặc kệ cho làm? Dường như là không có chỗ cho cả hai hay mảnh đất ở giữa. Trường hợp nghiên cứu này (và những trường hợp tương tự) sẽ dường như chỉ ra rằng kiểm soát cao, các qui trình nặng cân có thể có chỗ trong sản xuất thường lệ và môi trường chế tạo, nhưng không có chỗ trong môi trường động, hướng phát kiến. Sao không áp dụng cả hai? Sự nổi dậy nhỏ chống lại các khuôn khổ qui trình hướng thác đổ nguyên khối đã bắt đầu từ giữa những năm 1980, đặc biệt trong các tổ chức năng động nhỏ hơn. Nhưng cho dù các tổ chức này nhận ra rằng họ quá cần các qui trình có kỉ luật hơn nào đó, và vấn đề chọc ngoáy hệ thống không thể thức có thể là đơn thuốc cho thảm hoạ. Điều này dẫn tới việc thám hiểm các khuôn khổ qui trình thay thế mà có thể cung cấp đủ qui trình cho các tổ chức năng động, nhỏ hơn trong xây dựng hệ thống dùng nhiều phần mềm. Một xem xét quan trọng khác của nhiều người nghiên cứu là tạo ra khuôn khổ qui trình đảm đương được mà có thể dễ dàng được chấp nhận và rẻ. Phải tốn kém nhiều tiền, nỗ lực, thời gian, và tài nguyên để phát triển, thể chế hoá, dịch chuyển, đo và bảo trì các khuôn khổ qui trình kiểm soát cao, nặng cân. Những chi phí này đã là, và vẫn là vấn đề chính cho các tổ chức công nghệ cao nhỏ hơn. Một khuôn khổ qui trình đã nổi lên vào giữa những năm 1980 làm thay đổi cách các kĩ sư nghĩ về các khuôn khổ qui trình phát triển. Phát triển ứng dụng nhanh (RAD) bùng nở trên khung cảnh công nghệ vào những năm 1980 và là ông tổ của khuôn khổ qui trình agile (uyển chuyển) điều sinh sôi nảy nở ngày nay (Martin, 1991). Mặc dầu chỉ có một đám nhỏ những tín đồ và phần lớn không được các cộng đồng thời đó về qui trình trên máy tính lớn tin tưởng, RAD đã gieo hạt mầm mà vẫn đem lại kết quả ngày nay. Tại lõi của nó, RAD đã dùng mô hình vòng đời xoáy ốc mà đã được Boehm lí thuyết hoá trong bài báo bước ngoặt của ông ấy (Boehm, 1986). Tuy nhiên, RAD đã vận hành hoá khái niệm này trong một khuôn khổ cụ thể hơn mà các tổ chức có thể làm thể nghiệm và duy trì một cách nhanh chóng, dễ dàng và rẻ. Trong suốt cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, các mô hình như Mô hình trưởng thành năng lực (Paulk et al., 1995) đã chi phối, nhưng các khuôn khổ qui trình nhẹ cân dần dần và vững chắc thu được mảnh đất và nhiều uy tín hơn. Dịch chuyển này từ các khuôn khổ qui trình nặng cân sang nhẹ cân có thể được qui cho sự kiện là những nhà sản xuất và tiêu thụ phần mềm lớn nhất trên toàn thế giới trong những năm 1980 là chính phủ Mĩ, và nói riêng là Bộ quốc phòng Mĩ. Hệ thống dùng nhiều phần mềm thường phức tạp, siêu qui mô và được xây dựng bởi lực lượng lao động phân bố cao. Điều này cần việc dùng các qui trình rất 5
11. Thay vì tạo ra lịch biểu đầy đủ trước thời gian, tôi thích dùng cách tiếp cận lặp bằng viết thiết lập lịch biểu một tuần vào mỗi lúc, nơi các thành viên tổ đều tham gia để cho tôi biết họ có thể hoàn thành được cái gì vào tuần đó. Một khi họ đã đạt tới một cột mốc, đó là lúc ước lượng và lập kế hoạch sang cột mốc tiếp. Việc cả tổ tham gia vào ước lượng lịch biểu là tốt hơn nhiều so với ước lượng riêng của các cá nhân. Tôi đòi hỏi từng thành viên tổ phải đưa ra ước lượng riêng của họ và dùng cách tiếp cận “Delphi băng rộng” hay cách tiếp cận trung bình để đi tới lịch biểu toàn thể. Khi bạn cho phép mọi người tạo ra ước lượng riêng của họ, họ có xu hướng theo dõi mình, đi theo mình, và cố gắng làm cho nó được hoàn thành thành công bởi vì ước lượng của họ là một phần công việc của họ. Bởi vì các dự án agile đều nhỏ, bạn phải tích hợp các công việc liên tục, không thành vấn đề bạn đang làm cái gì (mã, kiểm thử, tài liệu, kế hoạch). Bạn phải có người làm quản lí cấu hình phần mềm để giúp thiết lập cấu hình và phiên bản đúng cho phần mềm của bạn vì công việc thường xuyên thay đổi. Khi phiên bản cuối cùng được kiểm đưa vào, và tôi biết trạng thái nó tới trong nó và tôi không phải nghĩ về nó. Ai đó hỏi tôi, nếu agile là hoạt động toàn tổ, có thực sự cần người quản lí dự án không? Câu trả lời của tôi là dứt khoát “Có.” Tuy nhiên, vai trò của người quản lí dự án trong phương pháp agile mang nhiều tính người lãnh đạo và thầy kèm chứ KHÔNG kiểm soát như được dạy trong hầu hết các giáo trình quản lí dự án. Bạn càng cung cấp nhiều hướng dẫn và hỗ trợ cho tổ, họ sẽ càng có kết quả hơn. Bạn càng thực hành cách tiếp cận cộng tác này, bạn càng linh hoạt hơn như một người quản lí dự án, điều làm cho bạn thành người quản lí giỏi hơn. Bạn KHÔNG ra lệnh cho họ, bạn KHÔNG chỉ đạo họ, bạn KHÔNG chỉ huy họ, bạn KHÔNG đe doạ họ mà bạn là người hướng dẫn họ, ai đó mà họ tin cậy và ai đó giúp cho họ làm công việc của họ. Về căn bản, bạn là người lãnh đạo của họ và người lãnh đạo KHÔNG phải là ai đó có thẩm quyền trên họ mà là ai đó họ sẵn lòng đi theo. Dự án agile thành công có hai yếu tố then chốt: Người lãnh đạo là người quản lí dự án và tổ có kinh nghiệm và có kỉ luật. Không có hai yếu tố này, nó sẽ là khó. Câu hỏi của tôi là “Là người quản lí dự án, bạn có sẵn lòng thay đổi để trở thành người lãnh đạo giỏi hơn không?” và “Là thành viên tổ, bạn có đủ kinh nghiệm và kỉ luật để áp dụng phương pháp agile vào công việc của bạn không?” 11
Lý Thuyết Hệ Thống Và Ứng Dụng Trong Hệ Thống Thông Tin
Lý thuyết hệ thống ra đời từ những năm 60 của thế kỷ XX và được ứng dụng trong các ngành khoa học, trong đó có ngành khoa học thông tin – thư viện (TTTV). Việc nghiên cứu xây dựng hệ thống TTTV tại các trường đại học kỹ thuật (ĐHKT) Việt Nam là rất cần thiết. Bài viết đã khái quát về lý thuyết hệ thống; Ứng dụng nguyên tắc tiếp cận hệ thống trong việc xây dựng hệ thống TTTV; Đề xuất một số mô hình ứng dụng lý thuyết hệ thống trong hệ thống TTTV các trường ĐHKT Việt Nam.
1. Khái quát về lý thuyết hệ thống
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của lý thuyết hệ thống
Khái niệm về khoa học hệ thống đã có từ rất lâu với câu nói nổi tiếng của nhà Triết học Aristotle [4] “một với một không phải bằng hai”. Ngày nay, thường ngày chúng ta đọc, nghe những câu nói, cụm từ hết sức quen thuộc như: “cần xem xét vấn đề này một cách có hệ thống”. Nếu phân tích kỹ, ta sẽ thấy cả hai sự thật này đều phản ánh một thực tế của cuộc sống, đã được tổng quát hoá bằng phép duy vật biện chứng trong triết học, đó là xem xét bất cứ một hiện tượng, vấn đề nào cũng cần phải đặt nó trong mối vận động, có quan hệ qua lại giữa các hệ thống.
Khoa học nghiên cứu về hệ thống còn gọi là kỹ thuật hệ thống, phân tích hệ thống hay lý thuyết hệ thống, có bước tiến đáng kể, đặc biệt từ sau đại chiến thế giới lần thứ II, khi các hệ thống lớn được hình thành và phát triển nhanh chóng, đòi hỏi phải có những phương pháp và công cụ nghiên cứu thích ứng. Từ đó về sau của thế kỷ XX, nhờ vào những thành tựu về khoa học và công nghệ của các hệ thống lớn mà các phương pháp và công cụ của lý thuyết hệ thống được phổ cập càng rộng rãi và mang lại hiệu quả ngày càng cao.
Lý thuyết hệ thống được nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Trong đó nổi lên là L.V. Bertalanffy, Kenneth E. Boulding, Stefferd Beer.
Lý thuyết hệ thống được sáng lập bởi L.V. Bertalanffy (1901-1972) người Áo, thuộc trường Đại học Tổng hợp Chicago, tiếp cận vấn đề hệ thống từ góc độ sinh học bởi theo ông: “Mọi tổ chức hữu cơ đều là những hệ thống được tạo nên từ các tiểu hệ thống và ngược lại cũng là một phần của hệ thống lớn hơn” [1]. Trong công trình “Lý thuyết hệ thống tổng quát”, xuất bản năm 1956 của ông đã được nhân loại đánh giá là công trình có tính chất nền tảng cho sự hình thành và phát triển của lý thuyết hệ thống đã trình bày.
Trong học thuyết của mình, V. Bertalanffy đã khẳng định “Chỉnh thể bao giờ cũng lớn hơn phép cộng cơ học của các yếu tố cấu thành”. Ông phân hệ thống thành hai loại: hệ thống tĩnh và hệ thống động. Hệ thống tĩnh là hệ thống không có sự thay đổi theo thời gian. Hệ thống động là hệ thống mà trạng thái của nó thay đổi theo thời gian.
Tác giả người Mỹ Kenneth E. Boulding (1910-1993) nhìn nhận hệ thống từ khoa học quản lý, ông cho rằng: Hệ thống là một thực thể phổ biến ở trong tất cả thế giới vật chất của chúng ta, chúng ta sống trong hệ thống.
Xét theo mức tiến hoá, hệ thống có tính chất phân tầng Hierarchy (Từ hệ thống đơn giản đến hệ thống phức tạp), được chia thành 9 mức: Từ mức độ 1 đến mức độ 8 là mức độ nhận biết được, trong đó có mức độ thứ 9 hiện khoa học không nhận biết được, mức độ càng cao thì khả năng điều chỉnh và thích ứng với môi trường càng cao. Trong 9 cấp của hệ thống, các hệ thống xã hội – trong đó có hệ thống TTTV nằm trong mức độ 8 (Social Organizations) của Kenneth E.Boulding, hệ thống hữu sinh, hệ thống năng động tự tổ chức, luôn phát triển, có tính xác suất.
Tác giả Stefferd Beer (1926-2002) người Anh nghiên cứu về hệ thống từ góc độ điều khiển học. Từ phương pháp tiếp cận hệ thống điều khiển của tổ chức, ông chia hệ thống làm hai nhóm: Hệ thống tiên định và hệ thống xác suất. Trong đó, Hệ thống tiên định là hệ thống mà hành vi được xác định đơn trị: mỗi trạng thái hiện tại chỉ xác định một trạng thái tiếp theo; Hệ thống xác suất là hệ mà hành vi có thể xác định với một xác suất nào đó, mỗi trạng thái hiện tại quyết định xác suất xảy ra các trạng thái có thể tiếp theo.
Khái quát về phân loại hệ thống được trình bày ở bảng 1 [1].
Bảng 1: Sơ đồ phân loại hệ thống
1.2. Nội dung về lý thuyết hệ thống
1.2.1. Khái niệm về hệ thống
Hệ thống được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Trong tài liệu chuyên môn phần lớn các tác giả thường đưa ra các định nghĩa riêng và cụ thể về hệ thống theo đề tài quan tâm. Việc sử dụng định nghĩa cụ thể nào sẽ tuỳ thuộc vào lượng thông tin về đối tượng thực tế được nghiên cứu như một hệ thống.
Trong bài báo này, tác giả đưa ra định nghĩa tổng quát về hệ thống: Hệ thống là tập hợp các phần tử tương tác với nhau theo một cấu trúc nhất định và tạo nên một chỉnh thể tương đối độc lập.
Phân tích hệ thống cần chú ý đến mối liên hệ từ đầu vào đến đầu ra. Thực hiện mối liên kết vào/ ra trong quá trình hoạt động của hệ thống đều thể hiện qua hành vi của hệ thống. Như vậy, hành vi hệ thống là cách thức mà hệ thống nhận được giá trị đầu ra với giá trị đầu vào cho trước. Mọi hệ thống tồn tại đều có mục tiêu, ở dạng khái quát, mục tiêu của hệ thống trả lời câu hỏi, hệ thống sinh ra để làm gì ? Ví dụ hệ thống TTTV đại học có mục tiêu đảm bảo thông tin – tư liệu phục vụ cho quá trình đào tạo. Vậy lý thuyết hệ thống là cách tiếp cận khoa học góp phần tìm ra lời giải, phải làm gì và làm thế nào để đạt được mục tiêu đó.
1.2.2. Đặc trưng của hệ thống
Đặc trưng là thuộc tính căn bản, ổn định vốn có bên trong sự vật. Trong hệ thống các phần tử liên kết và tương tác với nhau theo quan hệ nhân quả, nghĩa là mỗi sự thay đổi của một hay một số phần tử đều kéo theo sự thay đổi của các phần tử còn lại, tác động này có thể là trực tiếp hay gián tiếp tuỳ theo sự quan trọng, vai trò và chức năng của phần tử đó. Một hệ thống bất kỳ có những tính chất cơ bản sau đây:
– Tính trồi: Khi sắp xếp các phần tử của hệ thống theo một cách thức nào đó sẽ tạo nên tính trồi. Đó là khả năng nổi trội, mới mẻ của hệ thống mà khi các phần tử đứng riêng rẽ thì không thể tạo ra được. Tính “trồi” là đặc tính quan trọng nhất của hệ thống. Tính trồi chỉ có ở một cấp hệ thống mà không có ở các hệ thống cấp thấp hơn nó hoặc các thành tố tạo ra hệ thống.
– Tính nhất thể: Thể hiện qua hai khía cạnh là sự thống nhất của các yếu tố tạo nên hệ thống; Mối quan hệ mật thiết của hệ thống với những yếu tố thuộc về môi trường. Tính nhất thể thể hiện như sau:
+ Quan hệ giữa hệ thống và môi trường: Một hệ thống luôn tồn tại trong môi trường, chịu sự tác động của môi trường.
+ Tính nhất thể và quản lý: Tính nhất thể của hệ thống có được là nhờ quản lý. Nếu biết tổ chức, phối hợp, liên kết các bộ phận, các phần tử một cách tốt nhất và thiết lập được mối quan hệ hợp lý với môi trường thì sẽ tạo ra sự phát triển cao.
– Tính cân bằng (năng động): Hệ thống mang tính chất là một cơ thể sống bao gồm các chu kỳ sinh ra →phát triển → suy thoái. Như vậy, việc chuyển trạng thái là rất quan trọng đối với một hệ thống.
– Tính phức tạp: Hệ thống mang tính phức tạp là do trong hệ thống luôn có các lợi ích, mục tiêu, cách thức hoạt động riêng của các phần tử, các phân hệ.
– Tính hướng đích: Mọi hệ thống đều có xu hướng tìm đến mục tiêu và một trạng thái cân bằng nào đó.
1.2.3. Cấu trúc của hệ thống
Cấu trúc của hệ thống mang tính phân lớp và có mối quan hệ bao hàm: Phần tử → Module → Phân hệ → Hệ thống (hình 3) [2].
Các phân lớp của hệ thống mang ý niệm tương đối và tồn tại trong các phương diện nghiên cứu khác nhau. Nghĩa là phần tử của một hệ thống này có thể trở thành phần tử của một hệ thống khác.
Hình 1. Cấu trúc hệ thống
– Phần tử của hệ thống: Là tế bào nhỏ nhất của hệ thống, mang tính độc lập tương đối, là yếu tố thành phần, liên hợp, thực hiện chức năng nhất định và không thể phân chia thêm được nữa dưới góc độ hoạt động của hệ thống. Các bộ phận tạo thành hệ thống gọi là phần tử của hệ thống đó.
– Module: Là tập hợp các phần tử liên kết cận kề với nhau để tạo thành một thao tác xác định. Ví dụ: Trong một hệ thống tìm tin, mỗi một thao tác là một module (thao tác indexing, thao tác tạo lập file,…).
– Phân hệ: Là tập hợp của một số module nhằm hướng tới thực hiện một công việc, một mục tiêu con được xác định trong hệ thống. Ví dụ, phân hệ xuất bản phẩm thông tin, phân hệ bổ sung, phân hệ phổ biến thông tin có chọn lọc…
– Hệ thống: Là một tập hợp các phần tử, sắp xếp, liên hệ với nhau theo một quy luật nào đó và thực hiện một chức năng, nhiệm vụ nhất định. Tuỳ thuộc vào cấu trúc của từng hệ thống mà chọn những phương pháp nghiên cứu và điều khiển hệ thống cho phù hợp.
1.2.4. Các thành phần cơ bản của hệ thống
Một hệ thống bất kỳ có những thành phần cơ bản: phần tử, mục tiêu, đầu vào/ ra, hành vi, trạng thái…
Sơ đồ mô tả các thành phần của hệ thống được khái quát trên hình 2:
– Môi trường của hệ thống: Theo quan điểm của lý thuyết hệ thống, môi trường là các yếu tố, điều kiện nằm ngoài hệ thống và có ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của hệ thống đó. Bất cứ hệ thống nào cũng tồn tại trong môi trường, hệ thống thông tin bị chi phối bởi các yếu tố: người dùng tin (NDT), môi trường thông tin của tổ chức…
– Đầu vào/ ra của hệ thống: Đầu vào là bất kỳ những gì mà môi trường có thể tác động vào hệ thống. Đầu ra là bất kỳ những gì mà hệ thống có thể tác động trở lại môi trường.
– Mục tiêu của hệ thống: Là trạng thái mong đợi, cần có và có thể có của hệ thống sau một thời gian nhất định.
– Cơ cấu của hệ thống: Là hình thức cấu tạo bên trong của hệ thống, phản ánh sự sắp xếp có trật tự của các phân hệ, bộ phận và phần tử cũng như các quan hệ giữa chúng theo một dấu hiệu nhất định.
– Hành vi của hệ thống: Hành vi của hệ thống là tập hợp các đầu vào/ ra và mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra của hệ thống.
– Trạng thái của hệ thống: Là khả năng kết hợp giữa các đầu vào/ ra của hệ thống xét ở một thời điểm nhất định. Như vậy, những đặc điểm tạo nên một khả năng của quá trình biến đổi đầu vào thành đầu ra của hệ thống ở những thời điểm nhất định gọi là trạng thái của hệ thống.
1.2.5. Phương pháp tiếp cận hệ thống
Có 3 phương pháp chính để nghiên cứu hệ thống:
a) Phương pháp mô hình hoá: Là phương pháp tái hiện những đặc trưng của đối tượng nghiên cứu bằng một mô hình khi việc nghiên cứu chính đối tượng đó không thể thực hiện được. Mô hình là sự diễn đạt trừu tượng hoá các mối liên kết giữa các phần tử của hệ thống theo mục tiêu nghiên cứu đặt ra đối với hệ thống đó.
b) Phương pháp hộp đen: Đây là phương pháp nghiên cứu khi đã biết đầu ra, đầu vào của hệ thống, nhưng chưa nắm được cơ cấu của nó. Phương pháp hộp đen được áp dụng rất hiệu quả trong thực tế vì có nhiều hệ thống mà cấu trúc của chúng rất mờ hoặc rất phức tạp, do đó việc nghiên cứu sâu vào cấu trúc là không thể tiến hành được hoặc là quá tốn kém.
2. Ứng dụng nguyên tắc tiếp cận hệ thống trong việc xây dựng hệ thống thông tin – thư viện phục vụ công tác đào tạo tại các trường đại học kỹ thuật Việt Nam
Xây dựng hệ thống TTTV đảm bảo tính khoa học và hệ thống phải được phân thành các bước cụ thể với những quy định chặt chẽ về nội dung công việc cho từng quy trình.
Bước 1: Xác định mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ của hệ thống thông tin – thư viện
– Mục tiêu: Hệ thống TTTV được xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về thông tin khoa học và kỹ thuật, nhằm cung cấp thông tin về các lĩnh vực đào tạo của trường một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời để đạt mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu trao đổi thông tin giữa các trường.
– Chức năng: Thu thập thông tin; Xử lý thông tin: xử lý hình thức và xử lý nội dung; Bảo quản thông tin; Cung cấp thông tin.
– Nhiệm vụ của hệ thống thông tin:
+ Xây dựng và thực hiện chính sách về thu thập, xử lý, lưu trữ và cung cấp thông tin trong hệ thống TTTV các trường đại học gồm: tài liệu, cơ sở dữ liệu (CSDL), ấn phẩm thông tin cho các thành viên trong hệ thống.
+ Nghiên cứu thường xuyên và có hệ thống nhu cầu thông tin của NDT trong trường đại học, phục vụ công tác đào tạo và đề ra những biện pháp thích hợp để thoả mãn nhu cầu thông tin đó.
+ Thu thập, xử lý thông tin các nguồn tin nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho NDT khai thác và sử dụng thông tin.
+ Cung cấp bản sao tài liệu (tài liệu gốc và tài liệu số), tìm tin hồi cố, phổ biến thông tin có chọn lọc.
+ Đảm bảo việc tương tác, chia sẻ thông tin giữa thư viện các trường trong hệ thống, hệ thống TTTV hình thành các dòng tin ổn định từ trên xuống, từ dưới lên và giữa các trường thành viên.
Bước 2: Xác định nhu cầu thông tin
Nghiên cứu nhu cầu thông tin của ba nhóm NDT: Cán bộ quản lý, giảng viên, nghiên cứu viên, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên. Chúng ta phải hiểu được nhu cầu thông tin của NDT mới xác định được những thông tin quan trọng để nạp vào hệ thống TTTV. Vì nhu cầu thông tin là cơ sở để xây dựng nguồn lực thông tin cho các trường đại học.
Các hướng tiếp cận hệ thống:
Thứ nhất: Tiếp cận phân tích
– Phân tích dòng tin và xây dựng nguồn lực thông tin.
+ Nghiên cứu dòng tin vận động trong hệ thống.
+ Xác định những nguồn thông tin riêng biệt: Thông tin được phân thành các loại riêng biệt dành cho một đối tượng NDT… phải có tiêu chí quy định rõ cách tra cứu từ các thư viện đại học khác.
+ Xây dựng các CSDL chuyên ngành, bộ sưu tập số, CSDL luận văn, luận án,…) dùng chung cho các trường.
+ Nghiên cứu, lựa chọn, bổ sung từng loại hình tài liệu phù hợp với chương trình đào tạo của các trường đại học.
– Phân tích thành phần hệ thống thông tin: Có thể phân chia hệ thống thành các phân hệ nhỏ hơn để nghiên cứu chi tiết. Khi nghiên cứu về thành phần hệ thống thông tin, có thể nhìn ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Hệ thống thông tin với hệ thống TTTV sẽ được tạo bởi các phân hệ thông tin. Mỗi một phân hệ sẽ có chức năng riêng nhưng lại có cùng một mục tiêu chung của hệ thống là đáp ứng nhu cầu tin của NDT trong trường đại học. Các phân hệ trong hệ thống TTTV gồm có các phân hệ: tìm tin hồi cố, phân phối thông tin có chọn lọc, sao lưu CSDL, xuất bản phẩm thông tin, cung cấp bản sao… Các thống thông tin hoàn chỉnh.
Thứ hai: Tiếp cận tổng thể
Sau khi đã phân tích cơ cấu và nghiên cứu từng phân hệ (hay phần tử), bước nghiên cứu tiếp theo là nghiên cứu các khả năng phối hợp, khả năng liên kết các phần tử thành hệ thống. Muốn vậy cần phải giải quyết các vấn đề:
– Mô hình bộ máy thông tin trong từng cơ quan.
– Mối quan hệ về mặt thông tin, việc xây dựng và chia sẻ nguồn lực thông tin giữa các trường đại học.
– Quy định nội bộ về nội dung, chế độ báo cáo và cung cấp thông tin giữa các thư viện.
– Nhân sự điều hành và quản trị hệ thống TTTV.
3. Đề xuất một số mô hình ứng dụng lý thuyết hệ thống trong hệ thống thông tin – thư viện các trường đại học kỹ thuật Việt Nam
3.1. Mô hình tích hợp thông tin
Mục đích: Dữ liệu trong hệ thống được chuẩn hoá, lưu trữ thống nhất nguồn lực thông tin, hình thành một “tổng kho” tránh sự trùng lặp, lãng phí, mất tin, đảm bảo việc bổ sung, chia sẻ, trao đổi thông tin giữa các thư viện đại học và cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời tới NDT trong các trường.
Hình3.Mô hình tích hợp thông tin trong hệ thống TTTV
Các trường hoàn toàn chủ động trong việc thu thập, xử lý, cung cấp và khai thác thông tin trong phạm vi của mình, đồng thời tập hợp thông tin để xây dựng CSDL dùng chung.
3.2. Mô hình hoạt động của hệ thống thông tin – thư viện
Mục tiêu của việc xây dựng hệ thống TTTV là đáp ứng nhu cầu của NDT trong trường đại học. Do vậy, từ sơ đồ chức năng của hệ thống có thể thiết kế mô hình hoạt động của hệ thống thông tin này:
Hình 4. Mô hình hoạt động của hệ thống TTTV
3.3. Mô hình tổ chức phân tán của hệ thống thông tin – thư viện
Hình 5. Mô hình phân tán hệ thống TTTV
Hệ thống TTTV là tập hợp các Trung tâm TTTV trong các trường đại học hợp tác, chia sẻ thông tin, tài liệu cho nhau. Thông tin của hệ thống là các thông tin về nguồn lực thông tin của các trường được tổ chức thống nhất theo chiều ngang giữa các trường tạo ra các sản phẩm và dịch vụ TTTV phong phú, nhằm đáp ứng nhu cầu tin ngày càng phong phú và đa dạng của NDT trong các trường ĐHKT ở Việt Nam.
Kết luận
Dựa trên việc tiếp cận lý thuyết hệ thống để thiết lập hệ thống TTTV, phục vụ công tác đào tạo tại các trường ĐHKT Việt Nam nhằm đáp ứng được nhu cầu tin của NDT thư viện một cách đầy đủ, kịp thời, chính xác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đình Hoè, Vũ Văn Hiếu. Tiếp cận hệ thống trong môi trường và phát triển. – H.: Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007.
2. Nguyễn Hữu Hùng. Bài giảng về lý thuyết hệ thống và ứng dụng trong thông tin. – 2012.
3. Phạm Thị Bích Thuỷ. “System theory: an approach model construction in Vietnam education management”// Journal os Science of Hnue. – 2011. – Vol 6. – No. 6.- P. 73-78.
4. A systems theory approach to the study of the academic library using Banathy’s three models os systems relationships”. – Susan Colaric: INSYS.
5. Bertalanffy, L.V. General system theory: Foundations, development applications. – New York: Geroge Braziller, 1968.
ThS. Đỗ Tiến Vượng
Trung tâm TT-TV, Đại học Giao thông Vận tải
Nguồn: Tạp chí Thư viện Việt Nam. – 2014. – Số 5. – Tr. 35-40,18.
Hệ Thống Thông Tin Kế Toán Trong Doanh Nghiệp
Ngày nay, sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ thông tin được ứng dụng nhiều vào các lĩnh vực hoạt động của con người, trong lĩnh vực quản lý cũng vậy. Nó góp phần làm cho con người có thể quản lý công việc có hiệu quả, nhanh chóng, cung cấp thông tin kịp thời và đáng tin cậy. Kế toán là một bộ phận quan trọng của hệ thống công cụ quản lý kinh tế tài chính, có vai trò tích cực trong việc quản lý, điều hành và kiểm soát các hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải ứng dụng công nghệ thông tin vào việc tổ chức thực hiện công tác kế toán nhằm tạo ra một hệ thống thông tin kế toán hợp lý, được kiểm soát chặt chẽ, cung cấp thông tin trung thực, đáng tin cậy với những kỹ thuật xử lý thông tin kế toán mới, góp phần vào việc gia tăng khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp mình. Đây là xu hướng phát triển phù hợp với tiến trình đổi mới của đất nước, nhất là trong giai đoạn hội nhập kinh tế hiện nay.
1. Hệ thống thông tin kế toán là gì?
Hệ thống là một tập hợp các phần tử (các thành phần) có liên hệ với nhau, hoạt động để hướng tới mục đích chung theo cách tiếp nhận các yếu tố vào, sinh ra các yếu tố ra trong một quá trình xử lý có tổ chức.
Hệ thống thông tin kế toán nhằm phân tích xử lý trong hoạt động kinh doanh
Mục tiêu của kế toán là lập ra báo cáo tài chính – phương tiện truyền đạt thông tin kế toán tài chính, trình bày kết quả kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp cho những người quan tâm đến nó, được lập theo định kỳ và theo quy định bắt buộc, gồm các báo cáo sau:
- Bảng cân đối kế toán
– Kết quả hoạt động kinh doanh
– Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
– Thuyết minh báo cáo tài chính
Người sử dụng thông tin kế toán
- Người quản lý doanh nghiệp
– Người có lợi ích trực tiếp từ hoạt động của doanh nghiệp
– Người có lợi ích gián tiếp từ hoạt động của doanh nghiệp
Kinh doanh hiệu quả hơn với phần mềm quản lý bán hàng Nhanh.vn
Quản lý chặt chẽ tồn kho, đơn hàng, khách hàng và dòng tiền
2. Các chức năng của hệ thống thông tin kế toán.
Các chức năng của hệ thống thông tin kế toán
– Thu thập, lưu trữ dữ liệu về các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Cung cấp báo cáo tài chính cho đối tượng bên ngoài doanh nghiệp.
+ Cung cấp thông tin hữu ích cho việc lập kế hoạch.
+ Cung cấp thông tin hữu ích cho kiểm tra, kiểm soát thực hiện kế hoạch.
+ Cung cấp thông tin hữu ích cho việc điều hành hoạt động hàng ngày.
– Kiểm soát.
+ Kiểm soát tuân thủ qui trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Bảo vệ tài sản vật chất, thông tin.
+ Kiểm soát hoạt động xử lý thông tin nhằm đảm bảo thông tin được xử lý chính xác, kịp thời.
3. Nguyên tắc tổ chức hệ thống thông tin kế toán
– Nguyên tắc thiết kế hệ thống mã
Hệ thống mã là tập hợp các ký tự theo nguyên tắc nhất định để mô tả thôngtin đối tượng, nhằm mục đích thuận tiện cho việc xử lý và lưu trữ.
+ Phù hợp nhu cầu thông tin yêu cầu.
+ Linh hoạt, phù hợp nhu cầu phát triển.
+ Dễ sử dụng.
Hệ thống thông tin kế toán bao gồm nhiều hệ thống nhỏ khác nhau
– Nguyên tắc tổ chức các kiểm soát trong hệ thống kế toán
+ Kiểm soát sự phân chia trách nhiệm và quyền hạn của mỗi cá nhân trong bộ máy kế toán.
+ Kiểm soát thiết bị nhằm đảm bảo an toàn về mặt kỹ thuật và hiện vật.
+ Kiểm soát được hoạt động xử lý của phần mềm và an toàn cho phần mềm.
+ Kiểm soát việc truy cập hệ thống để đảm bảo an toàn dữ liệu và chương trình xử lý.
+ Kiểm soát an toàn lưu trữ dữ liệu.
+ Có kế hoạch dự phòng giúp hệ thống hồi phục nhanh khi thiên tai, hỏa hoạn, phá hoại xảy ra.
+ Kiểm soát nhập liệu: kiểm soát tính hợp lệ của dữ liệu như tính có thực,chính xác và đầy đủ…
+ Kiểm soát xử lý dữ liệu: kiểm tra nhập trùng, nhập sai số liệu.
+ Kiểm soát kết quả dữ liệu.
Bên cạnh đó, nếu doanh nghiệp đang quan tâm đến phương pháp quản lý bán hàng hiệu quả thì hiện nay, Nhanh.vn đang cung cấp những sản phẩm, dịch vụ về quản lý bán hàng đa kênh, quản lý bán hàng trên Facebook, bán hàng trên các trang thương mại điện tử, cổng vận chuyển,…
Bạn đang xem bài viết Phương Pháp Luận Phát Triển Hệ Thống Thông Tin trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!