Xem Nhiều 6/2023 #️ Phương Pháp Steiner Và Montessori # Top 6 Trend | Sansangdethanhcong.com

Xem Nhiều 6/2023 # Phương Pháp Steiner Và Montessori # Top 6 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Phương Pháp Steiner Và Montessori mới nhất trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Với mỗi bậc cha mẹ việc lựa chọn phương pháp nào nuôi dạy con là một câu chuyện dài. Nên dạy trẻ theo phương pháp giáo dục Steiner hay Montessori ? Phương pháp Steiner và Montessori đều được đánh giá cao trong việc bồi dưỡng nên thế hệ trẻ tài giỏi, nhiều kỹ năng. Tuy nhiên, hai phương pháp này có cách giáo dục khác nhau.

Hiện nay, nhiều trường Mầm non quốc tế đã áp dụng phương pháp steiner và montessori vào giảng dạy. Cha mẹ băn khoăn không biết nên chọn trường Mầm non áp dục phương pháp giáo dục nào phù hợp với bé.

Quan điểm về định hướng, mục tiêu giáo dục

Mục tiêu giáo dục của Montessori và Steiner đều đặt trẻ ở vị trí trung tâm, với các phương pháp dạy nhằm phát huy tối đa tiềm năng của con trẻ. Tuy vậy, hai phương pháp này cũng có nhiều điểm khác biệt.

Phương pháp giáo dục Montessori nhấn mạnh vào tính thực tế. Trẻ cần phân biệt được thế giới thực và ảo. Dụng cụ học tập, phương pháp dạy đều phục vụ cho nhu cầu phát triển của trẻ.

Còn phương pháp giáo dục Steiner tìm cách cân bằng việc học tập với sự phát triển của trẻ cả về thể chất, tình cảm, trí tuệ phù hợp với lứa tuổi nhằm thúc đẩy sự phát triển của trẻ.

Quan điểm khác nhau về dụng cụ học tập và đồ chơi

Phương pháp Montessori, ở giai đoạn mầm non, khả năng phân biệt thế giới thực và thế giới ảo của trẻ còn chưa tốt. Trường học là nơi giúp các em có kiến thức thực tế về thế giới xung quanh. Còn trí tưởng tượng sẽ sử dụng khi các em đã có tư duy logic về thế giới khách quan.

Phương pháp dạy con thông minh Steiner thì quan niệm ngược lại. Steiner quan niệm đồ chơi là phương tiện tập kuyện cho trí tưởng tượng. Các em sẽ luôn tìm tòi và sáng tạo ra những mục đích sử dụng khác nhau của một món đồ chơi.

Quan niệm về thế giới thực và ảo

Lớp học theo quan điểm Steiner mang màu sắc cổ tích. Còn lớp học Montessori mang bầu không khí khoa học, hiện đại.

Montessori nhấn mạnh việc chơi của trẻ có tác dụng tích lũy kiến thức khoa học thực dụng và các kỹ năng vận động. Các trò chơi thuộc về trí tưởng tượng như giả tưởng, đóng kịch, đóng vai,… không được đề cao. Montessori cho rằng trẻ em mầm non nên làm các công việc như người lớn.

Ngược lại, phương pháp giáo dục Steiner lại là thế giới của trí tưởng tượng bay bổng. Các em cùng nhau vui đùa, hòa vào thế giới không có thực. Các món đồ chơi hoặc vật dụng bất kỳ được tận dụng làm sân khấu, biến thành các vở diễn sinh động với nhiều nhân vật tưởng tượng khác nhau.

Quan niệm về xây dựng kỹ năng xã hội

Cả Montessori và Steiner đều nhấn mạnh sự cần thiết của trật tự đối với trẻ nhỏ. Tuy nhiên, cách thực hành để đạt tới tính trật tự này thì hoàn toàn khác nhau.

Học sinh theo học phương pháp Montessori thích nghi với xã hội như những cá thể độc lập cùng tồn tại trong một tập thể. Các em được rèn luyện kỹ năng cá nhân mạnh mẽ, hạ cái tôi cá nhân xuống để tôn trọng các quy tắc ứng xử trong cộng đồng.

Trong khi đó, học sinh Steiner thì lại hòa mình vào môi trường có tính gắn kết cộng đồng cao. Các em cùng nhau tham gia, cùng giáo viên hoạt động trong một tập thể thống nhất. Trẻ phát triển cái tôi cá thể trong cộng đồng chung, đó là cách các em học để giao tiếp với xã hội.

Không thể khẳng định phương pháp steiner và montessori, phương pháp nào ưu việt hơn. Cả hai phương pháp đều khẳng định được giá trị giáo dục của mình. Montessori đào tạo ra trẻ có trí thông minh logic và Steiner đào tạo ra trẻ của mình có trí tưởng tượng cao. Tùy theo tính cách của con em, các bậc phụ huynh hãy chọn phương pháp dạy sao cho phù hợp với khả năng và tư duy của trẻ.

Phương Pháp Steiner Và Montessori – Nên Chọn Phương Pháp Nào ?

Với mỗi bậc cha mẹ việc lựa chọn phương pháp nào nuôi dạy con là một câu chuyện dài. Nên dạy trẻ theo phương pháp giáo dục Steiner hay Montessori ? Phương pháp Steiner và Montessori đều được đánh giá cao trong việc bồi dưỡng nên thế hệ trẻ tài giỏi, nhiều kỹ năng. Tuy nhiên, hai phương pháp này có cách giáo dục khác nhau.

Hiện nay, nhiều trường Mầm non quốc tế đã áp dụng phương pháp steiner và montessori vào giảng dạy. Cha mẹ băn khoăn không biết nên chọn trường Mầm non áp dục phương pháp giáo dục nào phù hợp với bé.

Quan điểm về định hướng, mục tiêu giáo dục

Mục tiêu giáo dục của Montessori và Steiner đều đặt trẻ ở vị trí trung tâm, với các phương pháp dạy nhằm phát huy tối đa tiềm năng của con trẻ. Tuy vậy, hai phương pháp này cũng có nhiều điểm khác biệt.

Phương pháp giáo dục Montessori

nhấn mạnh vào tính thực tế. Trẻ cần phân biệt được thế giới thực và ảo. Dụng cụ học tập, phương pháp dạy đều phục vụ cho nhu cầu phát triển của trẻ.

Còn phương pháp giáo dục Steiner tìm cách cân bằng việc học tập với sự phát triển của trẻ cả về thể chất, tình cảm, trí tuệ phù hợp với lứa tuổi nhằm thúc đẩy sự phát triển của trẻ.

Quan điểm khác nhau về dụng cụ học tập và đồ chơi

Phương pháp Montessori, ở giai đoạn mầm non, khả năng phân biệt thế giới thực và thế giới ảo của trẻ còn chưa tốt. Trường học là nơi giúp các em có kiến thức thực tế về thế giới xung quanh. Còn trí tưởng tượng sẽ sử dụng khi các em đã có tư duy logic về thế giới khách quan.

Phương pháp dạy con thông minh

Steiner thì quan niệm ngược lại. Steiner quan niệm đồ chơi là phương tiện tập kuyện cho trí tưởng tượng. Các em sẽ luôn tìm tòi và sáng tạo ra những mục đích sử dụng khác nhau của một món đồ chơi.

Quan niệm về thế giới thực và ảo

Lớp học theo quan điểm Steiner mang màu sắc cổ tích. Còn lớp học Montessori mang bầu không khí khoa học, hiện đại.

Montessori nhấn mạnh việc chơi của trẻ có tác dụng tích lũy kiến thức khoa học thực dụng và các kỹ năng vận động. Các trò chơi thuộc về trí tưởng tượng như giả tưởng, đóng kịch, đóng vai,… không được đề cao. Montessori cho rằng trẻ em mầm non nên làm các công việc như người lớn.

Ngược lại, phương pháp giáo dục Steiner lại là thế giới của trí tưởng tượng bay bổng. Các em cùng nhau vui đùa, hòa vào thế giới không có thực. Các món đồ chơi hoặc vật dụng bất kỳ được tận dụng làm sân khấu, biến thành các vở diễn sinh động với nhiều nhân vật tưởng tượng khác nhau.

Quan niệm về xây dựng kỹ năng xã hội

Cả Montessori và Steiner đều nhấn mạnh sự cần thiết của trật tự đối với trẻ nhỏ. Tuy nhiên, cách thực hành để đạt tới tính trật tự này thì hoàn toàn khác nhau.

Học sinh theo học phương pháp  Montessori thích nghi với xã hội như những cá thể độc lập cùng tồn tại trong một tập thể. Các em được rèn luyện kỹ năng cá nhân mạnh mẽ, hạ cái tôi cá nhân xuống để tôn trọng các quy tắc ứng xử trong cộng đồng.

Trong khi đó, học sinh Steiner thì lại hòa mình vào môi trường có tính gắn kết cộng đồng cao. Các em cùng nhau tham gia, cùng giáo viên hoạt động trong một tập thể thống nhất. Trẻ phát triển cái tôi cá thể trong cộng đồng chung, đó là cách các em học để giao tiếp với xã hội.

Không thể khẳng định phương pháp steiner và montessori, phương pháp nào ưu việt hơn. Cả hai phương pháp đều khẳng định được giá trị giáo dục của mình. Montessori đào tạo ra trẻ có trí thông minh logic và Steiner đào tạo ra trẻ của mình có trí tưởng tượng cao. Tùy theo tính cách của con em, các bậc phụ huynh hãy chọn phương pháp dạy sao cho phù hợp với khả năng và tư duy của trẻ.

Montessori &Amp; Steiner: Sự Giống Và Khác Nhau Trong Phương Thức Thực Hành

Đồ chơi: mở & đóng

Chơi trong thế giới thực và chơi tưởng tượng

Các câu chuyện thần tiên & các bài học khoa học

Xây dựng kỹ năng xã hội: cá thể trong một tập thể & cái một trong cái toàn thể

Tính trật tự & tính nhịp điệu

Trí thông minh logic & trí tưởng tượng.

Montessori nhấn mạnh vào tính Thực, bà cho rằng trẻ cần phân biệt được thế giới thực và không thực. Đặc biệt ở giai đoạn mầm non, dựa trên những tổn thương não của nhóm trẻ đầu tiên bà tiếp xúc khi mở trường Casa dei Bambini bà quan niệm rằng trẻ không hoặc ít có khả năng phân biệt thế giới thực (là thế giới vật chất, như người lớn nhìn và sờ thấy) và thế giới trong trí tưởng tượng của trẻ (thế giới ảo). Nhiệm vụ của giáo viên là cung cấp môi trường, học liệu gắn liền với Thực Tại để giúp trẻ “tiếp đất” một cách chắc chắn nhất, khoa học nhất. Những gì thuộc về trí tưởng tượng cần tạm hoãn cho giai đoạn sau đó, khi trẻ đã hoàn toàn trở nên logic, thực tế và nhận biết thế giới thực như cách người lớn chúng ta nhìn thấy. Do đó, bà thiết kế mỗi món học liệu gắn với một chức năng cụ thể, một cách chơi duy nhất đúng, với mục đích giảng dạy một kiến thức khoa học thực dụng, hay một kỹ năng.

Đồ chơi trong lớp học Steiner, ngược lại, không món đồ nào có duy nhất một cách chơi, cũng không có sự “cài đặt” mục đích sử dụng cho món đồ chơi. Trẻ có thể sử dụng một khúc cây tưởng tượng làm thuyền, làm em bé, làm sách…có thể sử dụng một con búp bê tối giản chi tiết hôm nay trong vai em bé, ngày mai trong vai mẹ, bà, cô tiên, phù thủy, sử dụng một miếng vải làm váy áo, làm nhà, làm sông…Tại sao lớp học Steinre với đồ chơi hoàn toàn mở, tối giản chi tiết và màu sắc? Bởi Steiener quan niệm trẻ em trong độ tuổi mầm non có nhu cầu bức thiết phải được “diễn đạt” những hình ảnh trong trí tưởng tượng vô cùng phong phú của trẻ thông qua các trò chơi tưởng tượng, nhu cầu “tiêu hóa” lại những trải nghiệm, quan sát mà trẻ có được trong cuộc sống thực, cũng qua cách chơi đóng vai, giả tưởng. Ông cho rằng việc chơi với đồ chơi mở là việc tập thể dục cho trí tưởng tượng, trẻ sẽ luôn phải tưởng tượng, tìm tòi và sáng tạo ra những mục đích khác nhau của một món đồ chơi, cách chơi.

Chơi trong thế giới thực và chơi tưởng tượng.

Vì quan niệm trẻ không cần sự giải trí thuần túy, trẻ luôn bận rộn và có khả năng để tự mình trở nên bận rộn, không có thời gian nhàn rỗi, nhàm chán để rơi vào trạng thái cần giải trí như người lớn, Montessori cho rằng trẻ cần được làm các công việc THẬT, các công việc như người lớn đang làm: làm việc nhà, làm thủ công,…nên Montessori tạo ra bước đột phá trong việc nuôi dạy trẻ mầm non khi thiết kế các vật dụng bàn ghế, tủ, bếp,…là những vật dụng trong gia đình được thu nhỏ lại, kích thước phù hợp để trẻ được thoải mái sử dụng, được thỏa sức LÀM những việc thực, được phát triển tối đa các kỹ năng mà không bị giới hạn bởi sự bất tiện do đồ đạc. Do đó, trong lớp học Montessori sẽ có những dao sắc, kéo, cưa, bát sứ, bếp nấu…tất cả những gì mà người lớn sử dụng, trẻ đều khao khát được LÀM theo, và lớp học cung cấp học liệu này cho trẻ làm.

Steiner chia sẻ cùng quan điểm này trong cách giáo dục trẻ. Lớp học Steiner có đầy đủ các học cụ cho trẻ thỏa sức làm các công việc như bố mẹ vẫn làm hàng ngày: nấu ăn, rửa bát, đan len, đóng bàn, đóng ghế,…Thậm chí, Steiner nhấn mạnh hơn nữa vào vai trò của giáo viên, người giáo viên cần LÀM thật những việc này tại lớp, để trẻ được gợi hứng thú, có hình mẫu để bắt chước. Giáo viên Steiner sẽ làm các công việc như một người mẹ, người bố, trong khi trẻ chơi, ngoài việc quan sát trẻ cô sẽ chăm chú làm các công việc của mình: sửa một món đồ, khâu vá búp bê, đẽo một chiếc ô tô đồ chơi,…để làm mẫu THẬT cho trẻ, tuyệt đối không giảng dạy qua các mẫu không thật, là các bài giảng sử dụng hình ảnh, video, thuyết giảng.

Việc chơi của trẻ trong lớp Montessori là việc tự mình hoàn thành một công việc gắn với một bài học “ẩn dấu” trong món học liệu mà trẻ chọn (bài học này được cài đặt trong ý đồ thiết kế đồ chơi của Montessori). Do cách thiết kế học liệu có duy nhất một cách chơi đúng, trẻ sẽ tự mình học được bài học ẩn trong đó bằng cách thử – sai – thử – chúng tôi đến khi tự mình tìm được đáp án đúng. Lúc này, vai trò của giáo viên là người quan sát, tôn trọng không làm gián đoạn thời gian chơi -học của trẻ, để đảm bảo cho trẻ có đủ thời gian hoàn thành bài học mà không cần bất cứ sự giảng dạy nào từ phía giáo viên. Montessori nhấn mạnh việc chơi của trẻ cần gắn với cuộc sống thật, nhằm tích lũy các kiến thức khoa học thực dụng, các kỹ năng vận động; bà không cổ vũ thậm chí dùng cách thiết kế môi trường lớp học để ngăn cản các trò chơi giả tưởng, đóng kịch, đóng vai…là những gì thuộc về trí tưởng tượng, thuộc về thế giới không thực.

Steiner, ngược lại, tạo mọi điều kiện cho trẻ được phát huy tối đa trí tưởng tượng phong phú vốn sẵn có trong giai đoạn ấu thơ. Ông không cho rằng người lớn cần nỗ lực cho trẻ nhận biết về thế giới thực đúng như cách người lớn nhìn và sờ thấy. Bằng cách nào đó, ông biết trẻ con nhìn thế giới theo cách của trẻ con và ông hoàn toàn tôn trọng cách nhìn đó, không thấy nó là nguy hại hay cần chỉnh sửa, thậm chí ông yêu cầu giáo viên phải học được cách nhìn như trẻ, để giúp trẻ phát duy tối đa trí tưởng tượng phong phú và sự nhạy cảm tuyệt vời ở giai đoạn ấu thơ này. Đồ chơi với vải, gỗ, bông, sáp ong, bàn ghế, búp bê tối giản chi tiết,…là những nguyên liệu thô cho phép trẻ thỏa sức sáng tạo, tưởng tượng, phân vai,…Một lớp học Steiner thành công là khi trẻ chăm chú chơi cùng nhau hoặc một mình các trò chơi đóng vai, giả tưởng, là khi trẻ biết chơi và ham chơi, có khả năng kết nối với nhau và kết nối các đồ chơi, cách chơi tạo thành một sân khấu, một vở diễn sinh động, rực rỡ.

Các câu chuyện thần tiên & các bài học khoa học

Trong lớp học Montessori bài học “gửi gắm” trong từng món đồ chơi, lẫn những bài học giáo viên trực tiếp thiết kế giảng dạy đều gắn với kiến thức khoa học thực tế, hay những kỹ năng vận động cần thiết. Chẳng hạn: một bộ hộp chữ cái, một kim tự tháp sắp xếp bằng hạt, một bộ lắp ghép bản đồ,…Có thể nói tất cả các học cụ trong lớp Montessori đều nhằm cho trẻ tự khám phá ra các quy luật, các kiến thức toán học, chữ, số, kiến thức khoa học,…Và đặc biệt, nghiên cứu và tìm ra các giai đoạn trẻ đặc biệt tò mò với số, nhạy cảm với chữ, Montessori thiết kế nhiều bộ học chữ, học số thông qua xúc giác. Điều này khiến trẻ em Montessori có những lợi thế rõ ràng khi tham gia chương trình tiểu học, bởi trước đó ngay ở giai đoạn mầm non trẻ đã được phát huy tối đa tư duy logic, tích lũy kiến thức khoa học khá phong phú. Tinh thần khoa học biểu thị rất rõ trong cách thiết kế lớp học, trong tương tác giữa giáo viên và học sinh.

Điều này lại rất hiếm khi tìm thấy được trong lớp học mầm non Steiner, tuyệt đối không có chữ, số, không có các kiến thức khoa học được giảng dạy hay ít nhất là giải thích một cách chính xác, khoa học. Thậm chí, một cô giáo Steiner được đánh giá là tốt phải biết trả lời các câu hỏi của trẻ: có ai sinh sống trên mặt trăng, hay mặt trăng sinh ra như thế nào? bằng một câu chuyện cổ tích về chị Hằng chú Cuội hay thậm chí giỏi hơn nữa là cô giáo sẽ ngay lập tức sáng tác một câu chuyện thần tiên, một bài thơ về các cô tiên, chú lùn sống trên mặt trăng hàng ngày vẫn ngóng trông và theo ánh trăng xanh xuống trái đất chơi cùng các em bé. Hàng ngày, trong lớp học Steiner ngoài giờ kể chuyện, cô và trò cùng nhau sáng tác, ứng biến không biết bao nhiêu những câu chuyện tưởng tượng khác. Trẻ không ăn, cô kể một câu chuyện thần thoại về bạn thỏ biếng ăn sẽ ra sao. Trẻ đánh bạn, ngoài việc xử lý tức thời, cô thậm chí cũng sẽ dùng những câu chuyện được kể lặp lại vào giờ kể chuyện để trẻ sống cùng câu chuyện, sống trong tình yêu thương, chia sẻ giữa bạn chim sẻ và đại bàng rồi một lúc nào đó, trẻ sẽ tự nhiên thay đổi hành vi….Steiner cho rằng những câu chuyện thần tiên là nguồn thức ăn lành mạnh và bổ dưỡng cho tâm hồn trẻ, cho trí tưởng tượng được bay bổng, được nuôi dưỡng tối đa. Người giáo viên Steiner giỏi chắc chắn là người biết sáng tác chuyện và kể chuyện hay. Bầu không khí lớp học Steiner là một bầu không khí cổ tích, đẹp thơ mộng và bay bổng, hài hòa với thiên nhiên.

Xây dựng kỹ năng xã hội: cá thể trong một tập thể & cái một trong cái toàn thể

Montessori viết ” thầy cô giáo phải là những người đã được chuẩn bị từ bên trong – đã tự mình tôi rèn bản thân để trở nên những con người từ bi, bác ái, từ chối sự độc tài, kiêu ngạo”. Nhân cách của người thầy đặc biệt hay thậm chí là tuyệt đối quan trọng đối với giai đoạn học thẩm thấu của tuổi ấu thơ, quan trọng hơn tất cả mọi học liệu và phương pháp. Điều này càng đặc biệt quan trọng xét theo góc nhìn để giúp trẻ xây dựng kỹ năng xã hội, xây dựng những thói quen, hành vi ứng xử với những người xung quanh mình, là kết quả được nhìn thấy ngay lúc này của việc hình thành nhân cách trong tương lai. Bà cho rằng trẻ lên 3 cần được ở cùng những người không phải người thân của mình, không phải những người sẵn sàng chấp nhận trẻ với tất cả những hành vi, thói quen xấu, để trẻ học được các kỹ năng xã hội cần thiết. Môi trường mầm non là môi trường phù hợp nhất giúp trẻ xây dựng nên những kỹ năng xã hội.

Montessori rèn luyện cho trẻ thích nghi với xã hội như một cá thể độc lập cùng tồn tại trong một tập thể. Trẻ học cách chờ đợi, cách không làm phiền người khác, tôn trọng các nhu cầu của người khác. Trong giờ chơi trẻ được chơi trên một tấm thảm riêng biệt, được học cách chờ đợi nếu bạn đã đang chơi món đồ mình muốn. Trẻ học cách chơi chăm chú, tập trung trong tĩnh lặng, không gây ồn ào ảnh hưởng tới các bạn khác. Kỹ năng xã hội mà Montessori mong muốn xây dựng cho trẻ là kỹ năng của một cá nhân mạnh mẽ, biết đẩy lùi cái tôi cá nhân để tôn trọng các quy tắc ứng xử trong các môi trường công cộng, trong các mối quan hệ để ưu tiên cho sự hài hòa của mối quan hệ, của môi trường.

Steiner có cùng quan điểm với Montessori về người thầy của trẻ. Trong cách ông đào tạo giáo viên thậm chí ông cung cấp những phương thức thực hành rất cụ thể để mỗi ngày người giáo viên, người thầy đều có thể làm mạnh mình hơn lên, mỗi ngày trở nên từ bi, bác ái hơn, và hoàn toàn không có sự độc tài, kiêu ngạo. Giáo viên Steiner nhìn đứa trẻ là một thực thể cao quý, như cách Montessori gọi đứa trẻ “là cha của con người”.

Steiner mong muốn xây dựng môi trường có tính gắn kết cộng đồng cao. Trẻ cùng tham gia với nhau, cùng nhau, cùng giáo viên trong một tập thể thống nhất, việc này được thực hiện trong rất nhiều các hoạt động khác nhau trong suốt một ngày trẻ ở trường. Giờ sinh hoạt vòng tròn là sự kết nối của những cá thể vào một tập thể, sử dụng công cụ là nghệ thuật, là âm nhạc. Giờ hát trước khi ăn, ngoài việc rèn rũa lòng biết ơn cho trẻ thì mỗi lần nắm tay bạn, cùng bạn và cô kết nối thành một vòng tròn là một lần trẻ được tham gia bằng toàn bộ con người mình vào cộng đồng. Giờ chơi tự định hướng, trẻ hoàn toàn có thể tự chơi một mình, tuy nhiên hầu hết, một cách tự nhiên, trẻ sẽ rủ bạn chơi cùng, xây dựng cho mình một đội nhóm cùng chơi rồi tự mình học cách giải quyết các vấn đề nảy sinh.

Montessori khẳng định thầy cô là người thiết kế, tạo môi trường giáo dục đầy ắp tính văn hóa để trẻ em có thể say mê, tập trung vào hoạt động chơi của chúng trong một khoảng thời gian đủ dài không bị người lớn ngắt quãng (theo bà, khoảng thời gian lý tưởng nhất là 3 giờ đối với trẻ từ 2 tuổi rưỡi đến 6 tuổi). Chính sự tập trung và say mê này làm nên yếu tố kỷ luật và trật tự cho môi trường giáo dục chứ không phải các hình thức thưởng phạt hay thậm chí quát nạt, dọa dẫm. Sự tập trung vào một hoạt động và không bị ngắt quãng này càng tuyệt đối không phải để phục vụ lợi ích của người lớn là rảnh tay với con trẻ, như cách các ông bố bà mẹ trẻ cho con một chiếc iphone, ipad hay một cái điều khiển tivi và chúng ngồi đó bất động hàng giờ liền. Tôn trọng sự lựa chọn hoạt động chơi (hay chính là học) của trẻ là để chính trẻ làm bừng nở con – người – tương – lai của mình, khả năng và phẩm chất của mình. Việc dành một khoảng thời gian đủ dài để trẻ vui vẻ tập trung vào công việc của mình là bước quan trọng để trẻ phát triển năng lực tư duy, năng lực khám phá. Và quan trọng nhất là niềm SAY MÊ và VUI THÍCH lao động (là trạng thái bẩm sinh nơi mỗi đứa trẻ) không bị làm hỏng đi, để khi lớn lên chúng lại hoang mang vì không tìm ra niềm say mê trong cuộc đời mình.

Cả Montessori và Steiner đều nhấn mạnh vào sự cần thiết của trật tự đối với trẻ. Tuy nhiên, ông và bà triển khai các cách thực hành khác nhau để đạt tới tính trật tự này.

Trong lớp học Montessori đồ chơi được theo một trật tự cố định để trẻ luôn biết cái gì ở đâu, bà quan sát và thấu hiểu trật tự không gian sẽ đem đến cho trẻ cảm giác an toàn. Steiner không dừng lại ở trật tự về không gian, ông mở rộng trật tự về thời gian, là tính nhịp điệu của môi trường giáo dục Steiner. Bên cạnh trật tự về không gian là điều kiện tất yếu của lớp học Steiner, tính nhịp điệu trong các hoạt động hàng ngày lại là đặc tính cơ bản của “giáo trình” mầm non Steiner. Nhịp điệu này ổn định theo ngày, theo tuần, theo mùa, theo năm. Bên cạnh sự yên ổn của trật tự không gian, nhịp điệu đem đến cho trẻ không chỉ cảm giác an toàn, thân quen mà hơn thế, nó tôi rèn Ý Chí cho trẻ. Đây cũng là một điểm độc đáo của phương pháp giáo dục Steiner, nhấn mạnh vào sự hình thành và phát triền Ý Chí như hạt mầm, như ngọn lửa nhen nhóm đầu tiên bên trong đứa trẻ để chuẩn bị cho mọi sự nảy mầm, cho mọi sự bùng cháy, đam mê.

Trí thông minh logic & trí tưởng tượng

Eistein đã nói, muốn con bạn thông minh hãy đọc cho chúng nghe những câu chuyện cổ tích, muốn con bạn thông minh hơn nữa hãy đọc nhiều hơn nữa cho chúng nghe những câu chuyện cổ tích. Điều này, các trường mầm non Steiner đã làm rất tốt, nâng lên một nấc cao hơn, từ đọc chuyện sang kể chuyện. Đọc tức là bạn còn phải cần đến sách, là bạn còn chưa sống với câu chuyện để truyền tải cho trẻ sự sống động, kể là bạn đã biết sống trong câu chuyện. Gờ kể chuyện của trường mầm non Steiner là giờ mà trí tưởng tượng của trẻ tha hồ bay bổng. Không gian lớp học ấm cúng, ánh sáng được làm dịu đi, nến được thắp lên bên cạnh “sân khấu” nhỏ của các nhân vật rối, được các cô sắp đặt và tạo bối cảnh với lụa, với bông, với hoa, với lá. Cô khe khẽ cầm cây đàn lyre chơi vài nốt ngân nga, trẻ lập tức im ắng, chăm chú đón đợi và bắt đầu tưởng tượng theo từng động tác cô diễn rối nhịp nhàng, từng câu kể cô buông rất khoan thai. Những giờ kể chuyện quý giá này sẽ gieo mầm, chăm bón cho trí tưởng tượng của trẻ lớn lên từng ngày. Những mầm này sẽ theo trẻ vào từng giờ chơi. Giờ chơi, tiếp tục là một môi trường kích thích tối đa sự phát triển của trí tưởng tượng. Điều khác biệt với các mô hình giáo dục khác là lớp mầm non Steiner có giờ chơi tự do mỗi ngày, theo nghĩa trẻ là người tổ chức trò chơi, giải quyết các vấn đề nảy sinh khi chơi với bạn, giáo viên chỉ đóng vai trò như người thiết lập môi trường, đảm bảo an toàn và hạn chế tối đa sự can thiệp. Chơi tự do, hay còn gọi là chơi theo định hướng lựa chọn của trẻ, là một nhu cầu thiết yếu của trẻ để “trải nghiệm lại”, “diễn lại” những gì trẻ đã thẩm thấu, để tưởng tượng và sáng tạo ra vô vàn câu chuyện. Nhu cầu được chơi, và chơi tự do của trẻ cũng thiếu yếu như nhu cầu ăn, ngủ; và để so sánh với người lớn, ta có thể so với nhu cầu được làm việc để kết nối và để thấy mình là một cá thể trong cộng đồng. Có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, trẻ khi nhỏ biết chơi lớn lên là những người lớn hoạt bát, khả năng giải quyết vấn đề cao hơn hẳn những trẻ không được và do dó không “biết” chơi.

Giờ chơi tự do này của lớp học Steiner và Montessori có những sự giống nhau và khác nhau. Sự giống nhau là bởi trẻ được chơi tự định hướng, được dành một khoảng thời gian đủ dài để có thể tập trung vào trò chơi. Sự khác nhau nằm ở môi trường mà giáo viên đã tạo ra cho trẻ thông qua đồ chơi và bầu không khí. Trong khi một lớp học Steiner mang màu sắc cổ tích, thì một lớp học Montessori có bầu không khí rất khoa học, hiện đại. Các đồ chơi, học liệu của lớp Montessori tập trung vào việc kích thích tư duy logic của trẻ, đem đến cho trẻ các kiến thức cụ thể nào đó của Thực Tại.

Montessori cho rằng một đứa trẻ phải hoàn tất và chỉ hoàn tất được quá trình “nhập thể”, quá trình “phôi thai tinh thần” đi ra và hòa nhập với Thực Tại của thế giới vật chất, khi nó được hoạt động và là những hoạt động gắn với Thực Tại. Người lớn quanh trẻ không được phép cho trẻ chạy trốn trong hỗn độn các biểu tượng, các ảo ảnh, huyễn tưởng của trí tưởng tượng, của việc đóng kịch; mà theo bà là do sự nghèo nàn của môi trường, sự thiếu vắng các hoạt động của Thực Tại khiến trẻ trở nên ngày càng trốn sâu hơn trong cái vỏ ốc của huyễn tưởng, tưởng tượng. Thậm chí bà gọi đây là một dạng “ẩn ức tâm lý”, phân tích theo phân tâm học, là một sự chạy trốn các thực tại khó chịu, làm lệch lạc đi một số năng lực tự nhiên nào đó. Steiner lại có quan điểm hoàn toàn trái ngược, ông bảo vệ quá trình “nhập thể” này một cách trọn vẹn, quá trình này phải được diễn ra một cách từ tốn, theo giai đoạn phát triển tự nhiên của trẻ. Ông cho rằng việc tưởng tượng hay đóng kịch với trẻ lại thực hơn chính thế giới Thực Tại bên ngoài, việc tạo môi trường để trẻ được tiếp tục đóng kịch, được tưởng tượng, được sống trong thế giới mơ mộng do trẻ tưởng tượng ra chính là nhằm “bảo tồn” những năng lực quý giá trong giai đoạn “nhập thể” này. Montessori gọi những năng lực tự nhiên quý giá này của trẻ là “phôi thai tinh thần”, Steiner gọi nó là sự kết nối giữa cái bản Tôi thấp của thế giới vật chất và cái Siêu Tôi thuần tinh thần, tâm linh. Điểm khác biệt lớn nhất giữa hai nhà giáo dục này có lẽ nằm ở đây, sự nhận định về quá trình “nhập thể” của trẻ, dẫn tới cách thiết kế lớp học, thiết kề đồ chơi theo hai hướng khác biệt nhau.

Cùng một gốc triết lý giáo dục dựa trên trên tình yêu thương, Steiner và Montessori đều khẳng định yếu tố quan trọng nhất rằng t hầy cô giáo phải là những người đã được chuẩn bị từ bên trong – đã tự mình tôi rèn bản thân để trở nên những con người từ bi, bác ái, từ chối sự độc tài, kiêu ngạo, để trẻ được thẩm thấu những nhân cách đẹp nhất, thiện nhất trong một môi trường tự nhiên đầy ắp tính văn hóa được người thầy chuẩn bị cho trẻ tự trải nghiệm, tự làm bừng nở con – người – tương – lai của mình. Hai nhà giáo dục lớn, cũng như nhiều nhà phâm tâm học và tâm lý học khác, đều khẳng định giai đoạn 0-7 trẻ học qua sự thẩm thấu, bắt chước, bắt chước không chỉ hành động mà ngay cả cảm xúc, suy nghĩ bên trong của người lớn xung quanh mình. Sự khác nhau của hai nhà giáo dục lớn này có lẽ nằm ở quan niệm về sự “nhập thể” của những sinh linh, những phôi thai tinh thần, những năng lực tự nhiên mà con người vốn có thể thu nhận được ngay từ khi sinh ra. Steiner và Montessoi khác nhau trong việc chọn con đường để những năng lực tự nhiên này “nhập thể” một cách trọn vẹn nhất, để đứa trẻ phát huy tối đa năng lực trong Thực Tại.

Phương Pháp Giáo Dục Steiner Là Gì?

Phương pháp giáo dục Steiner là gì

Là phương pháp hướng người học trở thành những con người cá nhân tự do, có đam mê và lý tưởng sống.

Chính vì vậy, nhà sáng lập Steiner thành lập trường Waldorf đầu tiên ở Stuttgart, Đức vào năm 1919. Nhưng chính Adolf Hilter cấm việc mở trường học đi theo hướng khai phóng này.

Các nhà giáo dục tiên phong phải di cư sang Mỹ và thành lập trường Rudolf Steiner School đầu tiên tại New York (năm 1928).

Triết lý giáo dục Steiner

Nền giáo dục hiện ngay quá tập trung vào việc truyền đạt kiến thức, bồi đắp cho học sinh thêm sức cạnh tranh. Triết lý giáo dục Steiner khác hẳn: Nhấn mạnh vào 3 yếu tố cơ bản của con người: Suy nghĩ, Cảm xúc, và Ý chí.

Trong nền giáo dục Steiner, giáo viên được chỉ dẫn các phương pháp thực hành để phát triển ý chí cho trẻ qua các hoạt động học tập bằng trải nghiệm. Cấp mầm non tiểu học chủ yếu là các hoạt động chân tay. Sang cấp 2-3, Steiner chủ trương các dự án khoa học và nghệ thuật.

Triết lý giáo dục Steiner đơn giản nhưng rất thâm sâu:

Giáo dục không dựa vào thành tích: Nếu giáo dục phổ quát chú trọng vào việc truyền đạt kiến thức, tư duy logic thì giáo dục Steiner nhấn mạnh vào tầm quan trọng của 3 yếu tố: Suy nghĩ, cảm xúc và ý chí cá nhân.

Đánh giá con người không qua thành công, địa vị, tiền bạc…: Phương pháp giáo dục Steiner hướng đến tạo dựng những cá nhân không sợ hãi với nội tâm mạnh mẽ, có động lực phát triển đến từ đam mê bên trong, chứ không phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài.

Không áp đặt uy quyền, không cạnh tranh, không thưởng – phạt: Các trường học Steiner không có cạnh tranh, thi đua, không có thưởng-phạt. Tư tưởng cốt lõi là xây dựng động lực bên trong mỗi học sinh. Trẻ đến trường sẽ cảm nhận tình yêu thương, ấm áp từ lớp học, từ thầy cô…

Không phán xét: Học sinh Steiner thường được nhận xét là “Chơi nhiều hơn học”. Kỳ thực, việc dạy và học không tập trung vào kiến thức. Trẻ tiếp thu kiến thức, trải nghiệm nghệ thuật, tình yêu thiên nhiên qua hoạt động chơi. Từ đó, nuôi dưỡng ý chí, nuôi dưỡng năng lực và mong muốn làm việc của đứa trẻ qua từng giai đoạn.

Nuôi nấng trí tưởng tượng: Trẻ được học các môn rất phong phú: Thủ công, hội họa, điêu khắc, kịch nghệ… đến ngôn ngữ, toán học, khoa học,… Từ các trải nghiệm thực tế, trẻ sẽ nhận biết thế mạnh, sở thích và đam mê của mình.

Định hướng giáo dục

Phương pháp Steiner đặt vấn đề học từ giai đoạn thời thơ ấu thông qua sự bắt chước và ví dụ. Trẻ được học trong một môi trường lớp học giống như ở nhà, ở đó các cả thiết bị được làm từ tự nhiên. Một môi trường như thế theo lý thuyết giáo dục của Waldorf là tốt cho sự phát triển về thể chất, cảm xúc, cũng như trí óc của đứa trẻ.

Những trò chơi ngoài trời cũng được áp dụng một cách rộng rãi trong trường học với mục đích là để cung cấp cho trẻ những sự trải nghiệm của tự nhiên, thời tiết và mùa trong năm. Trong những ngôi trường Waldorf thì việc phát triển khả năng ngôn ngữ của trẻ là thông qua những bài hát, bài thơ hay trò chơi vận động. Những điều này bao gồm cả thời gian kể chuyện hàng ngày của giáo viên.

Phương pháp này khuyến khích trẻ tham gia vào những trò chơi tự do mang tính sáng tạo hơn là xem TV hoặc phim ảnh và chơi trên máy tính, vì những hoạt động này sẽ ngăn cản bé sử dụng 5 giác quan để trải nghiệm và tham gia một cách tích cực vào cuộc sống.

Đánh giá khoa học

Trong một công trình nghiên cứu tại châu Âu, người ta thấy rằng chỉ số sáng tạo của học sinh theo phương pháp giáo dục Steiner cao hơn học sinh nền giáo dục công. Học sinh Steiner cũng hạnh phúc với cuộc sống của mình, sống hòa đồng, bao dung và thích đóng góp cho xã hội hơn.

Nhiều khảo sát ở Mỹ gần đây cho thấy rằng trẻ lớp 4 thường cảm thấy chán với các môn học bởi vì không có sự mới lạ, nội dung đã được dạy trước từ thời mầm non. Hay như một giáo sư của Mỹ đã có một nhận xét rằng các sinh viên đến từ trường Waldorf đều có sự cân bằng và có sự khác biệt rất nhiều so với các sinh viên khác. Những sinh viên đến từ trường Waldorf đều có cá tính mạnh mẽ và sáng tạo nhưng rất quan tâm đến mọi người xung quanh. Khi những sinh viên này phát biểu trong lớp luôn tạo ra sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi người xung quanh. Thông thường các sinh viên có xu hướng thích môn lịch sử thì không thích các môn khoa học. Nhưng những sinh viên đến từ trường Waldorf luôn hứng thú với nhiều môn học khác nhau, như sinh vật, lịch sử, và khoa học, đồng thời.

Phát triển tư duy tình cảm cho trẻ

Phương pháp giúp trẻ phát triển trí óc, chú trọng đến tính cách, niềm đam mê, sáng tạo của trẻ. Phương pháp Stenier đặt tầm quan trọng vào ba yếu tố của con người: Suy nghĩ- Cảm xúc – Ý chí.

Trẻ được học trong một môi trường lớp học như ở nhà, thân thiện với thiên nhiên. Trường mầm non dạy theo phương pháp này thúc đẩy sự phát triển cảm xúc và trí óc của trẻ.

Trường mầm non dạy theo phương pháp Stenier được áp dụng nhằm cung cấp cho trẻ những sự trải nghiệm của đời sống. Bao gồm các yếu tố tự nhiên, thời tiết và các mùa trong năm. Những trường mầm non này phát triển khả năng ngôn ngữ của trẻ thông qua những bài hát, bài thơ hay trò chơi vận động. Bên cạnh đó có cả thời gian kể chuyện hàng ngày của giáo viên.

Lớp học theo phương pháp Steiner mang màu sắc cổ tích

Lớp học theo phương pháp Stenier là thế giới của trí tưởng tượng bay bổng. Các em cùng nhau vui đùa, hòa vào thế giới không có thực. Các món đồ chơi hoặc vật dụng bất kỳ được tận dụng làm sân khấu. Những vật dụng này có thể biến thành các vở diễn sinh động khác nhau.

Xây dựng kỹ năng xã hội

Học sinh Steiner hòa mình vào môi trường có tính gắn kết cộng đồng cao. Các em cùng nhau tham gia, cùng giáo viên hoạt động trong một tập thể thống nhất. Việc này được áp dụng trong rất nhiều các hoạt động khác nhau trong suốt một ngày của bé ở trường. Trẻ phát triển cái tôi cá thể trong cộng đồng chung, đó là cách các em học để giao tiếp với xã hội.

Giai đoạn mầm non (0 – 7 tuổi), giai đoạn phát triển bền vững cho cơ thể vật chất

Trẻ phát triển dựa trên sự bắt chước mà không hề có ý thức/suy nghĩ (imitation without consciousness). Giai đoạn này chính là nền tảng vững chắc để trẻ có thể phát huy tính sáng tạo của mình sau này. Các đồ chơi và vật dụng trong trường Waldorf thường là những miếng và/hoặc khúc gỗ, những tấm vải bằng cotton 100% hoặc lụa, những vỏ sò, vỏ ốc, những trái cây khô từ thiên nhiên, những con búp bê được làm từ vải cotton 100% hoặc lụa, … Tất cả những đồ chơi này giúp cho trẻ có thể tự do tưởng tượng trong thế giới mộng tưởng của mình. Sự tưởng tưởng (nền tảng của tính sáng tạo) bắt đầu được hình thành từ đây.

Ở giai đoạn 3-4 tuổi, trẻ có thể chơi với một miếng vải và hôm nay miếng vải đó có thể là một em bé bế trên tay nhưng ngày mai cũng miếng vải đó, nó là áo choàng của hoàng tử.

Ở giai đoạn 4-5 tuổi, trẻ có thể bắt đầu gom nhiều đồ chơi lại để tưởng tượng ra việc xây dựng một ngôi nhà, thông qua 1 miếng vải làm mái nhà, ghế hoặc kệ xếp lại gần làm tường, rồi trẻ sẽ sống trong thể giới mộng tưởng của mình bằng cách tự đóng vai ba, rồi làm vai mẹ.

Để từ đó, khi trẻ bước vào độ tuổi 5-6, trí tưởng tượng của trẻ phát triển hơn thông qua việc khi nghe kể chuyện, thông qua ngôn từ về câu chuyện, trẻ có thể tưởng tượng nhân vật trong truyện theo cách của riêng mình. Người giáo viên sẽ dùng nhiều mỹ từ để kể chuyện, và với trẻ này, nàng công chúa xinh đẹp trong trí tưởng tượng của mình là người có mái tóc vàng óng ả và mặc môt chiếc áo đầm màu xanh dương, nhưng với trẻ khác, nàng công chúa xinh đẹp trong trí tưởng tượng của mình là người có mái đen như mun và mặc một chiếc áo đầm hồng. Thế giới mộng tưởng và sự tưởng tượng trong giai đoạn này tạo nền tảng vững chắc cho trẻ phát triển tư duy sáng tạo sau này.

Giai đoạn tiểu học (7 – 14 tuổi), giai đoạn phát triển về tình cảm của trẻ

Trẻ phát triển cảm nhận về đời sống thông qua sự tưởng tượng và các hình thức nghệ thuật. Và điều quan trọng trong giai đoạn này chính là mối quan hệ con người. Trong giai đoạn này, trẻ được học chữ, học toán thông qua sự tưởng tượng.

Để bắt đầu học một chữ cái, giáo viên sẽ kể một câu chuyện gợi lên hình ảnh của chữ mà mình muốn dạy (hình ảnh về chữ đươc hình thành trong não trẻ) rồi sẽ có những trò chơi tương ứng để trẻ có thể hình dung rõ hơn về chữ đó và rồi thì trẻ mới bắt đầu viết chữ đó. Đồng thời, trẻ cũng được học những môn học nghệ thuật khác như là thổi sáo, chơi đàn dây, trống, vẽ màu nước và màu sáp, đan len, may vá, … Steiner cho rằng cái đẹp gây xúc cảm nơi tâm trí, từ đó đánh thức tư duy, nuôi dưỡng ý chí.

Quá trình phát triển tư duy trẻ rút ngắn từ con đường phát triển của loài người.

Ở Việt Nam, học sinh học về nguồn gốc Việt Nam, lịch sử Việt Nam rồi mới học về thế giới.

Ở Steiner, trẻ học huyền thoại, truyền thuyết, đến sự phát triển của đế chế Hy Lạp – La Mã, giai đoạn Phục hưng, và sau cùng mới là lịch sử hiện đại của dân tộc mình.

Học môn khoa học, trẻ bắt đầu tiếp cận với thế giới thực vật, động vật, khoáng vật, rồi mới đến con người.

Giai đoạn trung học (14 – 18 tuổi), giai đoạn phát triển tư duy của trẻ

Trẻ học bằng tư duy logic, tư duy trừu tượng, các vấn đề khoa học được đào sâu bằng tư duy phản biện.

Ở cấp học này, trẻ được làm khoa học thay vì chỉ học lý thuyết. Các thực nghiệm được học trong phòng thí nghiệm, nhà xưởng. Trẻ sẽ theo đuổi các dự án khoa học kéo dài nhiều tháng.

Các môn học nghệ thuật ở học sinh Trung học đạt đến trình độ chuyên nghiệp. Học sinh có thể thực hiện các tác phẩm nghệ thuật như một họa sỹ, một nhà điêu khắc, một nhạc công…

Việc chính của người giáo viên trong giai đoạn này của trẻ là giúp trẻ phát triển sự phát xét độc lập. Vì vậy, giáo viên không bao giờ đưa ra kết luận về một vấn đề mà luôn đưa ra nhiều khía cạnh khác nhau cho trẻ tiếp cận.

Từ giai đoạn mầm non, trẻ đã được tự do đặt câu hỏi cho mình và tự tìm câu trả lời cho chính câu hỏi đó. Đến giai đoạn tiểu học, trẻ được cảm nhận đời sống thông qua sự tưởng tượng được hình thành từ giai đoạn mầm non và thông qua các hình thức nghệ thuật. Nên đến giai đoạn trung học, trẻ chỉ cần tiếp cận vấn đề từ nhiều khía cạnh đa dạng thì tư duy sáng tạo của trẻ sẽ phát triển bền vững và phù hợp với từng độ tuổi. Đây là sự phát triển thuận tự nhiên, như chúng ta xây một ngôi nhà cần phải làm đi tuần tự các bước làm móng, xây tường rồi mới trang trí. Chúng ta không thể đảo lộn trình tự, xây tường, trang trí rồi mới làm móng hoặc song song vừa làm móng vừa xây tường và trang trí.

Đặc biệt khác với nền giáo dục phổ quát, với ảnh hưởng từ quan niệm thế giới là sự biểu đạt của ý chí, kiến thức nhân loại không chỉ là những kiến thức thu nhận bằng tư duy logic thông thường của Goethe và Schopenhauer, Steiner đưa ra chi tiết các phương pháp thực hành trong giảng dạy để phát triển ý chí của trẻ, ngay từ khi sinh ra cho đến lúc trưởng thành. Ông quan niệm đứa trẻ sinh ra vốn có một ý chí sống mãnh liệt, đó cũng là nguồn năng lượng để nuôi dưỡng đam mê, để đứa trẻ luôn có ý muốn, khát vọng và quyết tâm làm và làm cho được điều gì đó có ích, nhiệm vụ của giáo viên là nuôi dưỡng và phát triển cái chí này cho trẻ.

Giáo viên chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn để học sinh được học hỏi, khám phá bằng tất cả sự vui thích. Hoàn toàn không sử dụng đến uy quyền, hay áp đặt, phán xét.

Lúc đấy, giáo viên sẽ chỉ dẫn các phương pháp thực hành để phát triển ý chí cho trẻ qua các hoạt động học tập bằng trải nghiệm – các hoạt động chân tay ở tuổi mầm non và tiểu học, các dự án khoa học và nghệ thuật kéo dài nhiều tuần ở các lớp lớn hơn.

Các môn học ở Steiner cũng đa dạng, phong phú, không chỉ tập trung vào các môn vẫn được xem là “môn chính” như khoa học, ngôn ngữ, toán học mà còn có kịch nghệ, thủ công, hội họa, điêu khắc…

Bạn đang xem bài viết Phương Pháp Steiner Và Montessori trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!