Xem Nhiều 5/2023 #️ Thiết Bị Công Nghệ Hoá Học Và Thực Phẩm # Top 8 Trend | Sansangdethanhcong.com

Xem Nhiều 5/2023 # Thiết Bị Công Nghệ Hoá Học Và Thực Phẩm # Top 8 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Thiết Bị Công Nghệ Hoá Học Và Thực Phẩm mới nhất trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

1. Giới thiệu Bộ môn

Tên Bộ môn: Quá trình – Thiết bị Công nghệ Hoá học và Thực phẩm

Địa chỉ: VP Bộ môn nhà C4 – 108 – ĐHBK Hà Nội

ĐT: +84-4-38680121, Email: Địa chỉ email này đã được bảo vệ từ spam bots, bạn cần kích hoạt Javascript để xem nó.

Website: http://chemeng.hust.edu.vn/index.php/vi/bomon/qttb

Bộ môn hiện có 17 cán bộ, trong đó có 1 GS, 1 PGS, 8 TS, 6 ThS, 1 KS. Số cán bộ giảng dậy là 15, cán bộ phục vụ giảng dậy là 2.

Bộ môn đảm nhiệm giảng dậy môn cơ sở ngành (Cơ sở các quá trình và thiết bị trong công nghệ hoá chất và thực phẩm, phần 1, 2, 3 ,4), Đồ án môn học Quá trình và Thiết bị,  Phương pháp số trong Công nghệ Hóa học cho sinh viên ngành Kỹ thuật Hóa học. Ngoài ra, còn giảng dậy các môn chuyên ngành cho các lớp Quá trình – Thiết bị CN Hoá học.

2. Chuyên ngành đào tạo

Chuyên ngành Quá trình – Thiết bị Công nghệ Hoá học (tên tiếng Anh là Chemical Engineering) là một trong những chuyên ngành đào tạo của Viện Kỹ thuật Hoá học, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội.

Mục tiêu đào tạo:

– Đào tạo Kỹ sư ngành rộng. Kỹ sư ra trường có trình độ tổng hợp, được trang bị các kiến thức sâu về quá trình, thiết bị công nghệ hoá chất, có phương pháp làm việc khoa học, có khả năng thích ứng cao và có năng lực sáng tạo trong nghiên cứu các quá trình và thiết bị công nghệ hoá chất và thực phẩm để phục vụ tốt trong những lĩnh vực công nghiệp khác nhau.

– Trang bị cho SV phương pháp tư duy, các nguyên lý và quy luật của Công nghiệp Hoá chất, các phương pháp chuyển qui mô thiết bị, năng lực tính toán và thiết kế các loại thiết bị và hệ thống thiết bị trong công nghiệp hoá chất, hoá dầu, thực phẩm và xử lý môi trường công nghiệp.

– Trang bị cho SV các phương pháp mô hình hoá và tối ưu hoá các quá trình công nghệ hoá chất. Khả năng lập trình để tính toán và tối ưu hoá các quá trình và thiết bị của các ngành công nghệ hoá chất. Trên cơ sở các kiến thức đã được trang bị SV có thể cải tiến hoặc thiết kế mới thiết bị cũng như đưa ra được các chế độ công nghệ tối ưu.

Sau khi tốt nghiệp, SV chuyên ngành Quá trình – Thiết bị công nghệ Hoá học có thể làm việc có hiệu quả ở các viện nghiên cứu, các trường đại học và các nhà máy, cơ sở sản xuất trong nhiều lĩnh vực như sản xuất chế biến hoá chất, lọc hoá dầu, công nghiệp thực phẩm, xử lý môi trường … Đến nay, số kỹ sư, thạc sĩ và tiến sĩ chuyên ngành đã và đang phát huy rất tốt trên nhiều lĩnh vực khác nhau và giữ những vai trò chủ chốt ở nhiều đơn vị công tác.

Phương Pháp Kjeldahl – Thiết Bị Khoa Học Công Nghệ

Phương pháp Kjeldahl hoặc quá trình tiêu hóa Kjeldahl (Phát âm tiếng Đan Mạch: [kɛldæːˀl]) trong hóa học phân tích là phương pháp xác định định lượng nitơ chứa trong các chất hữu cơ cộng với nitơ trong amoni vô cơ và amoni (NH3 / NH4 +). Các dạng khác của nitơ vô cơ, ví dụ nitrate, không được bao gồm trong phép đo này. Phương pháp này được phát triển bởi Johan Kjeldahl năm 1883. 

Phương pháp  Phương pháp này bao gồm sưởi ấm một chất với axít sulfuric, phân hủy các chất hữu cơ bằng quá trình oxy hóa để giải phóng lượng nitơ giảm như amoni sulfat. Trong bước này, kali sulphat được thêm vào để tăng điểm sôi của môi trường (từ 337 ° C đến 373 ° C). Sự phân hủy hoá học của mẫu hoàn tất khi môi trường ban đầu rất tối đã trở nên rõ ràng và không màu. Dung dịch này sau đó được chưng cất với một lượng nhỏ natri hydroxyd, chuyển muối amoni thành ammonia. Lượng amoniac hiện diện, và do đó lượng nitơ có trong mẫu, được xác định bằng phép chuẩn độ. Sự kết thúc của bình ngưng được nhúng vào một dung dịch axit boric. Amoniac phản ứng với axit và phần còn lại của axit sau đó được điều chỉnh bằng dung dịch natri cacbonat bằng chỉ thị pH methyl màu da cam.

Suy thoái: Mẫu + H2SO4 → (NH4) 2SO4 (aq) + CO2 (g) + SO 2 (g) + H 2O (g) Giải phóng amoniac: (NH4) 2SO4 (aq) + 2NaOH → Na2SO4 (aq) + 2H2O (l) + 2NH3 (g) Chụp amoniac: B (OH) 3 + H2O + NH3 → NH4 + + B (OH) 4- Phản ứng ngược: B (OH) 3 + H2O + Na2CO3 → NaHCO3 (aq) + NaB (OH) 4 (aq) + CO2 (g) + H 2O Trong thực tế, phân tích này phần lớn là tự động; chất xúc tác cụ thể đẩy nhanh sự phân hủy. Ban đầu, chất xúc tác được lựa chọn là thủy ngân oxit. Tuy nhiên, trong khi hiệu quả rất cao, mối quan tâm về sức khoẻ đã dẫn đến thay thế bằng sulfat cốc. Sulfat cricric không hiệu quả như oxit thủy ngân, và mang lại kết quả protein thấp hơn. Nó đã sớm được bổ sung với titanium dioxide, chất xúc tác được chấp nhận trong tất cả các phương pháp phân tích protein trong các phương pháp chính thức và các thực tiễn được khuyến cáo của AOAC International.

Các ứng dụng  Tính phổ quát, tính chính xác và khả năng lặp lại của phương pháp Kjeldahl đã làm cho nó trở thành phương pháp được quốc tế công nhận để đánh giá hàm lượng protein trong thực phẩm và nó là phương pháp tiêu chuẩn để đánh giá tất cả các phương pháp khác. Nó cũng được sử dụng để khảo nghiệm đất, nước thải, phân bón và các vật liệu khác. Tuy nhiên, nó không đưa ra một đánh giá về hàm lượng protein thực, vì nó đo nitơ nonprotein ngoài lượng nitơ trong protein. Điều này được chứng minh bởi sự kiện thức ăn cho vật nuôi năm 2007 và vụ sữa bột sữa Trung Quốc năm 2008, khi melamine, một hóa chất giàu nitơ đã được thêm vào nguyên liệu để giả mạo hàm lượng protein cao. Ngoài ra, các yếu tố điều chỉnh khác nhau là cần thiết cho các protein khác nhau để giải thích cho các trình tự axit amin khác nhau. Các bất lợi khác, như sự cần thiết phải sử dụng axit sulfuric tập trung ở nhiệt độ cao và thời gian thử nghiệm tương đối dài (một giờ hoặc nhiều hơn), so sánh không thuận lợi với phương pháp Dumas để đo lượng protein thô

Tổng lượng nitơ Kjeldahl  Nitơ tổng số Kjeldahl hoặc TKN là tổng nitơ trong các chất hữu cơ, nitơ trong amoniac (NH3-N) và trong ammonium (NH4 + -N) trong phân tích hóa học đất, nước hoặc nước thải (ví dụ nước thải của nhà máy xử lý nước thải) ).

Ngày nay, TKN là một tham số bắt buộc đối với việc báo cáo về quy định tại nhiều nhà máy xử lý, và như một phương tiện giám sát hoạt động của nhà máy.

Các yếu tố chuyển đổi  TKN thường được sử dụng làm chất thay thế cho protein trong các mẫu thực phẩm. Sự chuyển đổi từ TKN sang protein phụ thuộc vào loại protein hiện diện trong mẫu và phần nào của protein bao gồm các axit amin nitơ, như arginine và histidine. Tuy nhiên, phạm vi của các yếu tố chuyển đổi tương đối hẹp. Các yếu tố chuyển đổi ví dụ, được gọi là các yếu tố N, cho thực phẩm dao động từ 6,38 cho sữa và 6,25 cho thịt, trứng, ngô và lúa miến đến 5,83 cho hầu hết ngũ cốc; 5.95 đối với gạo, 5.70 đối với bột mì, và 5.46 đối với đậu phộng 

Độ nhạy  Phương pháp Kjeldahl kém nhạy với phiên bản ban đầu. Các phương pháp phát hiện khác đã được sử dụng để định lượng NH4 + sau khi khoáng hoá và chưng cất, đạt được độ nhạy cao: máy phát điện dòng trong hydride kết hợp với một quang phổ phát xạ plasma nguyên tử (ICP-AES-HG, 10-25 mg / L),  Potentiometric (0,1 mg nitơ), điện di mao mạch (1,5 μg / ml nitơ),và sắc ký ion (0,5 μg / ml) 

Hạn chế 

Phương pháp Kjeldahl không áp dụng đối với các hợp chất có chứa nitơ trong các nhóm nitro và azzo và nitơ có trong các vòng (như [[pyridin], quinolin, izoquinolin]) vì nitơ của các hợp chất này không chuyển thành sulfat amoni trong các điều kiện của phương pháp này.

Sở Khoa Học Công Nghệ

Nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành tại địa phương, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong việc chỉ đạo, quản lý và thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quyền trẻ em. Đồng thời, tạo điều kiện tốt nhất nhằm từng bước đáp ứng nhu cầu về các quyền cơ bảncủa trẻ em, ngăn chặn, đẩy lùi các nguy cơ xâm hại trẻ em, xây dựng môi trường an toàn, lành mạnh để trẻ em có cơ hội được bảo vệ, chăm sóc, giáo dục và phát triển toàn diện về mọi mặt, có cuộc sống ngày càng tốt hơn. UBND tỉnh Hậu Giang ban hành Kế hoạch thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn Tỉnh năm 2020

Theo đó, Phấn đấu trên 90% trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và trẻ em có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt được trợ giúp được trợ giúp, chăm sóc để phục hồi, tái hòa nhập và có cơ hội phát triển. Giảm tỷ suất trẻ em bị tử vong do tai nạn, thương tích xuống còn 17/100.000 trẻ em; phấn đấu giảm số trẻ em bị tử vong do đuối nước so với năm 2019; phấn đấu giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng dưới 11%; 100 % xã, phường, thị trấn bố trí người làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã trong số công chức, người hoạt động không chuyên trách; phát triển mạng lưới cộng tác viên bảo vệ trẻ em tại các ấp, khu vực, địa bàn dân cư theo quy định của Luật Trẻ em; Đảm bảo 100% trẻ em sinh ra trong năm được cấp thẻ bảo hiểm y tế và phấn đấu giảm tình trạng trẻ em bị xâm hại; 100% trẻ em bị xâm hại khi phát hiện được quản lý kịp thời.

Để thực hiện được các mục tiêu đề ra, cần triển khai thực hiện các giải pháp:

+ Truyền thông, giáo dục, vận động xã hội nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức và kỹ năng bảo vệ, chăm sóc trẻ em cho chính quyền các cấp, các tổ chức, gia đình, nhà trường, cộng đồng xã hội và bản thân trẻ em:

– Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thực hiện quyền trẻ em theo Luật Trẻ em, Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09 tháng 5 năm 2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trẻ em và các chế tài xử lý các hành vi vi phạm quyền trẻ em, xâm hại trẻ em theo quy định của pháp luật hình sự, xử lý vi phạm hành chính, phòng, chống bạo lực gia đình…

– Thực hiện công tác truyền thông, tư vấn kỹ năng cho cha mẹ, gia đình và trẻ em về kỹ năng phòng, chống xâm hại, tai nạn thương tích trẻ em.

– Tăng cường quảng bá rộng rãi Tổng đài điện thoại quốc gia bảo vệ trẻ em (Tổng đài 111) bằng nhiều hình thức.

– Tiếp tục triển khai các hoạt động truyền thông qua cơ quan Báo, đài, sinh hoạt đoàn thể, tờ rơi, áp phích, panô, nói chuyện chuyên đề,hội thi, hội diễn, tọa đàm,…

+Triển khai các Chương trình, Kế hoạch bảo vệ, chăm sóc trẻ em giai đoạn 2016 -2020 đã được ban hành, trong đó tập trung một số nội dung chủ yếu sau: Tiếp tục nắm bắt tình hình, thông tin kịp thời, tích cực chỉ đạo, phối hợp giải quyết các vụ việc bạo lực, xâm hại tình dục, tai nạn thương tích trẻ em; phối hợp, xử lý thông tin kịp thời giữa địa phương với các cơ quan bảo vệ trẻ em và Tổng đài 111 trong việc xác minh, hỗ trợ, can thiệp các vụ việc xâm hại trẻ em; Xây dựng, củng cố hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em; thực hiện các Chương trình, Đề án về trẻ em; Tổ chức các lớp tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý, cung cấp dịch vụ, người làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã, cộng tác viên; cho cha mẹ, người chăm sóc trẻ em và trẻ em về kiến thức, kỹ năng bảo vệ trẻ em; Duy trì hoạt động thu thập thông tin, theo dõi, đánh giá việc thực hiện Luật Trẻ em, pháp luật, chính sách, mục tiêu, chỉ tiêu về trẻ em tại địa phương; tiếp tục hoàn thiện cơ sở dữ liệu về trẻ em vào phần mềm quản lý trẻ em ở cơ sở; Tiếp tục thực hiện Đề án Hỗ trợ trẻ em khuyết tật tiếp cận các dịch vụ bảo vệ, chăm sóc, giáo dục tại cộng đồng giai đoạn 2019 – 2025 và Đề án Chăm sóc vì sự phát triển toàn diện trẻ em trong những năm đầu đời tại gia đình và cộng đồng giai đoạn 2019 – 2025 trên địa bàn Tỉnh.

Trần Thanh

Khoa Học Và Công Nghệ: Khác Nhau Chỗ Nào?

Mỗi ngày tôi nghe và đọc, thậm chí dùng những từ như scientific, technique, và technology khá thường xuyên. Từ những bài báo khoa học, đến bài giảng của khách mời, ai cũng nói đến những khái niệm hơi mới như genetic technology, biotechnology, genotyping technology, genotyping technique, genetic engineering, v.v. nhưng ít khi nào thấy người sử dụng những từ ngữ này phân biệt rành rọt. Có lẽ đó là lĩnh vực của các chuyên gia về triết học của khoa học (philosophy of science).

Định nghĩa theo Oxford

Tất cả những từ này (technology, technique, science) xuất phát từ tiếng Anh, nên có lẽ chúng ta bắt đầu bằng … từ điển. Từ điển chuẩn tiếng Anh có lẽ là Oxford. Từ điển Oxford giải thích như sau:

Technology: the application of scientific knowledge for practical purposes, especially in industry (tạm dịch: ứng dụng tri thức khoa học vào các mục đích thực tiễn, đặc biệt là kĩ nghệ). Từ điển Oxford còn cho biết từ này xuất hiện từ đầu thế kỉ 17, có nguồn gốc tiếng Hi Lạp (dĩ nhiên) tekhnologia có nghĩa là “systematic treatment”, và chữ này xuất phát từ danh từ tekhnē có nghĩa là “art, craft”.

Technique: a way of carrying out a particular task, especially the execution or performance of an artistic work or a scientific procedure (tạm dịch: cách thực hiện một công việc cụ thể, đặc biệt là thực thi hay biểu diễn một tác phẩm nghệ thuật hay một qui trình khoa học). Từ này xuất hiện vào đầu thế kỉ 19, từ tiếng Latin technicus.

Có thể tóm lược vài ý chính chung quanh hai từ đó như sau:

Technique (kĩ thuật) Kĩ thuật là khả năng thực hành công việc một cách hữu hiệu. Kĩ thuật đề cập đến kĩ năng của một người thợ, luật sư, bác sĩ, nhạc sĩ, v.v. Đó là những ứng dụng những “know-how” được tích luỹ từ kinh nghiệm thực tế. Người quan tâm đến kĩ thuật không cần biết tại sao có hiệu quả, mà chỉ biết làm việc có hiệu quả.

Technology (công nghệ) Technology có cái đuôi -ology, tức là thuộc về lĩnh vực lí thuyết, học thuật (như theology, sociology, psychology, biology, v.v.). Nói đến công nghệ là đề cập đến một lĩnh vực có dáng dấp khoa học, có dựa vào lí thuyết. Kĩ thuật không quan tâm đến lí thuyết bằng công nghệ. Đối với công nghệ, vấn đề không chỉ là thực hành có hiệu quả, mà còn phải lí giải tại sao có hiệu quả. Công nghệ phải biết cái tại sao mình muốn biết.

Tôi nghĩ một ví dụ tiêu biểu nhất có lẽ là genotyping technique và genotyping technology. Có lẽ tạm dịch hai thuật ngữ đó là kĩ thuật phân tích gene và công nghệ phân tích gene. Khi nói đến kĩ thuật phân tích gene, có lẽ chúng ta nghĩ ngay đến những kĩ thuật “cổ điển” như RFLP (tức kĩ thuật cắt mảng DNA thành nhiều mảng nhỏ bằng enzyme), t-RFLP, AFLP, hay thậm chí MLPA. Những kĩ thuật này chỉ phân tích một số ít gene hay marker của gene. Nhưng ngày nay, công nghệ phân tích gene có thể phân tích hàng trăm ngàn marker, và những công nghệ này có thể là DNA microarrays của Illumina hoặc Affymetrix (cả hai đều của Mĩ).

NVT (1) Tôi hơi ngạc nhiên về cái danh xưng “Bộ Khoa học và Công nghệ”, nên thử tìm hiểu trên mạng xem gốc của nó từ đâu. Kết quả cho thấy bên Tàu, họ cũng có một bộ y chang như ta (tức là Ministry of Science and Technology of the People’s Republic of China và website cũng giống như VN ta: http://www.most.gov.cn). Ấn Độ, Pakistan, Sri Lanka, Iran, Thái Lan cũng có một bộ cùng tên (Ministry of Science and Technology).

Vài khác biệt giữa khoa học và công nghệ (sưu tầm)

Bạn đang xem bài viết Thiết Bị Công Nghệ Hoá Học Và Thực Phẩm trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!