Cập nhật thông tin chi tiết về Tìm Hiểu Về Hệ Sinh Thái Rừng Ngập Mặn mới nhất trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
NỘI DUNG * KHÁI NIỆM, PHÂN BỐ, THÀNH PHẦN CẤU TẠO RNM * SỰ CHUYỂN HÓA DÒNG VẬT CHẤT VÀ NĂNG LƯỢNG * SỰ HÌNH THÀNH HỆ SINH THÁI RNM * ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI CỦA RNM * TẦM QUAN TRỌNG CỦA RỪNG NGẬP MẶN * HIỆN TRẠNG CỦA RNM VÀ HƯỚNG KHẮC PHỤC * KẾT LUẬN K/n: Rừng ngập mặn là thuật ngữ mô tả một hệ sinh thái thuộc vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới tạo thành trên nền các thực vật vùng triều với tổ hợp động, thực vật đặc trưng. I. KHÁI NIỆM, PHÂN BỐ VÀ THÀNH PHẦN CẤU TẠO HỆ SINH THÁI RỪNG NGẬP MẶN I.1. Khái niệm, Phân bố: Cây đước và sú ở hệ sinh thái rừng ngập mặn PHÂN BỐ RNM TRÊN THẾ GIỚI * ước tính rừng ngập mặn còn tồn tại chiếm 12,3% diện tích bề mặt Trái đất (tương đương khoảng 137.760 km2 ( năm 2010) * Rừng ngập mặn được tìm thấy ở 118 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó : – 42% rừng ngập mặn ở châu Á – 21% Châu Phi – 15% thuộc Bắc và Trung Mỹ – 12% tại châu Đại Dương – 11% ở Nam Mỹ Tổng diện tích khoảng 11 – 18 triệu ha Có khoảng 70 loài cây rừng ngập mặn trên thế giới, có kích thước khác nhau, chiều cao từ 1,5 đến 50m (năm 2010 – theo chụp ảnh từ vệ tinh) Hình ảnh một số rừng ngập mặn trên thế giới Rừng ngập mặn ở Malaysia ( ảnh chụp từ máy bay) photo: IPT – Malaysia Cây đước đỏ cao 63m ở Ecuado ở Châu Mỹ La Tinh (photo: S.Baba) PHÂN BỐ RNM Ở VIỆT NAM * Việt Nam có 29 tỉnh thành phố có rừng và đất ngập mặn ven biển chạy suốt từ Móng Cái đến Hà Tiên. * Chia thành 4 khu vực chính từ Bắc vào Nam: 1. Từ Móng Cái đến Đồ Sơn 2. Từ Đồ Sơn đến Lạch Trường (Thanh Hóa ) 3. Từ Lạch Trường đến Vũng Tàu 4. Từ Vũng Tàu đến Hà Tiên. * Rừng ngập mặn phân bố và phát triển mạnh ở phía Nam, đặc biệt là vùng Cà Mau – đồng bằng sông Cửu Long. Quần thể RNM ở phía Bắc thấp và nhỏ. RỪNG NGẬP MẶN Ở VIỆT NAM Cả nước có khoảng trên 155.290 ha RNM (2001) Hiện nay có khoảng 209.740 ha (2008) Đồng bằng sông Cửu long có 75.952 (năm 2008) Một khi rừng ngập mặn đã hình thành thì ngoài các sản phẩm hữu cơ như protein, gluxit, lipit, …. Còn có các sản phẩm hữu cơ được hình thành từ mùn bã do lá và các bộ phận khác củ cây rụng xuống được vi sinh vật phân huỷ là nguồn thức ăn quan trọng cho nhiều động vật ở nước. Rừng ngập mặn phát triển tốt ở những vùng có độ mặn khoảng: 15- 25 ‰ và độ pH trong khoảng từ 4 – 6 I.2. Thành phần cấu tạo: I.2.1. Chất vô cơ: Ngoài các thành phần chính như C, N, CO2, H2O… Thì hệ sinh thái rừng ngập mặn còn có những chất vô cơ đặc trưng cho hệ sinh thái rừng ngập mặn do các sản phẩm bồi tụ như: lưu huỳnh, photpho, các oxit sắt và nhôm. I.2.2. Chất hữu cơ: Hệ thống sinh vật trong hệ sinh thái rừng ngập mặn rất phong phú và đa dạng. I.2.3. Khí hậu I.2.4. Sinh vật Tuỳ từng vùng mà có nhũng kiểu khí hậu đặc trưng riêng. Nhưng khí hậu thích hợp cho hệ sinh thái rừng ngập mặn phát triển là nhiệt đới ẩm, có nhiệt độ trung bình từ 20-25oC, lượng mưa từ 2200-2600mm. a ) Thực vật: -Thành phần cây ngập mặn được chia thành 2 nhóm -cây ngập mặn chủ yếu. -cây tham gia rừng ngập mặn. -Hệ thực vật rừng ngập mặn trong khu vực Đông Nam Á đa dạng nhất thế giới với 46 loài chủ yếu thuộc 17 họ và 158 loài tham gia rừng ngập mặn thuộc 55 họ. -Ở Việt Nam đã ghi nhận 35 loài chủ yếu và 40 loài tham gia rừng ngập mặn. Trong khu hệ thực vật rừng ngập mặn có 5 họ thực vật giữ vai trò quan trọng là họ Đước (Rhizophoraceae), họ Mắm (Avicemiaceae), họ Bần (Sounerrtiaceae), họ Đơn Nem (Myrsinaceae), và họ Dừa (palmae). Ba khía ở rừng ngập mặn Cần Giờ Cá thỏi b) Động vật: Ngoài hệ thống thực vật phong phú thì động vật trong rừng ngập mặn cũng rất đa dạng từ động vật nguyên sinh, ruột khoang, sứa lược, giun, giáp xác, côn trùng, thân mềm, da gai, hải quì, cá, bò sát, lưỡng thê, chim và thú. * Các loài động vật sống thuỷ sinh như: tôm, cua, cá, sò, rùa, các loài động vật đáy…. * Các loài động vật ở cạn như: lợn rừng, khỉ, sếu,cò Thành phần vi sinh vật sống thường xuyên trong hệ có vai trò sinh thái quan trọng gồm vi khuẩn, nấm, tảo, đài tiên, dương xỉ, địa y. c) Vi sinh vật: Thân mềm cá chim VSV Thực vật nổi Động vật nổi Giáp xác Thú II. SỰ CHUYỂN HÓA DÒNG VẬT CHẤT VÀ NĂNG LƯỢNG: II.1. Dòng vật chất II.1.1 Lưới thức ăn Mỗi loài sinh vật trong quần xã thường là một mắt xích của nhiều chuỗi thức ăn. Các chuỗi thức ăn có nhiều mắt xích chung tạo thành lưới thức ăn. Ví dụ: Một vài sinh vật đại diện thể hiện trong lưới thức ăn ở rừng ngập mặn. Bậc dinh dưỡng bao gồm những mắc xích thức ăn thuộc một nhóm sắp xếp theo các thành phần của chuỗi thức ăn như: sinh vật sản xuất, sinh vật tiêu thụ bậc 1, bậc 2, bậc 3, … * Ví dụ: Sinh vật sản xuất : Thực vật nổi Sinh vật tiêu thụ bậc 1: Động vật nổi, Thân mềm Sinh vật tiêu thụ bậc 2: Cá, Giáp xác Sinh vật tiêu thụ bậc 3: Chim, Thú II.1.2. Bậc dinh dưỡng Cấu trúc bậc dinh dưỡng SV sản xuất thực vật nổi Sv tiêu thụ bậc1 Động vật nổi thân mềm SVTT bâc2 Cá, giáp xác SVTT bậc 3 Chim Thú SVTT bậc4 VSV Một vài loài cua ăn trực tiếp lá rụng Phần PMO cồn lại được cây RNM Có tới 80%lá cây được sử dụng làm thức ăn cho SV ở đây VSV phân hủy : tôm, cá ăn vất chất đang phân hủy này Các mảnh vụn chất hữu cơ (POM) là nguồn thức ăn cho các loài giáp xác nhỏ hơn Cá ăn những giáp xác nhỏ này CHU TRÌNH DINH DƯỠNG CỦA LÁ CÂY RỪNG NGẬP MẶN II.2 Dòng Năng Lượng III. Quá trình diễn thế của RNM * Hệ sinh thái RNM là một hệ sinh thái không khép kín.Trong quá trình di chuyển của thủy triều với biên độ lớn,đã mang đi từ 20% – 40% tổng sản phẩm hữu cơ của rừng(do lá cây rụng xuống) * Bãi bồi và rừng ngập mặn luôn thay đổi theo hướng tiến dần ra biển,để lại bãi đất bồi cao hơn. * Cây ngập mặn không thích hợp sống ở đấy * Cuối cùng đất thoát khỏi ảnh hưởng của nước triều, đất trở nên thích hợp cho sản xuất nông nghiệp. IV. Sự hình thành hệ sinh thái RNM: – Nhóm nhân tố địa lý – địa hình – Nhóm nhân tố khí hậu – thủy văn – Nhóm nhân tố đá mẹ – thổ nhưỡng – Nhóm nhân tố sinh vật và con người – Nhóm nhân tố khu hệ thực vật Một số rừng ngập mặn ở Việt Nam V. Đặc điểm sinh thái của RNM: * Những loại cây gỗ có mang hạt hoặc cây bụimọc chủ yếu ở bờ biển vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. * Mọc ở vùng bùn lầy ở cửa sông, vịnh, cảng và bờ biển ít thường xuyên chịu tác động của sóng lớn. * Tiếp nhận một hỗn hợp nước ngọt và nước mặn, cả hai nguồn này đều cung cấp chất dinh dưỡng cho cây rừng ngập mặn. Có khả năng ngập nước hoàn toàn theo thủy triều Có khả năng tái sinh tự nhiên rất cao Khả năng tái sinh của rừng tự nhiên Trụ mầm (trái chín) rụng, cắm xuống bùn, nẩy mầm thành cây con Hạt (Trái) rụng trôi theo nguồn nước bám vào bãi bồi nẩy mầm VI. TẦM QUAN TRỌNG CỦA RỪNG NGẬP MẶN VI.1. Về môi trường tự nhiên Ngăn ngừa xói mòn và mở rộng đất bồi. Không có rừng Có rừng Phòng chống bão, sóng thần và bảo vệ các vùng ven biển Có rừng phòng hộ Không có rừng * Chống ô nhiễm nước. * Điều hoà khí hậu. * Hạn chế xâm nhập mặn. VI.2. Môi trường sinh học – Duy trì tính đa dạng sinh học: tài nguyên động vật, thực vật ngập mặn. – Bảo vệ các hệ sinh thái gần bờ (cỏ biển và rặng san hô). – Bảo tồn các loài động thực vật bản địa, các nguồn gen quý hiếm, và duy trì những điều kiện thích hợp cho việc nghiên cứu môi trường tự nhiên và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên . Nơi cư trú của động vật- RNM Cần Giờ – Cung cấp nguồn thực phẩm phong phú và đa dạng cho con người. – Ngoài ra một số loài cây còn là nguồn dược phẩm quý giá. – Nguồn lợi từ du lịch sinh thái, nghiên cứu khoa học. VI.3. Môi trường kinh tế – xã hội VII. HIỆN TRẠNG CỦA RỪNG NGẬP MẶN VÀ HƯỚNG KHẮC PHỤC Hiên nay rừng ngập mặn đang bị tàn phá nặng nề * Năm 1943 Việt Nam có trên 400.000ha. * Năm 2006 giảm còn 279.000ha * Hiện nay cả nước chỉ còn khoảng trên 155.290ha , giảm hơn 100.000ha so với trước năm 1990. Một trong số các nguyên nhân là: * Sự phát triển ồ ạt của các khu sản xuất nông nghiệp khu dân cư, khu nuôi tôm ven biển * Việc quai đê lấn biển lấy đất rừng ngập mặn trồng lúa, đắp đầm với diện tích lớn * Bị ôi nhiễm do hóa chất, sâu bệnh * Chịu sự tác động của thiên tai RNM bị bão tàn phá – làm ao nuôi tôm * Nâng cao nhân thức người dân về việc ảnh hưởng của rừng ngập mặn tới khí hậu toàn cầu. Cộng đồng dân cư cùng tham gia trồng rừng, thay vì chỉ có nhà nước. Và sự tham gia của nhà khoa học, nhà quản lý tạo ra kịch bản những nguy cơ có thể xảy ra để tính toán trước những thiệt hại ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và đời sống xã hội nếu thiếu RNM Các giải pháp khắc phục Nông dân tham gia trồng rừng- các nhà khoa học đang tham gia nghiên cứu * Để bảo vệ rừng ngập mặn, Việt Nam cần phải rà soát lại quy hoạch phát triển thủy sản ven biển, điều chỉnh theo hướng ưu tiên bảo tồn rừng ngập mặn hiện có, phục hồi rừng ngập mặn bị suy thoái và thậm chí hoàn nguyên một số khu rừng ngập mặn đã sử dụng thiếu hợp lý. cán bộ địa phương tham gia trồng rừng Xây dựng khu bảo tồn RNM * Tuyên truyền , giáo dục theo hướng chuyên sâu cho các đối tượng cán bộ địa phương , học sinh , sinh viên. Mở các lớp tập huấn , tham quan , thành lập các trạm nghiên cứu về RNM. Mở lớp tập huấn cho cán bộ Học sinh tham quan RNM Rú Chá VIII . KẾT LUẬN Hệ sinh thái RNM rất đa dạng gồm nhiều loài động vật, thực vật và vi sinh vật khác nhau. Các loài liên kết với nhau thông qua các quá trình trao đổi chất và năng lượng………. Các quá trình của hệ sinh thái như trao đổi chất, chu trình dinh dưỡng, quá trình phân hủy phụ thuộc vào: thủy triều, nhiệt độ, lượng mưa, kể cả sinh vật và con người… Sự phối hợp nhiều cấu trúc khác nhau đặc trưng như: tổ thành rừng, mật độ, phân tầng tạo nên một hệ sinh thái đa dạng. Rừng ngập mặn mang lại nhiều giá trị cho con người và tự nhiên như: cung cấp lâm sản, địa điểm du lịch, điều hòa khí hậu, giảm tác động của thiên tai, là nơi cư trú của nhiều loài sinh vật quý hiếm…… Hiện nay, hệ sinh thái rừng ngập mặn đang bị đe dọa bởi tác đọng của con nghười và thiên tai, làm diện tích rừng cùng với đa dạng sinh học giảm đi đáng kể…… Chúng ta cần phải có những hành động và biện pháp cụ thể để bảo vệ cũng như khai thác RNM một cách hợp lí, phục hồi những rừng ngập măn đã bị tàn phá… TÀI LIỆU THAM KHẢO * Daniel G. Spelchan Isabelle A. Nicoll * KHÔI PHỤC RỪNG NGẬP MẶN VÙNG VEN BIỂN VIỆT NAM (Báo cáo kết quả điều tra, khảo sát tháng 01/2012) * NHỮNG VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG VEN BIỂN VÀ PHỤC HỒI RỪNG NGẬP MẶN Ở ViỆT NAM. ( Lê Xuân Tuấn, Phan Nguyên Hồng, Trương Quang Học) * CHƯƠNG 16 : Rừng ngập mặn ở Việt Nam ( Tiến sĩ: Viên Ngọc Nam – ĐH Nông Lâm chúng tôi * Một số tài liệu, hình ảnh khác được sưu tầm. Nhóm SV thực hiện Vũ Thị Huyền Ninh Thị Hương Mai Thị Giang Trần Thu Hà K56A1KHMT
Đề Tài Tìm Hiểu Về Hệ Sinh Thái Rừng Ngập Mặn
NỘI DUNG * KHÁI NIỆM, PHÂN BỐ, THÀNH PHẦN CẤU TẠO RNM * SỰ CHUYỂN HÓA DÒNG VẬT CHẤT VÀ NĂNG LƯỢNG * SỰ HÌNH THÀNH HỆ SINH THÁI RNM * ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI CỦA RNM * TẦM QUAN TRỌNG CỦA RỪNG NGẬP MẶN * HIỆN TRẠNG CỦA RNM VÀ HƯỚNG KHẮC PHỤC * KẾT LUẬN I. KHÁI NIỆM, PHÂN BỐ VÀ THÀNH PHẦN CẤU TẠO HỆ SINH THÁI RỪNG NGẬP MẶN I.1. Khái niệm, Phân bố: K/n: Rừng ngập mặn là thuật ngữ mô tả một hệ sinh thái thuộc vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới tạo thành trên nền các thực vật vùng triều với tổ hợp động, thực vật đặc trưng. Cây đước và sú ở hệ sinh thái rừng ngập mặn PHÂN BỐ RNM TRÊN THẾ GIỚI * ước tính rừng ngập mặn còn tồn tại chiếm 12,3% diện tích bề mặt Trái đất (tương đương khoảng 137.760 km2 ( năm 2010) * Rừng ngập mặn được tìm thấy ở 118 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó : – 42% rừng ngập mặn ở châu Á – 21% Châu Phi – 15% thuộc Bắc và Trung Mỹ – 12% tại châu Đại Dương – 11% ở Nam Mỹ Tổng diện tích khoảng 11 – 18 triệu ha Có khoảng 70 loài cây rừng ngập mặn trên thế giới, có kích thước khác nhau, chiều cao từ 1,5 đến 50m (năm 2010 – theo chụp ảnh từ vệ tinh) Hình ảnh một số rừng ngập mặn trên thế giới Rừng ngập mặn ở Malaysia Cây đước đỏ cao 63m ở Ecuado ở ( ảnh chụp từ máy bay) Châu Mỹ La Tinh photo: IPT – Malaysia (photo: S.Baba) PHÂN BỐ RNM Ở VIỆT NAM * Việt Nam có 29 tỉnh thành phố có rừng và đất ngập mặn ven biển chạy suốt từ Móng Cái đến Hà Tiên. * Chia thành 4 khu vực chính từ Bắc vào Nam: 1. Từ Móng Cái đến Đồ Sơn 2. Từ Đồ Sơn đến Lạch Trường (Thanh Hóa ) 3. Từ Lạch Trường đến Vũng Tàu 4. Từ Vũng Tàu đến Hà Tiên. * Rừng ngập mặn phân bố và phát triển mạnh ở phía Nam, đặc biệt là vùng Cà Mau – đồng bằng sông Cửu Long. Quần thể RNM ở phía Bắc thấp và nhỏ. RỪNG NGẬP MẶN Ở VIỆT NAM Cả nước có khoảng trên 155.290 ha RNM (2001) Hiện nay có khoảng 209.740 ha (2008) Đồng bằng sông Cửu long có 75.952 (năm 2008) I.2. Thành phần cấu tạo: I.2.1. Chất vô cơ: Ngoài các thành phần chính như C, N, CO2, H2O… Thì hệ sinh thái rừng ngập mặn còn có những chất vô cơ đặc trưng cho hệ sinh thái rừng ngập mặn do các sản phẩm bồi tụ như: lưu huỳnh, photpho, các oxit sắt và nhôm. I.2.2. Chất hữu cơ: Một khi rừng ngập mặn đã hình thành thì ngoài các sản phẩm hữu cơ như protein, gluxit, lipit, …. Còn có các sản phẩm hữu cơ được hình thành từ mùn bã do lá và các bộ phận khác củ cây rụng xuống được vi sinh vật phân huỷ là nguồn thức ăn quan trọng cho nhiều động vật ở nước. Rừng ngập mặn phát triển tốt ở những vùng có độ mặn khoảng: 15- 25 ‰ và độ pH trong khoảng từ 4 – 6 I.2.3. Khí hậu Tuỳ từng vùng mà có nhũng kiểu khí hậu đặc trưng riêng. Nhưng khí hậu thích hợp cho hệ sinh thái rừng ngập mặn phát triển là nhiệt đới ẩm, có nhiệt độ trung bình từ 20-25oC, lượng mưa từ 2200-2600mm. I.2.4. Sinh vật Hệ thống sinh vật trong hệ sinh thái rừng ngập mặn rất phong phú và đa dạng. a ) Thực vật: -Thành phần cây ngập mặn được chia thành 2 nhóm -cây ngập mặn chủ yếu. -cây tham gia rừng ngập mặn. -Hệ thực vật rừng ngập mặn trong khu vực Đông Nam Á đa dạng nhất thế giới với 46 loài chủ yếu thuộc 17 họ và 158 loài tham gia rừng ngập mặn thuộc 55 họ. -Ở Việt Nam đã ghi nhận 35 loài chủ yếu và 40 loài tham gia rừng ngập mặn. Trong khu hệ thực vật rừng ngập mặn có 5 họ thực vật giữ vai trò quan trọng là họ Đước (Rhizophoraceae), họ Mắm (Avicemiaceae), họ Bần (Sounerrtiaceae), họ Đơn Nem (Myrsinaceae), và họ Dừa (palmae). b) Động vật: Ngoài hệ thống thực vật phong phú thì động vật trong rừng ngập mặn cũng rất đa dạng từ động vật nguyên sinh, ruột khoang, sứa lược, giun, giáp xác, côn trùng, thân mềm, da gai, hải quì, cá, bò sát, lưỡng thê, chim và thú. Ba khía ở rừng ngập mặn Cần Giờ Cá thỏi * Các loài động vật sống * Các loài động vật ở cạn thuỷ sinh như: tôm, cua, như: lợn rừng, khỉ, cá, sò, rùa, các loài động sếu,cò vật đáy…. c) Vi sinh vật: Thành phần vi sinh vật sống thường xuyên trong hệ có vai trò sinh thái quan trọng gồm vi khuẩn, nấm, tảo, đài tiên, dương xỉ, địa y. II. SỰ CHUYỂN HÓA DÒNG VẬT CHẤT VÀ NĂNG LƯỢNG: II.1. Dòng vật chất II.1.1 Lưới thức ăn Mỗi loài sinh vật trong quần xã thường là một mắt xích của nhiều chuỗi thức ăn. Các chuỗi thức ăn có nhiều mắt xích chung tạo thành lưới thức ăn. Ví dụ: Một vài sinh vật đại diện thể hiện trong lưới thức ăn ở rừng ngập mặn. Thân mềm cá chim VSV Thực vật nổi Động vật nổi Giáp xác Thú II.1.2. Bậc dinh dưỡng Bậc dinh dưỡng bao gồm những mắc xích thức ăn thuộc một nhóm sắp xếp theo các thành phần của chuỗi thức ăn như: sinh vật sản xuất, sinh vật tiêu thụ bậc 1, bậc 2, bậc 3, … * Ví dụ: Sinh vật sản xuất : Thực vật nổi Sinh vật tiêu thụ bậc 1: Động vật nổi, Thân mềm Sinh vật tiêu thụ bậc 2: Cá, Giáp xác Sinh vật tiêu thụ bậc 3: Chim, Thú SVTT bậc4 VSV SVTT bậc 3 Chim Thú SVTT bâc2 Cá, giáp xác Sv tiêu thụ bậc1 Động vật nổi thân mềm SV sản xuất thực vật nổi Cấu trúc bậc dinh dưỡng II.2 Có tới 80%lá cây được sử dụng làm thức ăn cho SV ở đây Dòng Phần PMO Năng cồn lại được cây RNM Một vài loài Lượng cua ăn trực tiếp lá rụng CHU TRÌNH DINH DƯỠNG CỦA LÁ CÂY RỪNG NGẬP MẶN Cá ăn những giáp xác nhỏ này VSV phân hủy : tôm, cá ăn vất chất đang phân hủy này Các mảnh vụn chất hữu cơ (POM) là nguồn thức ăn cho các loài giáp xác nhỏ hơn III. Quá trình diễn thế của RNM * Hệ sinh thái RNM là một hệ sinh thái không khép kín.Trong quá trình di chuyển của thủy triều với biên độ lớn,đã mang đi từ 20% – 40% tổng sản phẩm hữu cơ của rừng(do lá cây rụng xuống) * Bãi bồi và rừng ngập mặn luôn thay đổi theo hướng tiến dần ra biển,để lại bãi đất bồi cao hơn. * Cây ngập mặn không thích hợp sống ở đấy * Cuối cùng đất thoát khỏi ảnh hưởng của nước triều, đất trở nên thích hợp cho sản xuất nông nghiệp. IV. Sự hình thành hệ sinh thái RNM: – Nhóm nhân tố địa lý – địa hình – Nhóm nhân tố khí hậu – thủy văn – Nhóm nhân tố đá mẹ – thổ nhưỡng – Nhóm nhân tố sinh vật và con người – Nhóm nhân tố khu hệ thực vật Một số rừng ngập mặn ở Việt Nam V. Đặc điểm sinh thái của RNM: * Những loại cây gỗ có mang hạt hoặc cây bụimọc chủ yếu ở bờ biển vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. * Mọc ở vùng bùn lầy ở cửa sông, vịnh, cảng và bờ biển ít thường xuyên chịu tác động của sóng lớn. * Tiếp nhận một hỗn hợp nước ngọt và nước mặn, cả hai nguồn này đều cung cấp chất dinh dưỡng cho cây rừng ngập mặn. Có khả năng ngập nước hoàn toàn theo thủy triều Có khả năng tái sinh tự nhiên rất cao Khả năng tái sinh của rừng tự nhiên Trụ mầm (trái chín) rụng, cắm xuống bùn, nẩy mầm thành cây con Hạt (Trái) rụng trôi theo nguồn nước bám vào bãi bồi nẩy mầm VI. TẦM QUAN TRỌNG CỦA RỪNG NGẬP MẶN VI.1. Về môi trường tự nhiên Không có rừng Ngăn ngừa xói mòn và mở rộng đất bồi. Có rừng Có rừng phòng hộ Phòng chống bão, sóng thần và bảo vệ các vùng ven biển Không có rừng * Chống ô nhiễm nước. * Điều hoà khí hậu. * Hạn chế xâm nhập mặn. VI.2. Môi trường sinh học – Duy trì tính đa dạng sinh học: tài nguyên động vật, thực vật ngập mặn. – Bảo vệ các hệ sinh thái gần bờ (cỏ biển và rặng san hô). – Bảo tồn các loài động thực vật bản địa, các nguồn gen quý hiếm, và duy trì những điều kiện thích hợp cho việc nghiên cứu môi trường tự nhiên và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên . Nơi cư trú của động vật- RNM Cần Giờ VI.3. Môi trường kinh tế – xã hội – Cung cấp nguồn thực phẩm phong phú và đa dạng cho con người. – Ngoài ra một số loài cây còn là nguồn dược phẩm quý giá. – Nguồn lợi từ du lịch sinh thái, nghiên cứu khoa học. VII. HIỆN TRẠNG CỦA RỪNG NGẬP MẶN VÀ HƯỚNG KHẮC PHỤC Hiên nay rừng ngập mặn đang bị tàn phá nặng nề * Năm 1943 Việt Nam có trên 400.000ha. * Năm 2006 giảm còn 279.000ha * Hiện nay cả nước chỉ còn khoảng trên 155.290ha , giảm hơn 100.000ha so với trước năm 1990. Một trong số các nguyên nhân là: * Sự phát triển ồ ạt của các khu sản xuất nông nghiệp khu dân cư, khu nuôi tôm ven biển * Việc quai đê lấn biển lấy đất rừng ngập mặn trồng lúa, đắp đầm với diện tích lớn * Bị ôi nhiễm do hóa chất, sâu bệnh * Chịu sự tác động của thiên tai RNM bị bão tàn phá – làm ao nuôi tôm Các giải pháp khắc phục * Nâng cao nhân thức người dân về việc ảnh hưởng của rừng ngập mặn tới khí hậu toàn cầu. Cộng đồng dân cư cùng tham gia trồng rừng, thay vì chỉ có nhà nước. Và sự tham gia của nhà khoa học, nhà quản lý tạo ra kịch bản những nguy cơ có thể xảy ra để tính toán trước những thiệt hại ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và đời sống xã hội nếu thiếu RNM Nông dân tham gia trồng rừng- các nhà khoa học đang tham gia nghiên cứu * Để bảo vệ rừng ngập mặn, Việt Nam cần phải rà soát lại quy hoạch phát triển thủy sản ven biển, điều chỉnh theo hướng ưu tiên bảo tồn rừng ngập mặn hiện có, phục hồi rừng ngập mặn bị suy thoái và thậm chí hoàn nguyên một số khu rừng ngập mặn đã sử dụng thiếu hợp lý. Xây dựng khu bảo tồn RNM cán bộ địa phương tham gia trồng rừng * Tuyên truyền , giáo dục theo hướng chuyên sâu cho các đối tượng cán bộ địa phương , học sinh , sinh viên. Mở các lớp tập huấn , tham quan , thành lập các trạm nghiên cứu về RNM. Mở lớp tập huấn cho cán bộ Học sinh tham quan RNM Rú Chá VIII . KẾT LUẬN Hệ sinh thái RNM rất đa dạng gồm nhiều loài động vật, thực vật và vi sinh vật khác nhau. Các loài liên kết với nhau thông qua các quá trình trao đổi chất và năng lượng………. Các quá trình của hệ sinh thái như trao đổi chất, chu trình dinh dưỡng, quá trình phân hủy phụ thuộc vào: thủy triều, nhiệt độ, lượng mưa, kể cả sinh vật và con người… Sự phối hợp nhiều cấu trúc khác nhau đặc trưng như: tổ thành rừng, mật độ, phân tầng tạo nên một hệ sinh thái đa dạng. Rừng ngập mặn mang lại nhiều giá trị cho con người và tự nhiên như: cung cấp lâm sản, địa điểm du lịch, điều hòa khí hậu, giảm tác động của thiên tai, là nơi cư trú của nhiều loài sinh vật quý hiếm…… Hiện nay, hệ sinh thái rừng ngập mặn đang bị đe dọa bởi tác đọng của con nghười và thiên tai, làm diện tích rừng cùng với đa dạng sinh học giảm đi đáng kể…… Chúng ta cần phải có những hành động và biện pháp cụ thể để bảo vệ cũng như khai thác RNM một cách hợp lí, phục hồi những rừng ngập măn đã bị tàn phá… TÀI LIỆU THAM KHẢO * Daniel G. Spelchan Isabelle A. Nicoll * KHÔI PHỤC RỪNG NGẬP MẶN VÙNG VEN BIỂN VIỆT NAM (Báo cáo kết quả điều tra, khảo sát tháng 01/2012) * NHỮNG VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG VEN BIỂN VÀ PHỤC HỒI RỪNG NGẬP MẶN Ở ViỆT NAM. ( Lê Xuân Tuấn, Phan Nguyên Hồng, Trương Quang Học) * CHƯƠNG 16 : Rừng ngập mặn ở Việt Nam ( Tiến sĩ: Viên Ngọc Nam – ĐH Nông Lâm chúng tôi * Một số tài liệu, hình ảnh khác được sưu tầm. Nhóm SV thực hiện Vũ Thị Huyền Ninh Thị Hương Mai Thị Giang Trần Thu Hà K56A1KHMT
Thực Trạng Cháy Rừng Ở Việt Nam, Vai Trò Của Các Hệ Sinh Thái Rừng
Rừng được coi là một phần cần thiết không thể thiếu của thế giới. Cây cối quang hợp sẽ sản sinh ra ô xy để nuôi dưỡng các sinh vật sông trên trái đất. Bất kể loài sinh vật nào sống trên trái đất này đều cần đến oxy,bởi oxy sẽ giúp duy trì sự sống.
Theo cơ quan khí tượng, bên cạnh nguyên nhân trực tiếp là áp thấp nóng phía tây kết hợp với gió Lào, nhiệt độ tăng cao thì hiện tượng cháy rừng còn là hệ quả của hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu, cộng thêm việc 2012 là năm đổi pha, sau La Nina (pha lạnh) là El Nino (pha nóng).
Bên cạnh các khu rừng ven biển ở miền cực nam nằm trên các thảm than bùn, hay các vùng rừng Tây Nguyên với tập quán đốt rừng làm nương rẫy, vùng rừng núi phía Tây Bắc cũng là một khu vực bị thần lửa thường xuyên đe dọa. Trong mấy năm gần đây, rừng quốc gia Hoàng Liên thường xuyên bị cháy. Năm 2010, ít nhất 1.000 ha rừng Hoàng Liên bị thiêu rụi.
Như vậy, hiện trạng cháy rừng ở Việt Nam là không thể xem thường và phải tìm ra nguyên nhân và phương án xử lý kịp thời.
Nguyên nhân cháy rừng ở Việt Nam
Một trong những nguyên nhân cháy rừng hàng đầu là do sự thay đổi rõ rệt của khí hậu, trái đất nóng lên nhiệt độ cũng thay đổi thất thường theo. Biên độ nhiệt ngầy càng dao động mạnh lên và luôn giữ mức cao. Điều đó cho thấy nhiệt độ tại những nước nhiệt đới cao làm cho mùa hè khắc nghiệt hơn cháy rừng diễn ra phổ biến hơn.
Nền nhiệt độ luôn cao trên 40 độ C thì rất dễ dấn đến cháy rừng. Những khu rừng vào mùa hanh khô thường có dấu hiệu như là cây khô héo, cành cây, gốc cây trơ lại thường rất dễ bén lửa. Chỉ cần một chút lửa thôi nhưng do gió đưa đi làm cho cả cánh rừng mấy ha cũng có thể bị thiêu rụi trong vòng vài chục phút. Đây là nguyên nhân cháy rừng không thể bỏ qua.
Vai trò của rừng
Rừng như một sinh cảnh
Ví dụ, chim chích của Kirtland ( Dendroica kirtlandii ) là một loài chim có nguy cơ tuyệt chủng chỉ làm tổ trên cây thông (Pinus bankiana) ở một độ tuổi và mật độ cụ thể ở phía bắc Michigan. Loài chim biết hót này không sinh sản trong bất kỳ loại rừng nào khác, kể cả những cây thông nhỏ hơn hoặc già hơn. Tương tự, loài cú đốm nguy cấp ( Strixernidentalis ) chỉ xuất hiện ở một số loại rừng lá kim phát triển lâu đời ở phía tây Bắc Mỹ. Những khu rừng già này cũng duy trì các loài khác không thể tồn tại trên các khán đài trẻ hơn, ví dụ, một số loài địa y, rêu và gan.
Tuy nhiên, thông thường, nhiều loài xuất hiện trong rừng có khả năng chịu đựng sinh thái rộng hơn và trên thực tế chúng có thể thích nghi các loại môi trường sống khác nhau.
Rừng là tài nguyên
Gỗ: Gỗ là sản phẩm quan trọng nhất được khai thác từ rừng. Gỗ thường được sản xuất thành giấy, gỗ, ván ép và các sản phẩm khác. Ngoài ra, ở hầu hết các khu vực có rừng của củi thế giới kém phát triển là nguồn năng lượng quan trọng nhất được sử dụng để nấu ăn và các mục đích khác.
Các sản phẩm lâm nghiệp ngoài gỗ: bao gồm rộng rãi tất cả các thảm thực vật gỗ phi công nghiệp trong rừng và môi trường nông lâm kết hợp, hoặc có khả năng có giá trị thương mại. Các thuật ngữ khác đồng nghĩa với lâm sản không độc hại bao gồm lâm sản đặc biệt, lâm sản ngoài gỗ, lâm sản nhỏ, lâm sản thay thế và lâm sản thứ sinh.
Một số loại lâm sản không độc hại được thu thập ở Mỹ là nấm dại, quả mọng, dương xỉ, cành cây, nón, rêu, xi-rô cây thích, mật ong và các sản phẩm làm thuốc như vỏ cây cascara và nhân sâm. Lâm sản không phải là một phạm trù sinh học hay sinh thái; nó là một phạm trù chính trị và kinh tế phục vụ để làm nổi bật các tài nguyên rừng bị bỏ qua hoặc bị bỏ qua trong quản lý rừng như một nguồn thu nhập khả thi.
Rừng và giải trí
Bằng cách cung cấp một loạt các cơ hội giải trí ngoài trời, rừng khuyến khích mọi người sống theo lối sống năng động, lành mạnh. Rừng cũng cải thiện sức khỏe tinh thần và tinh thần thông qua liên kết với người khác và kết nối với thiên nhiên.
Các hoạt động giải trí trong rừng nuôi dưỡng sự đánh giá cao của mọi người về vai trò của rừng trong việc giữ gìn sức khỏe của hành tinh chúng ta.
Đầu tư vào rừng cho các cơ hội giải trí, chẳng hạn như du lịch, đi bộ đường dài và cắm trại, cũng cung cấp một sự thúc đẩy cho nền kinh tế địa phương và cảm giác tự hào về các cộng đồng xung quanh.
Vai trò của rừng trong biến đổi khí hậu
Hiện tại chúng đóng góp khoảng 1/6 lượng khí thải carbon toàn cầu, do sử dụng quá mức hoặc xuống cấp;
Rừng phản ứng nhạy cảm với khí hậu thay đổi;
Khi được quản lý bền vững, rừng sản xuất gỗ mộc như một sự thay thế lành tính cho nhiên liệu hóa thạch;
Và cuối cùng, chúng có khả năng hấp thụ khoảng một phần mười lượng khí thải carbon toàn cầu dự kiến trong nửa đầu thế kỷ này vào sinh khối, đất và lưu trữ chúng – về nguyên tắc là vĩnh viễn.
Rừng ảnh hưởng đến biến đổi khí hậu phần lớn bằng cách ảnh hưởng đến lượng carbon dioxide trong khí quyển. Khi rừng phát triển, carbon được loại bỏ khỏi khí quyển và hấp thụ trong gỗ, lá và đất. Bởi vì các khu rừng (và đại dương) có thể hấp thụ và lưu trữ carbon trong một khoảng thời gian dài. Carbon này vẫn được lưu trữ trong hệ sinh thái rừng, nhưng có thể được thải vào khí quyển khi rừng bị đốt cháy. Định lượng vai trò đáng kể của rừng trong việc hấp thụ, lưu trữ và giải phóng carbon là chìa khóa để hiểu chu trình carbon toàn cầu và do đó biến đổi khí hậu.
Nhiều chức năng sinh thái của rừng
Khu rừng biến đá vô hồn thành một hệ sinh thái: Trải qua hàng ngàn năm, các loài thực vật và động vật của rừng tự thiết lập và xây dựng một lớp phủ xanh. Rừng mọc chậm. Một vùng đất mới được tiếp xúc trước tiên sẽ bị chiếm đóng bởi một vài loài cây rất khỏe và có thể sống trên đá trần. Dần dần các thực vật và động vật khác theo sau. Khu rừng bao phủ vùng đất ngày nay có thể hàng ngàn năm tuổi. Bạn có thể chặt một số cây và không làm tổn thương gì cả. Nhưng nếu bạn chặt quá nhiều cây cùng một lúc, bạn có thể phá hủy nó.
Rừng làm đất: Đất trên đất là tảng đá cũ nát xen lẫn với những thực vật chết trong rừng và nhiều động vật nhỏ, vi khuẩn và thực vật sống trong đất. Rừng làm hầu hết đất trên hành tinh. Khi đất vườn trở nên nghèo nàn, rừng phát triển trên khu vườn cũ và làm cho đất tốt trở lại.
Rừng bảo vệ đất: Nó giữ đất với rễ của nó. Nếu cây bị chặt hạ và không có cây nào phát triển, đất sẽ bị cứng và khô và không tốt cho rừng. Nếu mưa lớn đến và không có cây, đất sẽ bị bùn và rửa trôi, gây ô nhiễm dòng suối, sông và biển.
Khu rừng che chở những khu vườn: Khi gió mạnh và mưa to đến, cây cối bảo vệ khu vườn. Gió mạnh có thể làm tổn thương mùa màng và làm khô đất. Gần bờ biển, phun muối có thể gây độc cho đất hoặc gây hại cho cây trồng. Rừng cũng có thể bảo vệ nhà cửa và làng mạc khỏi gió mạnh.
Rừng giữ nước: Cây và đất họ làm đầy nước và họ trữ nước này trong thời gian không mưa. Rừng kiểm soát dòng nước trên đất. Khi mưa lớn, cây giúp giữ nước trong đất. Chúng giữ nước trong cành, thân, rễ và lá của chúng. Khi đất khô, nước từ rừng giữ cho đất xanh. Không có cây trong rừng, đất có thể nhanh chóng bị khô và hoa màu có thể chết.
Vài trò của rừng trong việc ngăn ngừa hỏa hoạn: Khi rừng chết, đất trở nên khô cằn và có thể nhanh chóng bắt lửa và thiêu rụi toàn bộ sự sống.
Hậu quả cháy rừng không thể bỏ qua
Nếu con người còn tiếp tục gây ra cháy rừng hoặc không có ý thức bảo vệ rừng sẽ gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng. Một trong số đó có thể kể đến như sau:
Hâu quả đầu tiên cần nhắc tới là chúng ta đã bị mất đi cánh rừng hàng chục năm cũng có thể là hành trăm năm trong vào chục phút. Còn lại gì sau những ngọn lửa đó, chắc mọi người chỉ thu lại được than củi nhưng thay vào đó chúng ta đã mất thêm hàng chục năm nữa mới có thể lấy lại những gì đã mất.
Cháy rừng đồng nghĩa với việc chúng ta lại bị chậm lại hàng chục năm để trồng thêm rừng đó là một khoảng thời gian rất dài chính là những thách thức dành do loài người bởi không phải chỉ trồng thôi mà chúng ta còn cần có thêm nhiều biện pháp để chăm sóc và bảo vệ.
Không chỉ thế cháy rừng làm cho nhiều loài sinh vật bị thiêu rụi, xác động vật bị cháy đen sau những vụ cháy rừng trông rất thương tâm. Nếu như là những loài động vật quý hiếm thì sẽ gây ra sự mất cân bằng sinh thái.
Hậu quả của cháy rừng ở Việt Nam cũng giống như nhiều nước trên thế giới là mất cân bằng hệ sinh thái và ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống của con người. Mỗi người cần có ý thức phòng chống cháy rừng và bảo vệ rừng khỏi nguy cơ cháy rừng.
Cách phòng chống cháy rừng hiệu quả
Giáo dục ý thức phòng cháy chữa cháy rừng
Tuyên truyền, phổ biến và giáo dục cho người dân về pháp luật phòng chống và chữa cháy rừng.
Tuyên truyền trên loa truyền thanh thường xuyên. Các huyện và cơ sở tổ chức họp dân, vận động ký cam kết khi dọn đốt nương rẫy không để cháy lan vào rừng.
Những chủ rừng thì cần phải có cam kết phòng chống cháy rừng khi tham gia trồng rừng mới và khoanh nuôi tái sinh.
Quy hoạch vùng sản xuất nương rẫy. Vận động, tuyên truyền cho người dân không đốt rừng làm nương rẫy bừa bãi.
Xử lý nhanh, kịp thời cháy rừng
Đối với địa phương xảy ra cháy rừng thì cần phải chủ động xử lý nhanh chóng, kịp thời.
Làm rõ được nguyên nhân, xử lý nghiêm minh người có hành vi vi phạm về luật phòng chống và chữa cháy rừng.
Khen thưởng cá nhân, tổ chức có thành tích trong phòng, chữa cháy rừng
Có chế độ khen thưởng cho cá nhân, tổ chức có thành tích xuất sắc trong việc phòng chống và chữa cháy rừng.
Tăng cường kiểm tra bảo vệ rừng
Các hạt kiểm lâm huyện cần phải tăng cường kiểm soát các biện pháp phòng chống chữa cháy rừng của từng đơn vị, địa phương.
Giám sát, kiểm tra chặt chẽ người ra vào rừng.
Phát hiện sớm và xử lý nhanh chóng những vụ cháy khi vừa phát sinh.
Phân công, bố trí lực lượng thường xuyên kiểm tra, gác trực vào mùa cao điểm, nắng nóng, hanh khô.
Theo dõi và cập nhật tình hình thời tiết thường xuyên sẽ giúp dự đoán được cấp cháy rừng nếu xảy ra. Từ đó, chỉ đạo, bố trí lực lượng, có các cách xử lý phù hợp, kịp thời.
Rừng Amazon ở đâu
Rừng Amazon ở đâu và thuộc nước nào? Rừng Amazon nằm trong 9 lãnh thổ thuộc các quốc gia của khu vực Nam Mỹ là phần nằm ở phía Tây Nam Bán Cầu Trái Đất thuộc Châu Mỹ bao gồm 60% thuốc Brazil, phần còn lại là Colombia, Peru, Venezuela, Ecuador, Bolivia, Guyana, Suriname. Tổng diện tích của bề mặt phủ của rừng Amazon lên tới hơn 7 triệu km2.
Nơi đây được mệnh danh là Lá Phổi Xanh lớn nhất của trái đất với hệ động thực vật phong phú, phát triển đa dạng về chủng loại, đây là một trong những khu vực luôn luôn tiềm ẩn những điều kỳ bí khiến cho con người phải tò mò muốn tìm hiểu.
Một số hệ sinh thái rừng phổ biến
Rừng ngập mặn
Rừng ngập mặn bao gồm nhiều loại cây sống trong khu vực nước mặn ở ven biển cũng như ở trong vùng có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới.
Ở rừng ngập mặn thì không phải loại cây nào cũng có thể sinh sống và phát triển được, ở đây chỉ những loại thực vật thích hợp với vùng nước ngập mặn thì mới có thể sinh sống và phát triển một cách tốt nhất.
Chính vì những yếu tố đó mà đã tạo nên một môi trường sinh trưởng và phát triển khắc nhiệt chỉ có những loại cây ngập mặn với những đặc tính riêng thì mới có thể sống và thích nghi một cách tốt nhất.
Hệ sinh thái rừng ngập mặn được hình thành bởi nhiều yếu tố như động vật, thực vật và một số loại sinh vật khác.
Những khu rừng ngập mặn chỉ được lộ ra khi nước biển xuống thấp và khi nước biển dâng nên, điều này đã tạo ra một hệ sinh thái rừng ngập mặn phong phú và đa dạng với những đặc trưng riêng mà không phải hệ sinh thái rừng nào cũng có.
Rừng lá kim
Cây lá kim có thể phát triển khá tốt bên cạnh những cây rụng lá trong nhiều quần xã, như quần xã rụng lá ôn đới hay quần xã taiga.
Cây lá kim đã phát triển rất nhiều sự thích nghi thực sự gọn gàng để tồn tại và phát triển trong điều kiện hạn chế chất dinh dưỡng. Một trong những thích ứng lớn nhất là lá kim của chúng.
Cây lá kim có thể trông khá trần tục, nhưng cái cây đã tạo ra rất nhiều công việc để tạo ra chúng, và nó hy vọng sẽ thu được rất nhiều từ những chiếc kim. Mỗi kim có một lớp sáp gọi là lớp biểu bì (đừng nhầm với lớp biểu bì trên tay của bạn) giúp giữ độ ẩm quý giá không bị rò rỉ ra ngoài. Lá Kim cũng được bơm đầy hỗn hợp các hóa chất như tannin và terpen để làm cho chúng trở nên khó chịu đối với động vật ăn cỏ.
Cây lá kim thường phát triển chậm vì chúng thường phát triển trong đất hạn chế chất dinh dưỡng và chúng tiêu tốn rất nhiều chất dinh dưỡng mà chúng có trong việc tạo ra những chiếc lá kim. Chúng sử dụng những cây kim này trong một thời gian dài, từ hai đến năm năm hoặc lâu hơn.
Cây lá kim thường được gọi là cây thường xanh vì những chiếc lá kim giữ được màu xanh quanh năm. Nhưng, thực sự có một vài loài cây lá kim rụng lá!
Cách cây lá kim ảnh hưởng đến đất khá thú vị. Mặc dù chúng không rụng lá kim mỗi mùa thu, thỉnh thoảng chúng vẫn làm rơi lá. Theo thời gian, những cây kim này chất đống quanh gốc cây. Những chiếc kim không bị phân rã như những chiếc lá rụng khác. Thay vào đó, chúng phân hủy chậm và làm cho đất thậm chí còn hạn chế chất dinh dưỡng hơn. Tannin trong những chiếc lá kim cũng có tính axit và ngấm vào đất, khiến cho các cây và cây rụng lá khác khó lấy chất dinh dưỡng hơn.
Trong một số khu rừng lá kim, có rất nhiều tannin có tính axit trong đất đến nỗi chúng ngấm vào sông và nhuộm nước thành màu vàng.
Rừng đặc dụng là gì
Rừng đặc dụng là loại rừng được thành lập với mục đích chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng của quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng, nghiên cứu khoa học, bảo vệ di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh phục vụ nghỉ ngơi du lịch kết hợp với phòng hộ bảo vệ môi trường sinh thái.
Là vùng đất tự nhiên được thành lập để bảo vệ lâu dài một hay nhiều hệ sinh thái, đáp ứng yêu cầu sau:
Vùng đất tự nhiên bao gồm mẫu chuẩn của các hệ sinh thái cơ bản còn nguyên vẹn hoặc ít bị tác động của con người, các khu rừng có giá trị cao về văn hóa, du lịch.
Phải đủ rộng để chứa được một hay nhiều hệ sinh thái và không bị thay đổi bởi những tác động xấu của con người.
Tỷ lệ diện tích hệ sinh thái cần bảo tồn phải đạt từ 70% trở lên.
Điều kiện giao thông tương đối thuận lợi.
Khu bảo tồn thiên nhiên còn gọi là khu dự trữ tự nhiên và khu bảo toàn loài sinh cảnh, là vùng đất tự nhiên được thành lập nhằm mục đích đảm bảo diễn thế tự nhiên và đáp ứng các yêu cầu sau:
Vườn quốc gia: Vườn quốc gia Xuân Sơn ở Việt Nam
Vùng đất tự nhiên có dự trữ tài nguyên thiên nhiên và có giá trị đa dạng sinh học cao.
Có giá trị cao về khoa học, giáo dục, du lịch.
Có các loài động thực vật đặc hữu hoặc là nơi cư trú, ẩn náu, kiếm ăn của các loài động vật hoang dã quý hiếm.
Đủ rộng để chứa được một hay nhiều hệ sinh thái, tỷ lệ cần bảo tồn trên 70%.
Là khu vực gồm một hay nhiều cảnh quan có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu có giá trị văn hóa-lịch sử nhằm phục vụ các hoạt động văn hóa, du lịch hoặc để nghiên cứu, bao gồm:
Khu bảo tồn thiên nhiên: Phong cảnh khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long ở Ninh Bình
Khu vực có các thắng cảnh trên đất liền, ven biển hay hải đảo.
Khu vực có di tích lịch sử-văn hóa đã được xếp hạng.
Khu rừng văn hóa-lịch sử-môi trường
Tìm Hiểu Về Israel Và Người Do Thái
Có rất nhiều câu hỏi đeo đẳng trong suốt quá trình tìm hiểu để có câu trả lời thấu đáo, đại loại như:
1. Tại sao chỉ chiếm một phần nhỏ của dân số thế giới, nhưng người Do Thái lại có sự thông tuệ vượt thời gian, hơn hẳn các dân tộc khác trên thế giới? Nếu tính theo chỉ số IQ, chỉ số trung bình của người Do Thái là 110 so với chỉ số trung bình 100 của thế giới. Tuy mức chênh lệch IQ chỉ là 10, nhưng tỷ lệ thiên tài trong nhóm những người có IQ 110 cao hơn nhóm có chỉ số IQ 100 tới 120-150 lần!
2. Phải chăng người Do Thái có “gien” thông minh hơn người và “gien” này được lưu giữ và truyền từ đời này qua đời khác?
Câu chuyện này đã được nhiều nhà khoa học âm thầm nghiên cứu để tìm câu trả lời thấu đáo. Tuy nhiên, người Do Thái lại “bác bỏ” điều nay, cho rằng sở dĩ người Do Thái thành công là do điều kiện, hoàn cảnh bắt buộc họ phải nỗ lực, sáng tạo và vươn lên không ngừng để thích nghi với hoàn cảnh. Vậy thực, hư câu chuyện này ra sao?
3. Nếu như có “gien” Do Thái như vậy thì “gien” này được “lưu giữ” và phát triển ra sao từ thời “Cụ Tổ” của người Do Thái đến nay và trong hoàn cảnh họ bị ly tán, tha phương cầu thực?
Người Do Thái hiện nay đều coi Thủy tổ của mình là ông Abraham (và cũng là của người Hồi giáo – Người Hồi giáo gọi là Ibrahim) ra đời cách đây khoảng 4000 năm, và Nhà Tiên tri Moses, ra đời cách đây khoảng 3600 năm. Ông Moses đã dẫn dắt các nô lệ người Do Thái chạy trốn khỏi Ai Cập và đến khu vực Bắc Israel hiện nay, thống nhất 12 bộ lạc khác để lập ra nhà nước Do Thái. Hiện nay Israel là quốc gia Do Thái duy nhất trên thế giới, người dân đa phần là người Do Thái và quốc đạo là Đạo Do Thái. Để dễ hình dung, nếu có một nước khác có đặc trưng tương tự như Israel, chẳng hạn Trung Quốc, thì đặc trưng nước đó sẽ là: Người Trung Quốc, nước Trung Quốc, Đạo Trung Quốc. Nhưng trên thực tế ta thấy: người Hán, nước Trung Quốc và Đạo Khổng.
4. Tại khu vực hiện gồm phía Bắc Ai Cập, lãnh thổ Israel, Palestine, Gioóc-đa-ni hiện nay, khu vực phía Nam Syria, và phía Đông Bắc Iraq vốn trước đây là khu vực tranh chấp quyết liệt giữa bộ lạc Do Thái với các bộ lạc khác trong khu vực, cũng như giữa các đế chế lân bang với nhau như Roma, Assyria, Babilon, Ottoman… nhằm kiểm soát khu vực đồng bằng ven biển Israel và khu đồi cao Jerusalem để cho được gần với Đức Chúa trời. Sau sự kiện Ngôi đền thứ nhất của người Do Thái bị đốt năm 586 trước Công Nguyên thì mục tiêu xâm lược là để chiếm miền đất thánh Jerusalem, nơi cả 3 tôn giáo (Do Thái, Thiên chúa, Hồi giáo) đều coi là đất thiêng của mình.
Vậy tại sao trong khi hầu hết các bộ tộc du mục khác bị đồng hóa, hoặc bị tuyệt diệt, nhưng người Do Thái lại “thoát” được nạn này (tuy rằng người Do Thái cũng trải qua nạn diệt chủng Holocaust và một số cuộc truy sát tập thể trong quá khứ)? Vậy họ đã “thoát” bằng cách nào?
5. Tại sao người Do Thái lại có truyền thống hiếu học và tỷ lệ biết chữ rất cao so với những dân du mục cùng thời? Tại sao người Do Thái lại đi tiên phong trong rất nhiều lĩnh vực như khoa học tự nhiên, luật, khoa học chính trị, công nghiệp giải trí…?
Từ hàng ngàn năm trước công nguyên trẻ em Do Thái hầu hết biết đọc biết viết, và khi lưu lạc ở châu Âu, người Do Thái cũng có tỷ lệ biết đọc, biết viết cao hơn người bản địa. Cần nhớ, trước thời kỳ Phục Hưng cả châu Âu chìm đắm trong u muội, tỷ lệ mù chữ lên tới 80-90% dân số. Đến những năm 1930 của thế kỷ trước, người Do Thái gần như độc quyền trong lĩnh vực nghiên cứu năng lượng nguyên tử, thậm chí thời kỳ đó người ta còn gọi ngành khoa học này là “ngành khoa học Do Thái”.
Nhìn rộng hơn, không chỉ người Do Thái quan tâm đến chuyện học hành của con cái, mà người Đông Á, kể cả Việt Nam, cũng vậy và có thể kể ra không ít các tấm gương thành công đáng ngưỡng mộ. Nhiều gia đình sẵn sàng bán nhà, bán cửa để đầu tư chuyện học hành của con cái. Tuy nhiên đạt đến đỉnh cao trí tuệ như Albert Einstein, Karl Marx, Noam Chomski và rất nhiều nhà khoa học đoạt giải Nobel gốc Do Thái lại là một câu chuyện hoàn toàn khác. Tại sao người Do Thái làm được chuyện đó?
6. Trên thế giới đã từng có dân tộc nào bị trục xuất, sống lưu vong trên hai ngàn năm mà vẫn giữ được bản sắc, tiếng nói, chữ viết và tập tục của mình như người Do Thái không?
7. Các giáo sĩ (Rabbi), Hội đồng giáo sĩ và những người Do Thái chính thống là những người có địa vị và tiếng nói quan trọng trong xã hội. Vậy họ có vai trò ra sao trong việc duy trì tập tục, bản sắc và “nòi giống” Do Thái?
8. Tại sao mô hình Kibbudz của người Do Thái lại thành công và có sức sống kỳ diệu ở Israel, trong khi mô hình này lại không thành công hoặc không thể thành công ở các quốc gia khác. Cốt lõi tạo nên thành công của các Kibbudz là gì?
9. Khi người Do Thái được thực hiện giấc mơ “Phục quốc” năm 1948, hàng trăm ngàn người Do Thái từ trên 70 quốc gia khác nhau trên khắp thế giới đổ về mảnh đất Israel, họ đã sát cánh cùng nhau bắt tay xây dựng và bảo vệ đất nước. Tiếp đó, sau các biến động ở Liên Xô và châu Âu trong những năm 1989-1990, 1,5 triệu người Do Thái (tức trên 1/4 dân số) trở về “cố quốc”. Mỹ, Australia, Canada cũng là quốc gia của những người nhập cư, nhưng chưa từng chứng kiến lượng lớn người nhập cư đổ về (tính theo tỷ lệ dân số) trong một thời gian ngắn đến vậy. Tuy đến từ nhiều xứ sở khác nhau, nhưng hầu hết những người Do Thái không bị gặp các rào cản ngôn ngữ và nhanh chóng hội nhập vào xã hội mới. Chuyện này thực hư thế nào và được thực hiện ra sao?
Còn rất nhiều các câu hỏi khác nữa. Vấn đề đặt ra là mô hình Israel và bài học thành công của người Do Thái (tạm bỏ qua một bên các khiếm khuyết và một số “thói hư, tật xấu” của người Do Thái) có thể học được không và áp dụng ở quy mô nào (gia đình, dòng họ, công ty, thiết chế, đất nước…)?
Israel: Cường quốc nông nghiệp giữa sa mạc
Do điều kiện tự nhiên, sa mạc chiếm đến 60% tổng số 20.000 km2 diện tích, nên đất đai canh tác còn lại của Israel rất ít và chủ yếu nằm ở khu vực đồng bằng ven biển. Tuy nhiên, điều này không ngăn cản Israel trở thành nước có nền nông nghiệp phát triển nhất thế giới, chủ yếu nhờ đi tiên phong trong nghiên cứu khoa học và ứng dụng các thành tựu khoa học-công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.
Đi thăm các cơ sở nông nghiệp Israel mới thấy trình độ công nghiệp hóa nông nghiệp và khả năng lập kế hoạch sản xuất, dự báo thị trường của Israel đạt đến trình độ rất cao. Có lẽ dùng từ “nông dân” đối với họ là không chính xác, mà là công nhân nông nghiệp. Ngoài ra, đó là sự kết hợp chặt chẽ giữa 4 “Nhà”, gồm: (i) Nhà nước; (ii) Nhà khoa học; (iii) Nhà buôn; và (iv) Nhà nông. “Nhà nông” ở đây cần được hiểu là người bỏ vốn đầu tư, tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất nông nghiệp.
Đất đai ở Israel được nhà nước quản lý rất chặt chẽ. Nhà ở của dân thì xây trên các triền núi đá, khó cải tạo thành đất nông nghiệp, còn đất đồng bằng tuyệt đối sử dụng cho trồng trọt và canh tác. Thậm chí đất hoang mạc, nhưng tương đối bằng phẳng có thể cải tạo thành đất nông nghiệp thì cũng không được làm nhà ở trên đó.
Israel đi tiên phong trên thế giới trong lĩnh vực cải tạo đất hoang mạc, sa mạc thành đất nông nghiệp trù phú. Quy trình như sau (để đơn giản hóa): (i) San bằng đất hoang mạc, sỏi đá; (ii) Phủ lên đó 1 lớp đất dày, ít nhất là 1/2 m; (iii) Trồng các loại cỏ hoặc cây dại không cần tưới nước khoảng từ 3-5 năm, để biến đất chết thành đất màu; (iv) Sau quá trình cải tạo này, đất hoang mạc biến thành đất nông nghiệp và được giao cho các chủ đất (nhà đầu tư) để tiến hành sản xuất.
Về mặt sinh thái, bước vào thế kỷ 21, Israel là nước duy nhất trên thế giới đã mở rộng được diện tích rừng và quỹ đất nông nghiệp.
Tuy là nước nhỏ, có 8 triệu dân, nhưng Israel lại có hệ thống đường dẫn nước tái sử dụng dài nhất thế giới. Toàn bộ lượng nước thải được dẫn trở lại các trung tâm xử lý, lọc lại, sau đó được dẫn ngược trở lại theo các đường ống để sử dụng tưới tiêu cho nông nghiệp.
Hệ thống ống dẫn nước tưới được dẫn đến từng khoảnh vườn, tới từng cây và việc tưới được vi tính hóa qua hệ thống điều khiển ở trung tâm về thời gian tưới, lượng nước tưới sao cho phù hợp nhất với thời tiết, độ sinh trưởng của từng loại cây. Cũng từ trung tâm, các kỹ sư nông nghiệp sử dụng luôn đường ống dẫn nước để dẫn phân bón hoặc chất dinh dưỡng cần cho cây theo định kỳ.
Tại đầu từng khoảnh vườn, có bảng ghi chi tiết vườn trồng cây gì, giống nào, từ khi nào… Nhìn chung các cây trồng (cam, bưỏi, cà chua, ớt.. ) là những loại cây trồng có năng suất cao, đã được lai ghép cho phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng Israel là chịu nắng, chịu khô, chịu sâu bệnh nhưng lại cho năng suất cao và chất lượng quả, trái cây tốt.
Mỗi cây cam hoặc bưởi trông thấp như vậy nhưng lại rất sai quả và có thể cho đến vài tạ quả/cây khi đến mùa thu hoạch. Với lợi thế là trồng cây quả nhiệt đới có chất lượng cao, ổn định, hệ thống kiểm định chất lượng chặt chẽ, ở ngay sát châu Âu và cung cấp những hoa quả nhiệt đới “trái vụ” khi châu Âu bước vào mùa đông nên hoa quả Israel có rất nhiều lợi thế về giá và thị trường.
Đây có lẽ chính là mô hình đầu tư, sản xuất, phát triển và kinh doanh nông nghiệp mà một nước nông nghiệp như chúng ta cần học hỏi và để làm giàu tại ngay chính mảnh đất quê hương mình. Nếu so với Israel, có lẽ đất đai miền Trung Việt Nam còn màu mỡ và có các điều kiện tự nhiên để sản xuất tốt hơn nhiều. Ngay một nước có nền nông nghiệp phát triển nhất ở khu vực như Thái Lan cũng có hàng ngàn thực tập sinh lao động trong các trang trại, mà thực chất là lao động xuất khẩu.
Có điều ít người để ý là trong khi thực tập sinh Việt Nam chăm chỉ làm lụng, tiết kiệm từng đồng gửi về cho gia đình, vợ con, thì khá nhiều “lao động” Thái là các “tình báo” nông nghiệp. Họ là các kỹ sư, con cái các chủ nông trại Thái, những người nuôi chí làm giàu bằng nghề nông và sử dụng thời gian lao động tại Israel như một hình thức “khổ nhục kế”, âm thầm tìm hiểu quy trình sản xuất, kinh doanh, quản lý… để tìm đường khởi nghiệp làm giàu cho mình và cho nước Thái sau này.
Vậy ta nên và sẽ làm gì? Xin nhường câu trả lời cho các bạn trẻ.
Kinh Do Thái, lối sống, bản sắc, và tiếng Hebrew
CÂU CHUYỆN 1: Công việc đã xong, nhưng rủi một cái là không thể bay về được vì là ngày Thứ 7 nên hãng hàng không Israel El Al không làm việc. Nhưng lại có cái may là nhờ đó hiểu được thêm về kỳ nghỉ cuối tuần Thứ 6 và Thứ 7 (lễ Sabbath, người Do Thái đi làm từ Chủ nhật đến hết Thứ 5) của người Do Thái. Khi đi trên đường, đặc biệt ngày Thứ 7, thấy đường phố vắng ngắt và gặp không ít đàn ông Do Thái chính thống (Jewish Orthodox) mặc bộ đồ đen, đầu cũng đội mũ đen rộng vành, đứng trên vỉa hè, hai tay cầm quyển Kinh thánh Do Thái đọc lẩm nhẩm hàng tiếng đồng hồ với động tác hết sức thành kính và giữa trời nắng chang chang, trong khi đầu gật tới gật lui. Điều này không chỉ gây cho tôi sự ngạc nhiên thích thú, mà còn gợi ra rất nhiều điều.
CÂU CHUYỆN 2: Trước đó, khi chia tay Đại sứ Dan Stav, người tháp tùng trong suốt chuyến đi, tôi có nói rằng “Khi tôi mới đến nơi, ông Đại sứ có nói Bộ Ngoại giao Israel có khoảng 1000 nhà ngoại giao. Giờ đây khi đã xong các cuộc tiếp xúc tôi chỉ đồng ý một nửa. Các ông không chỉ có 1000 nhà ngoại giao, mà đó còn là 1000 Giáo sư nữa”. Dan ngửa mặt cười ha hả. Quả thực, hiếm có nước nào, kể cả các cường quốc, lại có nhiều nhà ngoại giao nắm giữ các vị trí chủ chốt nhưng lại có trình độ khá đều tay, am hiểu sâu chuyên môn và có thể trình bày vấn đề mạch lạc như một giáo sư đại học. Không chỉ rành chuyên môn, họ còn thể hiện tác phong hết sức chuyên nghiệp, động tác mạnh mẽ, dứt khoát.
Quay trở lại Phần 1, tôi thấy rằng các câu trả lời về nguyên nhân thành công của người Do Thái, sự cố kết của dân tộc này đều khởi nguồn từ 3 yếu tố chính (i) cuốn Kinh Do Thái (Jewish Bible), (ii) cách thức duy trì Đạo, bản sắc và lối sống Do Thái; và (iii) tiếng Hebrew. Các vấn đề khác như “gien” và tố chất thông minh của người Do Thái; tính hiếu học, ham hiểu biết và sáng tạo; cách duy trì và tổ chức cuộc sống, đời sống xã hội một cách văn minh, lành mạnh của họ đều bắt nguồn từ 3 yếu tố trên. Và cũng thật trớ trêu, đây lại là nguyên nhân chính khiến họ bị xua đuổi, miệt thị, truy sát trong hơn 20 thế kỷ qua. Tôi cũng nghiệm thấy rất ít dân tộc, quốc gia có thể học được theo họ, trừ phi anh cũng trở thành… người Do thái như họ!
Ta hãy đi từng vấn đề một:
Trong các tôn giáo trên thế giới, Đạo Do Thái được ghi nhận là đạo có tuổi đời lâu thứ hai trên thế giới (ra đời cách đây khoảng 3000 năm), sau Đạo Hindu (ra đời cách đây khoảng 4000 năm). Tuy nhiên, do Hindu là đạo đa thần, nên Do Thái giáo có thể xem là đạo độc thần (Monotheistic) ra đời sớm nhất thế giới. Đạo Độc thần là đạo chỉ thờ 1 vị chúa/thần/hoặc thánh duy nhất. Đạo Do Thái chỉ thờ duy nhất Chúa trời, nên trên bàn thờ trong nhà thờ Do Thái họ trang trí đơn giản, không thờ người hoặc động vật. Họ cho rằng, người là người, dứt khoát không thể là chúa hay thánh được và chỉ có một Đức Chúa trời duy nhất. Phải chăng điều này làm cho người Do Thái cũng như sinh hoạt tôn giáo của họ “dân chủ” hơn do không bị phân tán, mất bớt quyền lực qua các nhân vật trung gian?
Một điều rất đặc biệt là trong cuốn Kinh Torah (gồm 5 tập, ghi lại các lời của Nhà tiên tri Moses) có ghi người Do Thái được Đức chúa trời chọn (the Chosen People) để truyền đạt thông điệp của Chúa cho các dân tộc khác, dẫn dắt và khai sáng các dân tộc khác. Người Do Thái rất tin vào điều này, tin vào “sứ mạng” được Chúa giao phó. Đây có lẽ là động lực lớn nhất khiến người Do Thái luôn tìm cách đạt đến đỉnh cao của khoa học, phấn đấu đủ tầm trí tuệ “dẫn dắt” nhân loại như họ nghĩ đã được “Chúa lựa chọn”. Do đó, điểm nổi bật nhất ở người Do Thái là họ thấy mục đích cao nhất của cuộc sống là sáng tạo, chứ không chỉ là kiếm tiền, và kiếm tiền cũng như sự giàu có của họ thực ra là hệ quả của các lao động sáng tạo chứ không phải mục đích mà họ theo đuổi.
Chỉ bấy nhiêu thôi cũng gợi ra một số điều thú vị:
– Ngày thứ 7 nghỉ tuyệt đối để lấy sức lao động cho các ngày khác trong tuần và đây có thể là nguồn cảm hứng cho việc đấu tranh đòi quyền của người lao động sau này;
– Lễ Sabbath tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong gia đình (khi cả nhà cùng ngồi ăn quay quần bên nhau), và giữa các thành viên trong cộng đồng (khi hàng xóm cùng kéo nhau đến nhà thờ);
– Là cơ sở của việc đấu tranh giành quyền bình đẳng phụ nữ (không lao động trong ngày Sabbath) sau này, cũng như quyền của động vật;
– Vợ chồng “sản xuất” em bé trong ngày nghỉ khi tinh thần thoải mái thì đứa trẻ sau này cũng sẽ thông tuệ hơn.
Người Do Thái coi trọng chuyện học hành
Người Do Thái rất chú trọng đến chuyện học hành và chữ nghĩa của con cái. Cuốn Kinh Talmud từ cách đây trên 2000 năm đã yêu cầu các ông bố, bà mẹ phải dạy cho con cái biết đọc, biết viết từ năm lên 6 tuổi. Điều này, cũng như một số giáo lý khác trong kinh Talmud, được người Do Thái thực hiện hết sức nghiêm túc (sẽ nói kỹ sau), một phần vì thấy đúng, một phần vì sợ bị cộng đồng xa lánh. Do đó, từ cách đây trên 2000 năm người Do Thái cơ bản xóa được nạn mù chữ, với trên 90% người dân biết đọc, biết viết.
Đối với cuộc sống của con người hiện đại thời nay, điều này là quá sức bình thường. Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh người Do Thái là những người du mục, nông dân, thậm chí tha phương cầu thực mà vẫn giữ được truyền thống này, trong bối cảnh tới trên 90% dân châu Âu và các sắc dân khác ở Bắc Phi, Trung Đông ở xung quanh thời đó mù chữ thì đây quả là điều phi thường. Không chỉ thời nay người Do Thái mới được trọng dụng và phát huy vai trò, mà vào thời cực thịnh của Đạo Hồi (thế kỷ IX-XIII) sau Công nguyên, người Do Thái được người Hồi giáo tin dùng và đóng vai trò nổi trội là các thương gia biết tính toán, “ăn nên, làm ra” với hệ thống buôn bán kéo dài từ Trung Đông, qua Nam Á và Đông Nam Á, thậm chí tới Thượng Hải.
Vậy trong điều kiện bị chiếm đóng và lưu lạc, họ duy trì được chữ viết và tiếng nói của mình ra sao trong hàng ngàn năm mà không bị mai một? Câu trả lời chính là sự sùng đạo và cuốn kinh Do Thái viết bằng tiếng Hebrew.
Hầu hết những người Do Thái mà tôi gặp, dù là người Chính thống hay người Do Thái bình thường, đều nói rằng khi gặp nạn, vật đầu tiên và cũng là vật quý giá nhất mà người Do Thái đem theo đầu tiên đó chính là CUỐN KINH THÁNH, chứ không phải bất cứ vật dụng nào khác. Cuốn Kinh thánh Do Thái (Hebrew Bible) đối với họ vừa là đức tin, vừa là lịch sử, vừa là nguồn tri thức, vừa giúp họ giữ được bản sắc, vừa giúp họ có tương lai:
Đạo Do Thái và việc duy trì nòi giống
Nếu như người Đông Á chỉ dừng lại ở mức “khuyên răn” thì người Do Thái đã “luật hóa” và “hệ thống hóa” được việc chọn lọc có chủ đích thay cho việc chọn lọc tự nhiên, vô thức để “hoàn thiện” và “phát triển” gien của mình:
Nhiều nhà thần học mà tôi có điều kiện tiếp xúc cho rằng Đạo Do Thái hiện là một trong số ít tôn giáo “giữ” được “kỷ cương” khá tốt. Tuy nhiên vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh câu chuyện này và cần nghiên cứu sâu hơn mới có câu trả lời thỏa đáng. Quả thực, bất kỳ tôn giáo lớn hoặc quan trọng nào đều đứng trước 3 thách thức lớn trong quá trình phát triển, đó là:
– Duy trì được sự thống nhất, giữa các dòng, nhánh, xu hướng khác nhau trong cùng một tôn giáo, duy trì một đức tin chung trong thể thống nhất. Ví dụ, sự phân liệt rõ nhất thể hiện ở Đạo Hồi hiện nay với các dòng Shia, Suni, rồi nhánh Wahabis thuộc Suni, nhánh Alewite, Druze thuộc dòng Shia…, mà dòng, nhánh nào cũng cho mình mới là “chính thống”, còn những dòng, nhánh khác là “ngoại đạo”, cần bị loại bỏ để làm “trong sạch” Đạo Hồi;
– “Đồng hành” cùng xã hội hiện đại, nhưng vẫn duy trì các giá trị, các nguyên tắc “cốt lõi” (tức tính chất “chính thống”, mặc dù việc diễn giải và tự nhận các tính chất này còn nhiều điều phải bàn);
– Tránh việc tạo ra một tầng lớp “tăng lữ” mới, với các đặc quyền, đặc lợi, hủy hoại chính tôn giáo của mình.
Do Thái giáo cũng không phải là ngoại lệ, nhưng ít gặp các “vấn nạn” ở trên hơn, do:
– Ngay khi ra đời, Do Thái giáo đã không có “vấn nạn”, đưa đến sự kình chống nhau sâu sắc giữa các dòng tu. Đạo Hồi chẳng hạn, ngay sau khi Nhà tiên tri Mohamed qua đời, sự giằng xé giữa những người cho rằng cần phải chọn người thừa kế hoặc có dòng màu trực hệ để “hướng đạo” hạy chọn những người có khả năng nhất trong việc kế thừa và phát triển di sản của Mohamed đã đưa đến việc phân chia Hồi giáo thành 2 nhánh lớn là Shia và Suni. Do Thái giáo cũng có những dòng hết sức cực đoan, thậm chí không công nhận Nhà nước Israel, nhưng họ vẫn hợp tác, và không đi đến chỗ đối đầu nhau bằng bạo lực. Những người có tác dụng giữ sự hòa hợp và thống nhất Đạo Do Thái là các giáo sĩ và Hội đồng giáo sĩ.
– Trong hệ thống luật dân sự của Israel, còn có luật Do Thái Halakha tương tự như luật Sharia của Hồi giáo mà một số nước như Arab Saudi, Brunei… áp dụng. Halakha bao gồm 613 điều răn (commandments) với hệ thống tòa án riêng, và các “bản án” tôn giáo đối với người có đạo thậm chí còn đáng sợ và nghiêm khắc hơn các bản án dân sự. Luật Halakha tồn tại trong mọi ngóc ngách của đời sống xã hội, can thiệp sâu và điều chỉnh rất nhiều quy tắc, tập tục của đời sống xã hội. Nếu không tuân theo Halakha, các Rabbis có quyền rút “Phép thông công” (excommunicate) – tương đương với một bản án tử hình – và điều này cũng đồng nghĩa với việc khi qua đời, linh hồn người chịu hình phạt đó không được bay lên Thiên đàng.
– Người theo Đạo chính thống Orthodox tin và tự chọn cho mình lối sống theo các giá trị truyền thống và nguyên tắc nguyên thủy. Tuy nhiên, họ không tìm cách áp đặt lối sống của mình hay kỳ thị những người thế tục. Bản thân các Giáo sĩ (Rabbis) và những người Orthodox không được hưởng đặc quyền, đặc lợi, họ thỏa mãn với cuộc sống thanh bạch của mình. Trong đạo Hồi chẳng hạn, những người Wahabbis cũng có cuộc sống thanh bạch, khắc khổ, nhưng điều nguy hại là họ lại tìm cách áp đặt lối sống của mình lên những dòng, nhánh khác.
– Khác với các Đạo giáo khác là tìm mọi cách truyền đạo để mở rộng thành viên, càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên, để trở thành một người Do Thái rất khó, phải có căn cứ, bằng chứng xác nhận tới ít nhất 4 đời trước đó và quy theo mẫu hệ. Họ cho rằng, đã là “thiên sứ nhà trời”, “được chúa chọn” thì chỉ có ít người được hưởng vinh dự, chứ đâu có thể kết nạp tràn lan, cứ vào đến synagogue (nhà thờ Do Thái) là trở thành Do Thái ngay được.
Trong những điều kiện khắc nghiệt thời kỳ Đế quốc La mã là bá chủ khu vực Trung Đông, để tránh bị truy đuổi và tận diệt, người Do Thái buộc phải cải đạo sang đạo Thiên chúa. Tuy nhiên họ lại cải đạo trở lại thành người Do Thái khi điều kiện cho phép. Bản thân Hitler là người rất căm thù dân Do Thái, một cộng đồng đoàn kết nhưng sống tách biệt với người bản xứ. Trong con mắt Hitler, đã sinh ra là một người Do Thái thì sẽ luôn luôn là một người Do Thái, cải đạo chẳng giúp ích gì, và quyết truy sát 1 người nếu tìm được bằng chứng trước đó 4 đời họ là người Do Thái.
Tản mạn thay lời kết: Chuyện ăn uống và tố chất của người Do Thái
Đồ ăn Kosher (Kosher food) là đồ ăn được chế biến và ăn theo kiểu Do Thái. Đối với người Do Thái Chính thống, việc sử dụng Kosher là điều gần như bắt buộc, còn đối với người thế tục thì tùy lựa chọn. Các canteen phục vụ tai các cơ quan chính phủ Israel như Bộ Ngoại giao hay Bộ Quốc phòng nghiễm nhiên là các nhà hàng phục đồ ăn Kosher. Đồ ăn Kosher hiện ngày càng trở nên phổ biến tại Israel và trên khắp thế giới và không chỉ người Do thái chính thống mới dùng. Hiện nay, có 100.000 loại thực phẩm Kosher khác nhau được bán trên phạm vi toàn thế giới.
Vậy Kosher là gì và ăn như thế nào? Trong Halakha quy định rất rõ, chi tiết và khá phức tạp, nhưng chung quy lại có một số điểm chính:
Về các thức ăn Kosher:
– Một số con vật ăn được: chỉ ăn những con vật có móng chẻ, ăn cỏ và nhai thức ăn lại như bò, dê, cừu. Các con vật không ăn được là lợn, ngựa, và lạc đà. Lợn tuy có móng chẻ nhưng không nhai lại, còn ngựa, lạc đà tuy ăn cỏ nhưng không có móng chẻ.
– Ăn các loài có cánh như gà, vịt, ngỗng, bồ câu… Không ăn các loài chim ăn thịt như diều hâu, chim ưng, đại bàng.
– Ăn các loài cá có vây và vẩy như các hồi, cá ngừ, cá trích… Không ăn các con cá không vảy như lươn, các trê, cá tầm, tôm, tép, nghêu sò, ốc hến, các loài bò sát, côn trùng.
– Các thức ăn trung tính như trái cây, nước trái cây, ngũ cốc, trứng gà vịt, mật ong, rượu vang, chè, café.
Về cách ăn đồ Kosher:
– Chỉ uống sữa và các vật phẩm chế biến từ sữa của các con vật Kosher như bò, dê, cừu. Chỉ được dùng sữa và các vật phẩm chế từ sữa 6 tiếng sau khi dùng thịt, hoặc 30 phút trước khi ăn thịt chứ không được ăn, uống đồng thời. Đồ chế biến sữa và thịt, kể cả chậu rửa bát nhất thiết phải dùng riêng.
– Lúa mì, gạo, và một số loại rau, củ nhất định thì ăn được. Không ăn, uống nước trái cây hoặc đồ chế biến từ các loại loại quả như cam, quýt, bưởi… dưới 3 tuổi.
– Không ăn nội tạng động vật hay gia cầm; không ăn phần phía sau của con thú và không ăn thịt, cá đồng thời.
– Khi ăn thịt phải lấy hết sạch máu và người chế biến phải học cách giết con vật sao cho con vật chết nhanh nhất, không đau đớn, nhưng lại ra được hết tiết. Thậm chỉ còn phải rửa sạch và ngâm miếng thịt trong nước 30 phút trước khi chế biến để ra hết máu,
– Các nhà hàng Kosher nhất thiết phải do đầu bếp Do thái chính thống trực tiếp nấu nướng và bị phạt rất nặng, kể cả tước giấy phép kinh doanh, hành nghề nếu vi phạm.
Có lẽ trên thế giới không có dân tộc nào có kiểu ăn “kiêng, khem” phức tạp và rườm rà như người Do Thái chính thống. Các nhà hàng phục vụ đồ ăn Kosher thường đắt hơn từ 20-30% so với nhà hàng thông thường, vậy mà lúc nào cũng đông khách ăn.
Theo tôi, đây không chỉ là đồ ăn kiêng của người Do Thái, mà THỰC CHẤT KOSHER LÀ ĐỒ ĂN, CÁCH ĂN THÔNG MINH, KHOA HỌC, THẬM CHÍ LÀ LÝ TƯỞNG không chỉ của người Do Thái, mà của con người nói chung. Nếu chỉ khuyên nhủ thông thường sẽ ít người theo, nhưng khi khoa học được “phủ” một lớp màu tôn giáo thì Kosher đã trở nên thành món ăn kỳ ảo, mê hoặc và quyến rũ.
Tạm cắt nghĩa một số thứ:
– Theo người Do Thái, con vật cũng như con người đều có linh hồn. Nếu làm cho con vật chết đau đớn thì nó sẽ oán trách và cả người thịt lẫn người ăn nó đều bị “quở phạt”. Do đó, giết nhanh để con vật mau chóng được hóa kiếp lên thiên đàng.
– Khi con vật cắt được tiết nghĩa là con vật còn tươi, chứ không phải ăn đồ ôi. Thú tính và sự ngu muội của con vật nằm ở “dòng máu”, và ăn thú vật hay gia cầm có tiết sẽ làm con người lâu dần nhiễm “thú tính” và đầu óc trở nên trì độn, còn nòi giống đi đến chỗ thoái hóa.
– Thịt ăn cùng với cá không còn tác dụng bổ dưỡng nữa, mà triệt tiêu lẫn nhau. Còn trái cây trong 3 năm đầu thường chứa nhiều chất, độc tố có hại cho cơ thể.
– Uống sữa sau khi ăn thịt không tốt cho sức khỏe vì bản thân thịt nhiều chất đạm, lâu tiêu lại có thêm chất bổ dưỡng khác nữa làm cho cơ thể không thể hấp thụ nổi và dễ sinh bệnh.
– Trong điều kiện thiên nhiên hết sức khắc nghiệt của vùng Bắc Phi – Trung Đông, việc ăn uống tốt giúp người Do Thái chống chọi tốt hơn với khí hậu khắc nghiệt, làm cho không chỉ thể trạng khỏe khoắn mà trí tuệ của họ cũng hơn người. Các cụ nhà ta chả nói bệnh vào từ mồm đó sao?
Như vậy, trải qua cả ngàn năm, với cuốn Kinh Thánh Hebrew, người Do Thái không chỉ thành công trong việc bảo tồn, mà còn phát triển bản sắc, văn hóa, tôn giáo của mình. Không những vậy, thông qua ăn uống, cuộc sống tinh thần lành mạnh, làm cho “gien Do Thái” vốn đã ưu việt, ngày một trở nên ưu việt hơn. Khác với các tôn giáo khác, người Do Thái không tìm cách phát triển tôn giáo của mình qua con đường truyền đạo như Đạo Hồi, Đạo Thiên chúa, hay Đạo Phật, mà tìm cách giữ sao cho Do Thái giáo càng “thuần khiết” càng tốt. Phải chăng những người được Chúa “chọn mặt gửi vàng” đâu có thể phát triển tràn lan được!
Có lẽ chính vì vậy mà cách đây từ trên 3.000 năm Nhà tiên tri Moses của người Do Thái đã lường trước điều này khi ông, ngay từ khi đó, đã hình dung ra rằng nếu người Do Thái làm theo các lời răn dạy của ông thì họ sẽ trở thành đối tượng bị săn đuổi và tận diệt của nhiều sắc dân khác và vì vậy đã chuẩn bị cho họ hành trang đầy đủ trong cả ngàn năm thiên di trước khi “trở về Jerusalem”. Điều ngạc ngạc nhiên là người Do Thái không than thân, trách phận mà họ coi đó là “sự thử thách” của Chúa trời đối với dân tộc Do Thái!
TS. Hoàng Anh Tuấn là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược và Ngoại giao, Bộ Ngoại giao Việt Nam. Bài viết tổng hợp những ghi chép đăng lần đầu trên trang Facebook của tác giả về chuyến công tác tới Israel gần đây, thể hiện quan điểm cá nhân, không phải quan điểm của cơ quan nơi tác giả công tác.
Nguồn: http://nghiencuuquocte.org/2014/10/10/giai-ma-thanh-cong-cua-israel-va-nguoi-do-thai/
Hình 5: Nước Israen từ 1947 đến nay
CHIA SẺ BÀI VIẾT
Bạn đang xem bài viết Tìm Hiểu Về Hệ Sinh Thái Rừng Ngập Mặn trên website Sansangdethanhcong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!