Xem Nhiều 4/2023 #️ Tìm Hiểu Nguyễn Du Và Truyện Kiều # Top 13 Trend | Sansangdethanhcong.com

Xem Nhiều 4/2023 # Tìm Hiểu Nguyễn Du Và Truyện Kiều # Top 13 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Tìm Hiểu Nguyễn Du Và Truyện Kiều mới nhất trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Tác giả Nguyễn Du (1765-1820) tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiện, quê ở Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông xuất thân trong một gia đình đại quý tộc thời Lê, có truyền thống văn học. Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ làm tể tướng. Anh là Nguyễn Khản, đỗ tiến sĩ, làm đại quan trong phủ chúa. Triều Lê – Trịnh sụp đổ, Nguyễn Du trôi giạt về quê vợ ở Thái Bình suốt “mười năm gió bụi” rồi về sống ở Hà Tĩnh quê nhà, sống ẩn giật, tự xưng là “Nam Hải điếu đổ”, “Hồng Sơn liệp hộ”. Tây Sơn đổ, Gia Long thiết lập triều đại mới. Năm 1802, Gia Long triệu ông ra àm quan cho nhà Nguyễn. Năm 1813, Nguyễn Du được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc, có lúc giữ chức Tham tri bộ Lễ, Cần chánh điện đại học sĩ. Tác phẩm 1. – Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh). – Văn chiêu hồn (Văn tế thập loại chúng sinh) – Thác lời trai phường Nón. 2. Thơ chữ Hán: – Thanh Hiên thi tập. – Nam trung tạp ngâm. – Bắc hành tạp lục. Truyện Kiều 1. Nguyễn Du dựa vào cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, đời Thanh Trung Quốc để sáng tạo ra truyện Kiều, dài 3254 câu thơ lục bát, kiệt tác số một, “tập đại thành” của nền thơ ca cổ điển Việt Nam. 2. Cốt truyện Về đời Minh, có gia đình Vương Viên ngoại ở Bắc Kinh sinh thành được ba người con: Thuý Kiều, Thuý Vân, Vương Quan. Hai chị em Kiều nhan sắc tuyệt trần, riêng Kiều còn có tài thi hoạ, ca, ngâm. Nhân ngày hội Đạp Thanh ba chị em Kiều đi chơi xuân, gặp một văn nhân tên là Kim Trọng “tình trong như đã mặt ngoài còn e”. Kim Trọng tìm cách gặp gỡ Kiều, nhờ cành kim thoa mà hai người ước hẹn, thề nguyền dưới trăng “trăm năm tạc mộ chữ đồng đến xương”. Kim Trọng phải về Liễu Dương hộ táng chú. Gia đình Kiều gặp tai biến, Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền chuộc cha. Nàng trao duyên cho Thuý Vân rồi theo họ Mã về Lâm Trụy. Kiều mắc lận Sở Khanh, bị Tú Bà làm nhục. Kiều vào lầu xanh lần thứ nhất. Kiều được Thúc Sinh chuộc ra lấy làm vợ lẽ. Hoạn Thư đánh ghen. Kiều bỏ trốn khỏi nhà Hoạn Thư, lại rơi vào tay Bạc Bà, Bạc Hạnh. Kiều vào lầu xanh lần thứ hai tại Châu Thai. Kiều được Từ Hải chuộc, lấy từ Hải trở thành mệnh phụ phu nhân. Kiều báo ân báo oán. Kiều và Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến. Từ Hải bị giết chết, Kiều bị ép lấy viên thổ quan, nàng nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử nhưng được cứu thoat rồi đi tu. Kim Trọng trở lại vườn Thuý, kết duyên với Thuý Vân. Kim Trọng và Vương Quan thi đỗ được bổ đi làm quan. Cả gia đình qua sông Tiền Đường may mắn gặp vãi Giác Duyên, tìm đến ngôi chùa Kiều đi tu. Kiều gặp lại cha mẹ, hai em và chàng Kim sau 15 năm trời lưu biệt… 3. Giá trị nội dung a. Giá trị tố cáo hiện thức: lên án xã hội phong kiến thối nát, những thế lực hắc ám tàn bạo, dã man đã chà đạp lên quyền sống và hạnh phúc con người như bọn quan lại tham ô thối nát, bọn buôn thịt bán người, bọn ma cô lưu manh tàn ác; lên án mặt trái của đồng tiền hôi tanh… b. Giá trị nhân đạo: xót thương cho nỗi đau khổ của con người, tài sắc bị dập vùi, nói lên ước mơ về hạnh phúc, tự do và công bằng, đề cao quyền sống của con người, v.v… 4. Giá trị nghệ thuật a. Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, tạo ra những mẫu người với những tính cách tiêu biểu cho cái đẹp, cái xấu, cái thiện, cái ác… trong xã hội phong kiến suy tàn, thối nát. b. Nghệ thuật tự sự, hấp dẫn, cảm động, tạo ra những tình huống, những bi kịch. Lúc miêu tả, lúc tả cảnh ngụ tình, lúc đối thoại, câu truyện về nàng Kiều diễn biến qua trên ba nghìn câu thơ liền mạch. c. Ngôn ngữ thi ca: Nguyễn Du đã kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ bác học, sử dụng điển tích, thi liệu văn học cổ Trung Hoa với ca dao, tục ngữ, thành ngữ… nâng lên thành một ngôn ngữ văn chương trong sáng, trau chuốt, mượt mà, mẫu mực. Cho đến nay chưa có nhà thơ Việt Nam nào viết thơ lục bát trên ba nghìn câu hay bằng Nguyễn Du. “Truyện Kiều” xứng đáng là “tiếng thương như tiếng mẹ du những ngày” (Tố Hữu). Những ý kiến, những lời thơ hay và đẹp nói về “Truyện Kiều”

1 … “Tố Hữu tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có cái mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thi tài nào có cái bút lực ấy…”

2… “Ngọc diện khởi ưng mai thuỷ quốc Băng tâm tự khả đối Kim Lang…”

“Mặt ngọc nỡ sao vùi đáy nước, Lòng trinh không thẹn với Kim Lang”

3… Mười năm qua, nay trở lại hoà bình. Trăng ly biệt lại đoàn viên trước cửa. Cảo thơm đặt trước đèn, tôi giở Mỗi trang Kiều rung một bóng trăng thanh. Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc Sắc tài sao mà lại lắm truân chuyên Cành xuân phải trao tay khi nước mất Cỏ bên trời xanh một sắc Đạm Tiên. Bỗng quý cô Kiều như đời dân tộc Chữ kiên trinh vượt trăm sóng Tiền Đường Chàng Kim đã đến tìm, lau giọt khóc Và lò trầm đêm ấy toả bay hương…

(“Đọc Kiều”- Chế Lan Viên)

4… Trải qua một cuộc bể dâu Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình Nỗi chìm kiếp sống lênh đênh Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều…

(“Bài ca mùa xuân 1961”- Tố Hữu).

5… Tiếng thơ ai động đất trời Nghe như non nước vọng lời ngàn thu Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du, Tiếng thương như tiếng mẹ ru mhững ngày. Hỡi Người xưa của ta nay, Khúc vui xin lại so đây cùng Người!

(“Kính gửi cụ Nguyễn Du”- Tố Hữu)

Tìm Hiểu Chi Tiết: Nguyễn Du Và Truyện Kiều

– Nguyễn Du (1765 – 1820), tên chữ Tố Như, hiệu Thanh Hiên. Quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

+ Cha ông là Nguyễn Nghiễm, từng làm tể tướng 15 năm.

+ Anh trai cùng cha khác mẹ – Nguyễn Khản cũng làm đến chức Tham Tụng (ngang với Tể Tướng).

+ Năm 10 tuổi ông mồ côi cha.

+ Năm 12 tuổi ông tuổi mồ côi mẹ.

+ Nguyễn Du phải sống cùng người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản.

+ Khi triều Lê – Trịnh sụp đổ, nhà Tây Sơn lên thay, Nguyễn Du phải phiêu bạt 10 năm nơi đất Bắc (10 năm gió bụi), rồi về ở ẩn tại Hà Tĩnh. Đây là những năm tháng ông sống trong cảnh nghèo đói, túng bấn và tủi nhục.

+ Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, Nguyễn Du bất đắc chí phải ra làm quan và giữ nhiều trọng trách quan trọng. Ông hai lần được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc nhưng lần thứ hai, ông chưa kịp đi thì lâm bệnh nặng rồi mất tại Huế năm 1820.

– Sớm phải chịu cảnh mồ côi, nên cuộc đời ông trải qua nhiều gian truân, trôi dạt, long đong. Đặc biệt là ” mười năm gió bụi“, được tiếp xúc với nhiều kiểu người, chứng kiến nhiều cảnh đời và nhiều số phận khác nhau. Chính những vốn sống thực tế phong phú và niềm cảm thông sâu sắc đó đã tạo cho ông cảm hứng để sáng tác nên nhiều tác phẩm văn học giá trị.

– Truyền thống thi thư của gia đình đã cho ông năng khiếu văn học. Nhưng hơn tất cả, Nguyễn Du còn là người có một trái tim giàu yêu thương và một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế luôn cảm thông cho những đau thương, cực khổ của nhân dân.

– Nguyễn Du – Đại thi hào của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, ông đã có đóng góp to lớn đối với sự phát triển của văn học dân tộc.

+ Các tác phẩm chữ Nôm: Có 2 kiệt tác: Văn tế thập loại chúng sinh và Đoạn trường tân thanh (” Truyện Kiều “).

– ” Truyện Kiều” được Nguyễn Du viết vào khoảng đầu thế kỉ XIX (1805 – 1809). Nó là tác phẩm tiêu biểu nhất của thể loại thơ Nôm được viết bằng thơ lục bát, gồm 3254 câu.

– ” Truyện Kiều” có nguồn gốc từ một truyện bên Trung Quốc: Kim Vân Kiều Truyện của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân – một tác phẩm văn xuôi viết chữ Hán, có kết cấu chương hồi. Sau đó, được Nguyễn Du “hoán cốt đoạt thai“. Lúc đầu truyện có tên là ” Đoạn trường tân thanh ” (Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột).

Phần thứ nhất: Gặp gỡ và đính ước

Gia đình Vương Viên Ngoại thuộc tầng lớp trung lưu có ba người con: Thúy Kiều, Thúy Vân và Vương Quan. Thúy Kiều là chị, nàng nổi tiếng là người con gái tài sắc vẹn toàn. Trong buổi du xuân nhân tiết thanh minh, nàng gặp Kim Trọng – một con người hào hoa, phong nhã. Giữa hai người nhanh chóng nảy sinh những tình cảm tốt đẹp. Sau đó, hai người chủ động thề nguyện đính ước chung thủy với nhau suốt đời.

Phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc

Kim Trọng về chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan. Nàng phải dứt tình với Kim Trọng, bán mình cứu cha và em. Nàng rơi vào tay Mã Giám Sinh, Tú Bà, bọn trùm lầu xanh. Đau khổ, Kiều tự vẫn nhưng không thành rồi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Nàng bị Sở Khanh lừa, bị bắt, bị đánh đập và phải chịu tiếp khách làng chơi. Nàng gặp Thúc Sinh, một người buôn bán giàu có, chuộc nàng về làm vợ lẽ. Nhưng nàng lại bị Hoạn Thư bày mưu bắt về đánh đập, bắt làm con ở để hầu đàn, hầu rượu. Kiều lại bỏ trốn khỏi nhà Hoạn Thư và nương nhờ nơi cửa Phật. Song sư Giác Duyên lại vô tình gửi nàng cho Bạc Bà – kẻ buôn người, để lần thứ hai Kiều lại rơi vào lầu xanh. Lần này Kiều gặp Từ Hải, người anh hùng trí dũng song toàn. Nhờ uy Từ Hải, Kiều đã báo được ân, trả được oán. Chẳng bao lâu, Từ Hải mắc mưu Hồ Tôn Hiến mà chết. Kiều bị làm nhục, bị ép gả cho Thổ Quan. Quá tủi cực, Kiều tự vẫn ở sông Tiền Đường nhưng được Giác Duyên cứu sống và lần thứ hai nàng nương nhờ cửa Phật.

Sau khi đỗ đạt làm quan, Kim Trọng đã cất công ròng rã đi tìm Kiều. Đến sông Tiền Đường, biết nàng tự vẫn, Kim Trọng đã lập đàn giải oan cho nàng. Tình cờ sư Giác Duyên đi qua mà Kim, Kiều tìm được nhau và đoàn tụ với gia đình.

a. Giá trị hiện thực

– ” Truyện Kiều” còn là bức tranh hiện thực về số phận những con người bị chà đạp, áp bức, đau khổ, đặc biệt là bi kịch của người phụ nữ thông qua nhân vật Thúy Kiều.

b. Giá trị nhân đạo

Đây là giá trị cơ bản của tác phẩm, được thể hiện trên các phương diện sau:

– ” Truyện Kiều” là tiếng nói tố cáo, lên án chế độ phong kiến, các thế lực xấu xa, tàn bạo chà đạp lên quyền sống của con người.

” Truyện Kiều ” là sự kết tinh của những thành tựu văn học dân tộc trên các phương diện:

a. Nghệ thuật tự sự có bước phát triển vượt bậc: Nghệ thuật kể chuyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật tả cảnh.

++ Nhân vật chính diện xây dựng theo lối lí tưởng hóa bằng thủ pháp ước lệ: Miêu tả nhân vật Thúy Vân, Nguyễn Du viết: ” Vân xem trang trọng khác vời/ Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang“; còn nhân vật Từ Hải: ” Râu hùm, hàm én, mày ngài/ Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao “.

++ Ngoại hình Thúy Vân: ” Vân xem trang trọng khác vời/ Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang ” gợi lên sự trầm tĩnh, dịu dàng, đoan trang, quý phái.

++ Ngoại hình Thúy Kiều: ” Làn thu thủy nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh ” gợi một tâm hồn qua đôi mắt đa sầu, đa cảm.

++ Miêu tả Thúy Vân: “Hoa cười ngọc thốt đoan trang/ Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da” đã tiên đoán về một cuộc đời êm đềm, ít sóng gió.

++ Miêu tả Thúy Kiều: ” Làn thu thủy nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” cho thấy sự hậm hực, ” ghen”, “hờn ” của tạo hóa trong câu thơ đã dự báo một cuộc đời đầy sóng gió, gian truân phía trước đang chờ Kiều.

++ Miêu tả Từ Hải: ” Quyết lời dứt áo ra đi/ Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi “, hành động dứt khoát, mạnh mẽ của một đấng trượng phu.

++ Tả cảnh thiên nhiên bằng các chi tiết tạo hình: ” Ngày xuân con én đưa thoi/ Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi“.

b. Nghệ thuật ngôn từ và thể loại đạt đến đỉnh cao

– Ngôn từ ” Truyện Kiều” là ngôn ngữ tinh hoa của dân tộc nên trong sáng, mĩ lệ và dồi dào sắc thái biểu cảm.

– Ngôn ngữ ” Truyện Kiều” không chỉ có chức năng biểu đạt (phản ánh), (bộc lộ cảm xúc) mà còn có chức năng thẩm mĩ (vẻ đẹp của ngôn từ).

– Ngôn ngữ ” Truyện Kiều” kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học, tạo thành thứ ngôn ngữ thơ ca vừa vừa trang nhã, giản dị.

– Sử dụng thể thơ lục bát – thể thơ của dân tộc Việt Nam đã đạt đến đỉnh cao.

– Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một bậc thầy về nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Ông đã có đóng góp to lớn đối với sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc Việt Nam.

– ” Truyện Kiều ” đạt đến đỉnh cao về mặt nghệ thuật để xứng đáng là kiệt tác của muôn đời.

Tìm Hiểu Nguyễn Du Và Sưu Tầm “Truyện Kiều” Để Hướng Tới Phục Nguyên Văn Bản “Truyện Kiều”

Đại thi hào dân tộc Việt Nam Nguyễn Du (1765-1820) là tác giả của các thi phẩm chữ Hán: Thanh Hiên tiền hậu tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc Hành thi tập và các tác phẩm chữ Nôm: “Văn chiêu hồn”, “Văn tế Trường Lưu nhị nữ”, “Thác lời trai phường nón” và đặc biệt là kiệt tác: Đoạn trường Tân Thanh ( Truyện Kiều) đã nâng tầm Nguyễn Du bước ra đại lộ văn minh nhân loại. Năm 1965, Hội đồng hòa bình thế giới đã quyết nghị kỷ niệm 200 năm, năm sinh của thi hào Nguyễn Du cùng với các danh nhân văn hóa: Nhà thơ La Mã Horace, nhà thơ Ý Dante, nhà bác học và nhà thơ Nga Lomonosov…

Năm 2015, tổ chức Giáo dục – Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã có Nghị quyết số 37C/15 về việc tổ chức lễ Kỷ niệm 250 năm, ngày sinh của Nguyễn Du, thi hào dân tộc Việt Nam với sự tham gia của UNESCO trong niên độ 2014 – 2015.

Nguyễn Du là con trai thứ 7 của Hoàng Giáp Xuân quận công – Đại tư đồ – Tể tướng Nguyễn Nghiễm (1708-1776) và bà Trần Thị Tần (1740-1778) dòng dõi quan Tiến sĩ Trần Ngạn Húc (1540-1581), Tiến sĩ Trần Phi Chiêu (1549-1623); là em trai của Tiến sỹ – Nhập thị tham tụng Nguyễn Khản (1734-1786). Gia đình danh gia vọng tộc quan Tể tướng được ban tặng bức đại tự “Nhị thân phụ tử” và đôi câu đối “Lưỡng triều danh Tể tướng – Nhất thế đại nho sư” và quan chánh sứ của vua Càn Long nhà Thanh tặng bức hoành phi “Dịch thế thư hương”.

Thi hào Nguyễn Du lúc nhỏ dáng mạo khôi ngô hùng vĩ, được Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc trông thấy cho là khác thường, ban cho một thanh bảo kiếm. Sau khi đỗ tam trường, vì đất nước loạn lạc nên ông nhậm chức: Chánh thủ hiệu đội quân Hùng hậu hiệu đóng ở Thái Nguyên. Thi hào Văn võ toàn tài được người đời xếp vào “An Nam ngũ tuyệt”, “Nhất đại tài hoa”, “Đại gia văn tự thế tranh truyền”.

Vừa qua, khi sưu tầm được tập thơ Lưu Hương ký của bà Chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương thấy có bài: “Cảm cựu kiêm trình Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu” với dòng chú “Hầu, Nghi Xuân Tiên Điền nhân” có câu thơ:

Chữ tình chốc đã ba năm vẹn

Giấc mộng rồi ra nửa khắc không

[…]

Biết còn mảy chút sương siu mấy

Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong

và sau này trong thời gian làm quan ở Huế, thi hào lại có bài “Mộng đắc thái lien” (Mơ hái được sen) trong đó có câu:

Trong cuống có tơ mành

Vấn vương không thể dứt

Kết hợp với lời kể của cụ Tiến sĩ Nguyễn Mai (1876-1954) là cháu gọi Nguyễn Du là ông bác: “Cụ Tố Như trước kia có quen thân với nữ sĩ Hồ Xuân Hương, nhân nhà nữ sĩ có đề ba chữ ‘Cổ Nguyệt Đường’, có lần cụ Tố Như có vịnh đùa câu thơ sau:

Đã Cổ lại còn đeo thói Nguyệt

Còn Xuân chi để lạnh buồng Hương

Nên ta có thể “khẳng nhận sự dan díu giữa hai tài tử bậc nhất trong văn giới Việt Nam” (Lời Hoàng Xuân Hãn). Mối tình “chẳng trong chăn gối cũng ngoài cầm thơ” làm cho chúng ta không khỏi tiếc nuối, bùi ngùi:

Tiếc thay chút nghĩa cũ càng

Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.

Quá thương chút nghĩa đèo bòng,

Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.

Khi tìm hiểu cuốn Hoan Châu – Nghi Tiên Nguyễn gia thế phổ thì lại được biết anh trai thứ 5 của thi hào là Nguyễn Trừ (1760 – 1809) có người con gái là “Thị Uyên sinh 1786, năm 1802 được sung vào hữu cung, làm cung tần của Vua Gia Long, năm 1808 sinh một con gái”. Như vậy, thi hào Nguyễn Du là chú vợ vua Gia Long.

Từ điển Văn học, xuất bản 1984 và bộ mới năm 2004 đều dựa vào Đại Nam chính biên liệt truyện chép: “Du vưu trường ư thi, thiện quốc âm, Thanh sứ hoàn, dĩ Bắc hành thi tập cập Thúy Kiều truyện hành thế” để kết luận “có người cho Truyện Kiều ra đời sau khi Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc. Nhưng cũng có nhiều bằng chứng, có thể Nguyễn Du viết Truyện Kiều trước khi đi sứ”. Nghĩa là Thi hào sáng tác Truyện Kiều khi đã ra làm quan cho Gia Long trong khoảng 1805-1820.

Nhưng khi đã làm quan cho vua Gia Long, trong thời đại họa văn tự, kỵ húy đã ban ra khắp cả nước.

Tên vua Hòa bằng chữ Trọng

Ai mà nói động thì cắt lưỡi đi

(Hòa + Trọng = chủng = giống)

Sao quan Hữu tham tri bộ Lễ lại dám réo tên mẹ vua (Lan) và cả tên vua (chủng = giống) vào trong Truyện Kiều:

Thang Lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa

So vào với thiếp Lan Đình nào thua

Tuồng chi là Giống hôi tanh

Diếc nàng những Giống bơ thờ quen thân.

Và trong Truyện Kiều còn nhiều câu có nội dung “yêu thư, yêu ngôn” phạm điều 225 luật Gia Long.

Sao bằng riêng một biên thùy

Sức này đã dễ làm gì được nhau

Chọc trời khuấy nước mặc dầu

Dọc ngang nào biết trên đầu có ai.

Vậy Truyện Kiều phải được viết trước khi Gia Long lên ngôi vua.

Sau này Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn (và các cộng sự) đã dựa vào một số chữ khắc thiếu hoặc thừa nét của bản Duy Minh Thị 1872 và Liễu Văn Đường 1871 mà cho rằng các bản Kiều ấy có chữ kỵ húy vua Lê, chúa Trịnh để kết luận, “Bản thảo toàn bộ Truyện Kiều đã được cơ bản hoàn thành khoảng ba năm 1786, 1787, 1788” và “có lẽ phải kéo dài thêm cho đến năm 1789, 1790.” Nghĩa là trong thời còn Vua Lê – Chúa Trịnh. Nhưng thời đó, lệ kỵ húy vua chúa cũng rất nghiêm ngặt, sao thi hào lại réo tên các Vua Lê – Chúa Trịnh rất nhiều lần trong Truyện Kiều:

511: Ngẫm duyên KỲ ngộ xưa nay (Lê Chiêu Thống húy Duy Kỳ)

2481: Cũng ngôi mệnh phụ ĐƯỜNG ĐƯỜNG (Lê Dụ Tông húy Duy Đường)

398: Đạm Thanh một bức tranh TÙNG treo trên (Trịnh Tùng)

352: Một lời vâng TẠC đá vàng thủy chung (Trịnh Tạc)

451: Tóc tơ CĂN vặn tấc lòng (Trịnh Căn)

2173: GIANG hồ quen thói vẫy vùng (Trịnh Giang)

1885: Sớm khuya hầu hạ đài DOANH (Trịnh Doanh)

550: Chưa vui SUM họp đã sầu chia phôi (Trịnh Sâm = Sum)

Vậy Truyện Kiều cũng không thể được viết dưới thời Lê – Trịnh.

Năm 1786, Nguyễn Du chịu hai cái tang lớn của anh hai Nguyễn Điều (mất 7/1786), anh cả Nguyễn Khản (mất 11/1786). Mùa đông 1796 ông toan vào Gia Định giúp Nguyễn Ánh, bị tướng Tây Sơn là Quận Công Thận bắt giam mấy tháng, rồi vì là bạn của anh Nguyễn Nễ nên được thả về an trí ở quê Tiên Điền, lấy biệt hiệu là Hồng Sơn liệp hộ và Nam Hải điếu đồ. Đến lúc này thì cái chí “Trung quân ái quốc” với nhà Lê mới tạm thời gác lại, lấy việc đi săn ở Hồng Lĩnh, câu cá ở biển Nam làm sinh kế và trong lúc “Cầm đường ngày tháng thanh nhàn/ Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao”, lại nhân vì trong tủ sách của quan Tể tướng có quyển Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân nên thi hào mới dựa vào đó để sáng tác thành Đoạn trường Tân Thanh. Những người được đọc đầu tiên có lẽ là anh rể Vũ Trinh có lời mặc bình, em ruột Nguyễn Lượng có lời chu bình rồi các cháu là Nguyễn Thiện, Nguyễn Hành, Nguyễn Thị Bành, Nguyễn Thị Đài. Công việc sáng tác Truyện Kiều có lẽ là trong khoảng 1796 – 1801. Năm 1802 ông đành phải ra làm quan với triều Gia Long. Nhưng vì trong Truyện Kiều đã chót viết có nhiều câu phạm đại húy nên Thi hào luôn lo sợ nếu Truyện Kiều mà truyền bá rộng ra ngoài thì “Đoạn trường Tân Thanh” sẽ thành “Đoạn đầu tân đao” hạ xuống trừng trị cả dòng họ. Sau này chỉ có những người thân thích như anh vợ Đoàn Nguyễn Tuấn mới được đọc và có bài thơ Đề từ hoặc Tiến sĩ Phạm Quý Thích (1759 – 1825) đọc và có bài “Thính Đoạn trường tân thanh hữu cảm” mà sau này các bản Truyện Kiều đều khắc in ở đầu sách như bài Đề từ.

Chỉ đến tháng 8/1830 vua Minh Mạng đọc Truyện Kiều và có viết bài “Thánh Tổ Nhân Hoàng đế ngự chế tổng thuyết” có câu khen ngợi Thúy Kiều: “Dùng dao nhọn sát thân, lòng trinh nữ giữ mình tiết lớn, Khuyên áo gấm quy thuận, bậc trượng phu vì nước lòng ngay. Thương chí nàng cho là hiếu trung, Xét lòng nàng cho là trinh tiết “. Vì thế cũng trong năm 1830, Tiến sĩ Nguyễn Văn Thắng đọc được quyển Kiều ở trong ngục chỉ có 3150 câu (thiếu 104) mới dám viết tập Kim Vân Kiều án gồm 22 bài thơ xét án 24 nhân vật trong Truyện Kiều.

Bản Kiều chép tay của Hoàng giáp Nguyễn Hữu Lập (có mẹ kế là con gái đại thi hào Nguyễn Du) chép ở Huế năm 1870 lại do kỵ húy quá triệt để nên sửa từ ngữ của Truyện Kiều quá nhiều.

Đến tháng 3/1871 lại có bài của vua Tự Đức “Dực Tông Anh hoàng đế ngự chế tổng từ” dài 140 câu, trong đó có câu:

Thị biên Bắc nhân Thánh thán trước.

Dịch âm ngã quốc Nguyễn Tiên Điền.

và khen:

Truyện hay nỡ để khói tan lạnh lùng…

… Khiến người đọc đến nghẹn ngào lệ rơi.

Như vậy, sau khi hai vị Hoàng đế Minh Mạng và Tự Đức “bật đèn xanh” cho việc đọc Kiều thì ở Kinh thành Huế có phong trào:

Làm trai mê đánh Tổ tôm

Mê ngựa hậu bổ, mê Nôm Thúy Kiều

Người ta tranh nhau sao chép Truyện Kiều đến nỗi “giấy hiếm và quý như giấy Lạc Đô”.

Đến nay, ngoài bản của Nguyễn Hữu Lập, ta còn có bản của Tăng Hữu Ứng chép 1874, bản Nguyễn Doãn Cử, bản Diễn Châu, bản Thái Bình, bản Quế Võ, bản R2003, bản R987…

Ở ngoài Bắc Thành (Hà Nội) thì sau khi Phạm Quý Thích có bản Kiều, các sĩ phu túc nho Bắc Kỳ như: Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Lý, Chu Doãn Trí… cũng chép và làm nhiều thơ văn vịnh Kiều. Các nhà như Liễu Văn Đường in năm 1866, 1871 (có 3254 câu), nhóm in 1904, 1914, 1916 (lại có 3262 câu), Thịnh Mỹ Đường, Quan Văn Đường in năm 1879, 1911, 1919, Tụ Hiền Đường 1886, Ấn Thư Hội 1896, Kiều Oánh Mậu 1902, Chu Mạnh Trinh 1906, Phúc Văn Đường 1918, 1926, 1932, 1939, Phúc An Hiệu 1933…

Ở miền Nam có Duy Minh Thị in tại Phật Sơn Trung Quốc các năm 1872, 1879, 1891 và mang về bán ở Sài Gòn (lại chỉ còn 3252 câu).

Đến nay, cá nhân tôi đã sưu tập được các bản Kiều Nôm cổ, in, chép tay, phô tô khác nhau là 68 bản.

Cuối thế kỷ XIX sang thế kỷ XX, khi chữ quốc ngữ được truyền bá rộng rãi thì các bậc trí thức bắt đầu phiên âm Truyện Kiều sang quốc ngữ. Mở đầu là học giả Trương Vĩnh Ký in năm 1875, 1898, 1911 rồi đến A.D Michels in tam ngữ: Nôm – Quốc ngữ – Pháp năm 1884 (có 3252 câu), Nordemann 1897, Phạm Kim Chi 1917, Nguyễn Văn Vĩnh 1923, Bùi Kỷ – Trần Trọng Kim 1927… Tản Đà 1952, Lê Văn Hòe 1953… Nguyễn Văn Hoàn 1965, Nguyễn Thạch Giang 1972, Đào Duy Anh 1974, 1979; Thế Anh 1999, 2005; Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Tài Cẩn 2002, 2004; Nguyễn Khắc Bảo 2004, 2009, 2016… khoảng gần 100 bản Truyện Kiều được dịch sang nhiều thứ tiếng khác trên thế giới như tiếng Pháp có A.D Michels, Nguyễn Văn Vĩnh, Xuân Phúc và Xuân Việt… khoảng trên chục bản. Truyện Kiều còn được dịch ngược lại sang chữ Hán như: Hoàng Giật Cầu, Trương Cam Vũ, La Trường Sơn… và nhiều thứ tiếng nữa như: Anh, Nga, Ý, Tiệp, Hungary, Romania, Nhật Bản, Hàn, Cu ba…

Ở Đức, Truyện Kiều cũng được hai vợ chồng nhà báo là Irene và Franz Faber dịch sang tiếng Đức trong thời gian 7 năm từ 1956 – 1963. Duyên do là năm 1954 hai nhà báo sang Việt Nam để viết về Điện Biên Phủ, được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng một bản Kiều song ngữ Việt – Pháp do Nguyễn Văn Vĩnh biên soạn (Les Edition VINH BAO – HOANH SON, Sài Gòn 1952 và đặt tên là Das Mäedchen Kieu (Cô gái Kiều). Hai nhà báo này đã phải nhờ cụ ông thân sinh của bà Irene Faber đang sống ở Cologne sang Paris vào Viện Hàn lâm Pháp tra cứu giúp các điển tích. Bản dịch này đã được học giả Johannes Dieckmann đánh giá: “Với tác phẩm này, độc giả Đức tìm thấy một thế giới văn học mà cho tới nay họ chưa từng biết tới: Trước mắt họ thấm nhuần trong Truyện Kiều là cả một kho tàng nhân văn, đỉnh cao tuyệt vời của nền văn hóa dân tộc Việt Nam”. ( Kỷ yếu Hội Kiều học Việt Nam, trang 141).

Ở Việt Nam, Truyện Kiều đã được đón nhận rất nồng nhiệt, hầu như tất cả các bậc thức giả, vua quan sĩ thứ đều tìm đọc và bình phẩm về Truyện Kiều. Các bậc túc nho như: Phạm Quý Thích, Đoàn Nguyễn Tuấn, Mộng Liên Đường chủ nhân, Thiên hoa tàng chủ nhân, Phong Tuyết thập thanh thị, Minh Mạng, Tự Đức, Hà Tông Quyền, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Vũ Tông Phan, Nguyễn Công Trứ, Đào Nguyên Phổ, Kiều Oánh Mậu, Chu Mạnh Trinh… Tản Đà, Bùi Khánh Diễn, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Trần Bích San, Phan Chu Trinh, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Tố, Hoàng Ngọc Phách, Lê Thước… Đặng Thai Mai, Trương Chính Hoài Thanh, Xuân Diệu, Nguyễn Công Hoan, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Khắc Viện, Huy Cận, Dương Quảng Hàm, Nguyễn Văn Hoàn, Đào Duy Anh, Thế Anh, Nguyễn Quảng Tuân, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Bảo… đều có nhiều bài viết hoặc công trình về Truyện Kiều.

Truyện Kiều được phổ biến sang toàn dân với việc: Lẩy Kiều, Vịnh Kiều, Tập Kiều, Đố Kiều, Trò Kiều, Chèo Kiều, đưa thơ Kiều vào quan họ và đặc biệt nhất là Bói Kiều.

Người xưa đánh giá: “Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả ngàn đời thì tài nào mà có cái bút lực ấy”, “Lời văn tả hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía, ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột “.

Phạm Quỳnh có câu gợi nhiều suy tư: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, Tiếng ta còn, nước ta còn “.

Một học giả người Hoa từng đánh giá Truyện Kiều là: “Đại Việt thiên thu tuyệt diệu từ “.

Với thế giới, Truyện Kiều đã sánh vai cùng các kiệt tác của các dân tộc để có mặt trong bộ “Từ Điển các tác phẩm của mọi thời đại và của mọi xứ sở” và Nguyễn Du đã được thế giới tôn vinh 2 lần vào các năm 1965 và 2015.

Việc Lẩy Kiều, Tập Kiều đã được mọi người yêu Kiều, thuộc Kiều vận dụng trong mọi hoàn cảnh của đời sống. Chỉ xin kể một vài ví dụ tiêu biểu. Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đón Tổng thống Indonesia là ngài Sukarno đã đọc:

Bây giờ mới gặp nhau đây

Mà lòng đã chắc những ngày thanh niên.

và khi tiễn Tổng thống về nước lại lẩy câu Kiều:

Cánh hồng bay bổng tuyệt vời

Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm

Thú vị nhất là các vị lãnh đạo nước Mỹ như Tổng thống Clinton ngày 17/11/2000 khi thăm Hà Nội đã đọc:

Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân

Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden khi tiếp Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ngày 7/7/2015 tại Washington đã đọc:

Trời còn để có hôm nay

Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời

Tổng thống Mỹ Barack Obama khi tiếp các tri thức trẻ tại Hà Nội đã đọc:

Rằng trăm năm cũng từ đây

Của tin gọi một chút này làm ghi.

Tuy Truyện Kiều được mọi người yêu mến như vậy, nhưng vì nguyên tác Truyện Kiều không còn, việc in ấn Truyện Kiều lại chủ yếu dựa vào chép lại từ những người thuộc lòng Truyện Kiều nên không tránh khỏi nạn “Tam sao thất bản” đúng như thi hào đã từng viết: “Khác nhau một chữ hoặc khi có lầm”.

Nay chúng tôi xin dựa vào sự thống nhất của văn tự trong 68 bản Nôm cổ để đề nghị phục nguyên lại một số câu Kiều sau:

Nguyễn Khắc Bảo

Bản quyền tác phẩm tranh © Nguyễn Liên Hương

Thuyết Minh Về Tác Giả Nguyễn Du Và Truyện Kiều

Nguyễn Du (1765-1820) tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên; quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình đại quý tộc có truyền thống văn chương và nhiều đời làm quan. Ở quê ông có câu thơ nói về dòng dõi quý tộc này như sau “Bao giờ ngàn Hồng hết cây, sông Rum hết nước họ này hết quan”. Ông được nuôi dưỡng trong một gia đình có nền nếp và tư tưởng đạo đức phong phú.

Ông sinh ra trong thời đại có nhiều biến đổi mạnh mẽ và sâu sắc, chế độ phong kiến đang bước vào thời đại khủng hoảng, phong trào công nhân, nông dân nổ lên dữ dội. Có thể nói làn sóng mạnh mẽ này được thể hiện rõ nhất qua cuộc khởi nghĩa của nông dân Tây Sơn có quy mô lớn. Tuy nhiên cuộc khởi nghĩa này tự phát, chưa được chuẩn bị kỹ lưỡng nên đã thất bại và chế độ phong kiến triều Nguyễn đã được thiết lập.

Cuộc đời ông trải qua rất nhiều thăng trầm, ông đã có 10 năm phiêu bạt trên đất Bắc, rồi sau đó lại về ở ẩn tại Hà Tĩnh. Triều NGuyễn được thiết lập, Nguyễn Ánh lên ngôi ông đã ra làm quan bất đắc dĩ. Sau một thời gian làm quan, ông được cử đi sứ sang Trung Quốc. Tuy nhiên năm 1820 khi sang Trung Quốc lần thứ hai thì ông bị bệnh và mất tại Huế.

Nguyễn Du được người đời biết đến là người có kiến thức sâu rộng, hiểu biết thâm thúy, an hiểu những nét phong tục tập quán của Việt Nam và Trung Quốc. Ông là người đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều người nên đã tạo nên trong ông một con người hội tụ của rất nhiều nét văn hóa. Ông đã chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, nhân dân cùng cực, nhiều mảnh đời đáng thương . Chính điều này đã hình thành nên tình thương yêu bất diệt trong con người ông.

Về văn chương, mẹ ông là người am hiểu nghệ thuật, quê hương ông là mảnh đất có nhiều nền văn hóa nghệ thuật phong phú, điều này đã hun đúc nên một con người tài năng như vậy.

Sáng tác văn học của Nguyễn Du hầu hết được viết bằng chữ Hán và chữ Nôn.

Chữ Hán có 3 tập thơ: Thanh Hiên thi tâp, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục

Chữ Nôm xuất sắc nhất là Đoạn trường tân thanh hay còn gọi là Truyện Kiều được xem là kiệt tác của văn học Việt Nam.

Nguồn gốc của Truyện Kiều: NGuyễn Du dựa theo tác phẩm “Thanh tâm tài nhân” của Trung Quốc, chuyển thể nó thành thơ lục bát.

TRuyện Kiều bao gồm 3254 câu thơ lục bát và được chia làm ba phần:

Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật

Về giá trị nội dung: Truyện Kiều mang hai giá trị lớn và nhân đạo và hiện thực. Ở mỗi giá trị Nguyễn Du đều thể hiện rất thành công. Nguyễn Du đã vẽ lên chân thực, sinh động bức tranh hiện thực xã hội phong kiến nhiều bất công, tàn bạo. Số phận những con người hiện lên thật bạc bẽo, không hề đáng giá. Qua đó ông đề cao, khẳng định nhân cách của từng con người, bộc lộ thái độ xót xa thương cảm cho những mảnh đời bất hạnh.

Về giá trị nghệ thuật: Truyện Kiều được xem là tác phẩm cực kỳ thành công về giá trị nghệ thuật trên tất cả các phương diện, đặc biệt là ngôn ngữ. Nguyễn Du đã đưa ngôn ngữ tiếng việt lên một đỉnh cao mới

Bài viết khác

Bạn đang xem bài viết Tìm Hiểu Nguyễn Du Và Truyện Kiều trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!