Top 9 # Phân Biệt Gi Với D Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 4/2023 # Top Trend | Sansangdethanhcong.com

Chính Tả Phân Biệt Gi / R / D

– Gi và d không cùng xuất hiện trong một từ láy.

– Những từ láy vần, nếu tiếng thứ nhất có phụ âm đầu là l thì tiếng thứ hai có phụ âm đầu là d ( lim dim, lò dò, lai dai, líu díu,…)

– Từ láy mô phỏng tiếng động đều viết r (róc rách, rì rào, réo rắt,…)

– Gi và r không kết hợp với các tiếng có âm đệm. Các tiếng có âm đệm chỉ viết với d (duyệt binh, duy trì, doạ nạt, doanh nghiệp,…)

– Tiếng có âm đầu r có thể tạo thành từ láy với tiếng có âm đầu b, c, k ( gi và d không có khả năng này) (VD: bứt rứt, cập rập,…)

– Trong từ Hán Việt, tiếng có thanh ngã (~), nặng (.) viết d; mang thanh hỏi (?), sắc (/) viết với gi.

B) Bài tập thực hành:

Bài tập 1: Điền gi/ d/ r : (Bài đã điền sẵn đáp án)

dạy dỗ, dìu dắt, giáo dưỡng, rung rinh, giòn giã, dóng dả, rực rỡ, giảng giải, róc rách, gian dối, ròng rã.

Bài tập 2: Điền d/ r/ gi : (Bài đã điền sẵn đáp án)

– Dây mơ rễ má. – Rút dây động rừng.

– Giấy trắng mực đen. – Giương đông kích tây.

– Gieo gió gặt bão. – Dãi gió dầm mưa.

– Rối rít tít mù. – Dốt đặc cán mai.

– Danh lam thắng cảnh.

Bài tập 3: Tìm những từ ngữ có chứa tiếng rong, dong, giong để phân biệt sự khác nhau giữa chúng.

– Rong rêu, rong chơi.

– Củ dong, dong dỏng.

– Giong ruổi, trống giong cờ mở.

Bài tập 4: Tìm 3-5 từ có chứa tiếng: gia, da, rả, giả, dã, rã, dán, gián, dang, giang, danh, giành, rành, dành, giao, dò, dương, giương, rương.

*Đáp án:

– Gia: gia đình, gia hạn, gia súc, gia tộc, gia vị, chuyên gia,…

– Da: da bò, da diết, da mặt, da trời, cặp da,…

– Rả: rả rích, cửa rả, cỏ rả, rôm rả,…

– Giả: giả danh, giả dối, giả mạo, giả sử,giả thuyết, tác giả,…

– Dã: dã chiến, dã man, dã ngoại, dã sử, dã tâm, dân dã, hoang dã,…

– Rã: rã cánh, rã rời, rệu rã, ròng rã, rộn rã, tan rã,…

– Dán: dán mắt, dán tem, băng dán, keo dán, gỗ dán,…

– Gián: gián đoạn, gián điệp, gián tiếp, con gián,…

– Dang: dang cánh, dang tay, dang chân, dở dang, …

– Giang: giang hồ, giang sơn, giỏi giang, lạt giang,…

sách,…

– Giành: giành giật, giành nhau, tranh giành, giành độc lập,…

– Rành: rành việc, rành mạch, rành rọt, rõ rành,…

– Dành: để dành, dành dụm, dỗ dành, dành cho,…

– Giao: giao ban, giao dịch, giao du, giao liên, giao thừa, giao ước,…

– Dò: dò dẫm, dò hỏi, dò la, dò tin, dò xét, lò dò,…

– Dương: dương cầm, dương gian, dương lịch, âm dương, du dương, đại dương,…

– Giương: giương buồm, giương cung, giương mắt,giương cao ngọn cờ,…

– Rương: Cái rương, rương quần áo, hòm rương,…

Các từ khóa trọng tâm ” cần nhớ ” của bài viết trên hoặc ” cách đặt đề bài ” khác của bài viết trên:

phân biệt gi d r

,

Một Số Giải Pháp Vận Dụng Quy Tắc Phân Biệt D/Gi; Hỏi

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói : “tiếng nói là thứ của cải vô cùng quý giá lâu đời, và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó”. Vì thế mà trước Cách mạng tháng Tám, trong đấu tranh xây dựng nền văn hóa dân tộc, Đảng ta đã xem “nhiệm vụ tranh đấu về tiếng nói” là “nhiệm vụ cần kíp” và nêu cao chủ trương “thống nhất và làm giàu thêm tiếng nói” của dân tộc. Và sau đó gần 20 năm, trong khi đất nước đang dồn hết ý chí, sức lực vào cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước, đồng chí Phạm Văn Đồng lại lên tiếng nhắc nhở mọi người phải “giữ gìn sự trong sáng của tiếng ta” xem đó là một việc có ý nghĩa quan trọng là nó “góp phần chống Mỹ cứu nước trên mặt trận văn hóa”

Nhưng làm gì, làm thế nào để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt ?

Trước hết nói đến việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng ta, chúng ta phải xem xét kĩ sự nói năng của cộng đồng, xem xét kĩ hoạt động ngôn từ của xã hội. Chính ở đây mới thấy được những cách nói viết có trong sáng hay không trong sáng. Qua hoạt động của ngôn từ, chúng ta sẽ có tư liệu với những đúng, sai tự nhiên của nó . Những cái gì đúng, tốt, chuẩn mực, có tác dụng tích cực trong giao tiếp, như theo một quy luật khách quan sẽ được lưu giữ lâu dài và ngày càng phát triển. Ngược lại những gì không đúng không tốt sẽ bị đào thải cũng theo một cách khách quan. Chính qua sự vận động tự nhiên đó, các nhà ngôn ngữ học, các nhà văn hóa, nhà văn nhà thơ… mỗi bên bằng con đường riêng của nghề mình mà gạn lọc hệ thống hóa, cụ thể hóa những chuẩn mực tạo thành cái vốn đích thực của nhân dân ta, mà ta “phải giữ gìn, phải quý trọng” . Và chúng ta là những nhà giáo đặc biệt lại là những giáo viên tiểu học, những người đầu tiên đưa tiếng Việt đến với các em học sinh thì cần phải giúp các em nắm những cái chuẩn đó một cách vững vàng và thực hành nói viết một cách chuẩn ngôn ngữ nhất. Và không gì hơn để đạt được điều đó thì phải rèn luyện cho các em để các em tạo cho mình một sự nhạy cảm nhất định, đứng trước cái không chuẩn tự nhiên thấy ngờ ngợ hoặc khó chịu, thấy cần phải tìm cách sửa chữa. Lúc ấy cái chuẩn đã hình thành từ đó giúp các em nói, viết đúng hơn.

Mặt khác, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là một công việc nhằm vào nhiều mục tiêu cụ thể khác nhau. Một trong những mục tiêu cơ bản nhất mà cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: Phải làm sao cho “ở nước ta số người viết tốt, nói tốt… mỗi ngày một nhiều hơn. Yêu cầu này rất quan trọng vì xã hội ta đang phát triển, vì ta đang làm cách mạng tư tưởng và văn hoá và cách mạng khoa học kỹ thuật”. Muốn đạt tới mục tiêu này, chúng ta nhất thiết phải lo tổ chức cho đông đảo quần chúng, học sinh đặc biệt là học sinh tiểu học được rèn luyện ngôn ngữ một cách có hiệu quả, nhất là đọc, viết đúng.

Rèn luyện ngôn ngữ là một hoạt động giáo dục, giáo dục ngôn ngữ. Nó phải được xây dựng trên những cơ sở lý luận khoa học vững chắc. Nhưng rèn luyện đọc tốt, viết tốt không thể đơn thuần tập trung vào việc trang bị lý thuyết ngôn ngữ, lý thuyết khoa học về tiếng Việt mà trước hết là phải đưa người học vào hoạt động ngôn từ, vào thực tiểu đọc, viết một cách cụ thể, qua đó mà hình thành những kỹ năng, những thói quen đúng chuẩn. Muốn thế cần phải xác lập một quy trình thực hành, xây dựng một hệ thống những bài tập được cân nhắc, tính toán dựa trên các quy luật ngôn ngữ học, giáo dục học, tâm lý – ngôn ngữ học (cụ thể là các quy luật tiếp nhận và vận dụng tiếng mẹ đẻ), giúp học sinh – nhất là học sinh tiểu học có thói quen đọc và viết đúng. Rèn luyện cho học sinh những năng lực cần thiết trong giao tiếp nhất là trong khi viết. Để đạt được mục đích ấy là cả một quá trình phấn đấu bền bỉ của toàn ngành giáo dục, của mọi trường học, trong đó mỗi một giáo viên đứng lớp đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành cho học sinh thói quen, kỹ năng đọc, viết đúng chính tả.

Là một người giáo viên được trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh của miền Trung nói chung và của Quảng Bình nói riêng đều phân biệt d/gi; thanh hỏi/ ngã chưa chuẩn nên khi viết thường phạm lỗi chính tả là lẫn lộn hai âm và hai dấu thanh này. Có thể nói đây là loại lỗi phổ biến nhất. Trong quá trình giảng dạy, điều tôi nhận thấy rõ là đa số các em rất lúng túng khi phân biệt d/gi; hỏi/ngã. Chính việc phân biệt d/gi; hỏi, ngã lẫn lộn ở các em đã thúc đẩy giáo viên tìm tòi, nghiên cứu phương pháp giảng dạy giúp học sinh sửa chữa được những sai sót thường gặp này. Qua các đợt khảo sát, nhất là các giờ dạy chính tả, tôi thấy rất ít em viết đúng, những học sinh viết đúng thường là những học sinh giỏi, các em viết với chính nhận thức của các em chứ không theo một quy tắc, quy luật nào. Đối với những trường thuộc vùng miền khó khăn, số lượng học sinh giỏi rất hạn chế vậy thì những em viết đúng chính tả là bao nhiêu ? Bản thân tôi đã suy nghĩ và trăn trở rất nhiều. Phải làm gì và làm như thế nào để giúp các em viết đúng chính tả, góp một phần rất lớn vào quá trình giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt ? Sau bao nhiêu suy nghĩ, tìm tòi nghiên cứu và trải nghiệm, tôi đã mạnh dạn đưa vào cách vận dụng quy tắc phân biệt d/gi; dấu hỏi, ngã cho trường, cho lớp.

Chính vì vậy với mong muốn hình thành cho học sinh thói quen và kỹ năng vận dụng quy tắc phân biệt d/gi; hỏi ngã khi đọc và viết, tôi đã đi sâu nghiên cứu vấn đề : ” Một số giải pháp vận dụng quy tắc phân biệt d/gi; hỏi – ngã cho học sinh tiểu học“. Đề tài này nhằm giúp học sinh nắm được một số quy tắc phân biệt d/gi; hỏi ngã, vận dụng đúng quy tắc đó để nói và viết đúng chính tả. Bước đầu góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.

Về vấn đề phân viết đúng chính tả tiếng Việt, đặc biệt là cách phân biệt d/gi, hỏi/ngã đã có một số tác giả đề cập đến trong một vài công trình. Những công trình tiêu biểu được bạn đọc quan tâm là:

– “Rèn luyện ngôn ngữ” của tác giả Phan Thiều

– “Tiếng Việt thực hành”- NXB GD- 1998

– Sáng kiến kinh nghiệm của thầy giáo Nguyễn Don

– “Từ điển Tiếng Việt” -Trung tâm Từ điển học – NXB Đà Nẵng, 1995

Tuy nhiên, các công trình trên, tác giả nghiên cứu nhiều vấn đề có tính phổ quát của tiếng Việt. Để đi sâu nghiên cứu chuyên về việc phân biệt d/gi, hỏi ngã thì chưa thấy một công trình nào chủ ý tập trung nghiên cứu. Trên cơ sở vận dụng những kiến thức và kinh nghiệm của các tác giả có tên tuổi, tôi mạnh dạn lựa chọn riêng về vấn đề này nhằm như một điểm mới có tính vấn đề trong dạy học tiếng Việt ở bâc tiểu học. Vấn đề mà tôi nghiên cứu có tính phát hiện sau nhiều năm công tác ở trường tiểu học đặc biệt là khu vực miền Trung. Giáo viên và học sinh có thể vận dụng một cách dễ dàng trong quá trình thực hành các bài tập tiếng Việt và áp dụng trong việc giảng dạy các phân môn tiếng Việt.

Có thể áp dụng rộng trong dạy học tất cả các phân môn đặc biệt là phân môn chính tả của bộ môn Tiếng Việt các lớp bậc tiểu học.

Kết quả điều tra trước khi áp dụng đề tài

Ở trường Tiểu học Quảng Lưu có không ít giáo viên luôn quan tâm, có trách nhiệm trong việc rèn cho học sinh của mình nói đúng và đọc đúng chính tả. Tuy nhiên việc rèn luyện này chưa có một quy luật, quy tắc cụ thể mà đôi lúc còn mang tính chung chung. Chẳng hạn như gặp một dạng bài tập chính tả nào đó giáo viên nhắc nhở học sinh sửa sai, mà lại không đưa các bài tập đó vào một dạng tổng quát, có tính hệ thống , chưa xây dựng được một hệ thống bài tập thực hành một cách có cơ sở khoa học để học sinh có thể vận dụng một cách dễ dàng trong khi gặp những trường hợp khác tương tự.

Nguyên nhân chính là do quá trình học tập, học sinh không chịu khó rèn luyện chính tả.

Học sinh không nắm được quy tắc chính tả.

Do đặc thù ngôn ngữ địa phương, học sinh không phân biệt được ngôn ngữ nói và viết.

2.2.1. Tìm hiểu, nghiên cứu và dạy cho học sinh các quy tắc chính tả tiếng Việt

Trong các từ láy của Tiếng việt có quy luật bổng, trầm. Thanh điệu tiếng ta, căn cứ vào độ cao chia làm hai nhóm: nhóm bổng (thuộc âm vực cao) gồm các thanh: sắc – hỏi – không và nhóm trầm (thuộc âm vực thấp) gồm các thanh: huyền – ngã – nặng. Trong từ láy, tiếng thứ nhất đã mang thanh bổng thì tiếng thứ hai cũng sẽ mang thanh bổng; ngược lại tiếng này đã mang thanh trầm thì tiếng kia cũng mang thanh trầm (độ 700 từ)

– Ngang + hỏi: nho nhỏ, lẻ loi, vui vẻ…

– Sắc + hỏi: Vắng vẻ, trắng trẻo, lảnh lót…

– Hỏi + hỏi: lỏng lẻo, đủng đỉnh, thủng thẳng…

– Huyền + ngã: sừng sững, rền rĩ, sẵn sàng…

– Nặng + ngã: rộng rãi, đẹp đẽ, chững chạc.

– Ngã + ngã: dễ dãi, nhễu nhão, nhõng nhẽo…

Lưu ý: Chỉ có 16 từ láy “ngã + ngã”(nhễ nhãi, nghễnh ngãng, rỗi rãi, võ vẽ, cũ kỹ, mũm mĩm, bỗ bã, dõ dễ, õng ãnh, nhũng nhẵng, chỡm chãm, chũn chĩn, lỗ lã và 3 từ trên), số còn lại (hỏi + hỏi) độ 60 từ.

Để nhớ quy tắc này, ta phải thuộc câu:

Mẹo này có nghĩa là gặp một từ láy có một tiếng mình băn khoăn không biết hỏi hay ngã thì nhìn ở tiếng đi cùng: nếu tiếng này có thanh huyền, hoặc ngã, hoặc nặng thì cứ viết ngã; nếu có thanh sắc, hoặc hỏi, hoặc không thì cứ viết hỏi. Còn gặp một từ không biết nên viết hỏi hay ngã thì tạo một từ láy; nếu tạo được thì theo luật bổng trầm như nói trên mà quyết định.

Có một vài ngoại lệ cần nhớ: ngoan ngoãn, se sẽ (khe khẽ) , ve vãn, nông nỗi, bền bĩ, niềm nở, phỉnh phờ, hẳn hoi, luồn lỏi, nài nỉ, hồ hởi, xài xể, mình mẩy, bẽ bàng, lẳng lặng, vẻn (vơn) vẹn (16 từ)

* Với phân biệt d/gi : và không láy với nhau; nếu trong từ láy có một tiếng viết d hoặc gi thì tiếng thú hai lẽ lặp lại đúng d hoặc gi chứ không lẫn lộn.

– dai dẳng, dông dài, dại dột, dở dang, dồi dào, day dứt, dằng dặc, dò dẫm, diêm dúa, da diết, …

– giặc giã, giấu giếm, giữ gìn, giỏi giang, giãy giụa, giàn giụa,…

Với từ Hán Việt để giải quyết vấn đề hỏi, ngã có thể dựa vào mẹo sau:

Câu này thể hiện quy luật là một yếu tốt Hán Việt bắt đầu bằng m (mình), n (nên), nh (nhớ), v (viết),l (là), d (dấu), ng(ngã) thì viết là dấu ngã đúng như mẹo đã nêu trên. Ví dụ:

– Bắt đầu băng m: mã lực, mẫn cảm, giờ mão…

– Bắt đầu bằng n: Truy nã, nỗ lực, trí não…

– Bắt đầu bằng nh: nhẫn nại, nhũng nhiễu, nhãn hiệu..

– Bắt đầu bằng v: vũ khí, vĩ tuyến, vũ lực..

– Bắt đầu bằng l: lãnh đạm, lãng phí, lễ độ…

– Bắt đầu bằng d: dã man, dũng khí, dĩ vãng…

– Bắt đầu bằng ng: nghĩa vụ, hàng ngũ, ngưỡng mộ…

Ngoại lệ: ngải cứu (tên một cây thuốc)

Ngoài 7 phụ âm đã nêu, từ Hán Việt đi với phụ âm đầu khác hoặc không có phụ âm đầu (bắt đầu bằng nguyên âm thì viết là dấu hỏi. Trường hợp viết dấu ngã có khoảng 30 từ ngoại lệ, được tác giải Phan Ngọc trình bày trong một bài thơ như sau để ta dễ nhớ:

Hữu bạn, phẫu mổ, tĩnh yên, cữu hòm

Tiễn đưa, tiễu diệt, trẫm vua

Trĩ trẻ, trữ cất, huyễn mê, hỗ cùng.

Hỗn loạn, hãm hại, đãng buông

Quẩn khốn, hữu có, đãng đường thênh thang

Xã xã, hoãn chậm, quỹ rương

Suyễn suyễn, quỹ giấu, tiễn tên, tiễn làm

Hữu phải, cưỡng ép, trĩ chim

Tuẫn chết, kỹ hát, dễ em, sĩ trò

– Kỹ: kỹ thuật, kỹ xảo

– Bãi: bãi khoá, bãi công

– Bĩ: bĩ cực, vận bĩ

– Phẫu: phẫu thuật, giải phẫu

– Hữu: bằng hữu, hữu nghị, hữu ích, tư hữu.

– Tiễn: tiễn biệt, tống tiễn, thực tiễn

– Hỗn: hỗn loạn, hỗn chiến

– Đãng: phóng đãng, quang đãng

– Quỹ: công quỹ, thủ quỹ

– Suyễn: hen suyễn

– Hoãn: trì hoãn

– Cưỡng: cưỡng bức

– Hãm: hãm hại

– Sĩ: tiến sĩ, bác sĩ

– Trĩ: ấu trĩ

– Trữ: tích trữ, dự trữ

– Quẫn: khốn quẫn

– Huyễn: huyễn hoặc

– Cữu: linh cữu

Học thuộc bài thơ trên, có thể viết đúng hỏi, ngã cho vài nghìn từ Hán Việt.

– Mẹo Dưỡng Dục : Từ Hán Việt có dấu ngã hoặc dấu nặng thì viết d

Ví dụ : anh dũng, biểu diễn, dã man, dạ khúc, diện mạo, hiện diện ,…

– Mẹo Giảm Giá: Từ Hán Việt có dấu sắc hoặc dấu hỏi thì viết gi

Ví dụ : giải thích, khai giảng, nhà giáo, tam giác, thính giả,….

– Mẹo Di Dân: Từ Hán Việt không có dấu mà nguyên âm không phải là a thì viết là d

Ví dụ : di chuyển, du khách, duy tâm

Những từ song thức (từ mà âm, nghĩa giống nhau vì có cùng nguồn gốc) về mặt thanh điệu cũng được phân bố theo quy luật bổng trầm. Từ đó ta có hai mẹo sau:

– Lãi – lời – lợi

– Tản – tán – tan

Những mẹo này chỉ rõ khi ta đứng trước một từ không biết nên viết hỏi hay ngã mà tìm được một dạng song thức viết với ngã, hoặc huyền, hoặc nặng (lãi – lời – lợi) thì cứ viết dấu ngã; ngược lại, nếu tìm được một dạng song thức viết với hỏi, hoặc sắc, hoặc không (tản – tán – tan) thì cứ viết dấu hỏi. Ví dụ:

* Mẹo lãi – lời – lợi:

– Lãi – lờ: chĩa – chìa; cõi – còi; đẫy – đầy…

– Lãi – lợi: đỗ – đậu; lưỡi – lợi…

– Lãi – lãi: bẻn lẻn, rữa – vữa; quẫy – vẫy…

* Mẹo Tản – tán – tan:

– Tản – tán: bảo – báo, bản – vốn…

– Tản – tan: quẳng – quăng, tủa – tua, vểnh – vênh

– Tản – tản: bổ – mổ, phỏng – bổng, rủ – nhủ…

Tiếng Việt có độ 1.900 chữ mang dấu hỏi, 900 chữ mang dấu ngã. Khi phân biệt, ta cần vận dụng những quy tắc trên. đối với những chữ không quy tắc, ta phải ghi nhớ máy móc. Ví dụ: Trừ 4 phó từ khởi đầu bằng ch (chẳng, chả, chửa, chỉ), các phó từ còn lại đều mang dấu ngã (11 từ): mỗi, những, bỗng, cũng, vẫn, hãy, hẵng, đã sẽ, mãi, nữa.

Đi kèm với a, ă, â, e, ê, i: oa, oă, uâ, oe, uê, uy viết d

Ví dụ : doanh trại, duy tâm, kiểm duyệt, hậu duệ, duy trì, duyên dáng, duyệt binh,…

2.2.2. Vận dụng một số phương pháp để phân biệt d/gi; hỏi/ngã trong dạy học chính tả

Để khắc phục được lỗi phân biệt d/gi; hỏi ngã cho học sinh thì phải xuất phát từ tình hình thực tế mắc lỗi của học sinh. Vì vậy để hình thành nội dung và phương pháp giảng dạy, giáo viên phải nắm được và nắm một cách chắc chắn thông tin về cách phát âm tiếng địa phương có ảnh hưởng đến lỗi này.

Do vậy trong giảng dạy và giao tiếp với học sinh, giáo viên phải lắng nghe, theo dõi thật kĩ cách nói, cách đọc, bài viết của các em. Sau đó thống kê, phân loại những lỗi thông dụng.

Chú trọng quy trình dạy học của tiết chính tả

Trong tất cả các tiết chính tả, đặc biệt là các tiết học mà trong bài viết có những tiếng cần phân biệt d/gi; hỏi ngã, cần tiến hành đúng quy trình, phát huy tính tích cực chủ động của học sinh.Giáo viên để cho các em tự đọc bài, tự phát hiện ra những từ mình dễ sai lỗi, hoặc phát hiện cùng nhau trong nhóm, từ đó hình thành cho các em sự chú ý để khắc phục.

Khi chấm bài, nếu gặp lỗi sai của học sinh, thì phải cẩn thận gạch chân bằng bút đỏ, ghi lại những lỗi đó lên bảng, yêu cầu học sinh tự sửa lại. Và cho các em đọc lại những từ mà các em đã sửa lại đó.

Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải chú ý luyện phát âm cho đúng, rõ để học sinh dễ phân biệt các thanh, các âm đầu, âm chính, âm cuối vì chữ quốc ngữ là chữ ghi âm, âm thế nào, chữ ghi thế ấy. Việc rèn phát âm không chỉ được thực hiện trong tiết Tập đọc mà được thực hiện thường xuyên, liên tục, lâu dài trong các tiết học khác. Với những học sinh đọc yếu thì thường viết chính tả sai nhiều. Trong giờ Tập đọc, tôi rèn cho các em luyện phát âm hoặc cho đánh vần những từ, tiếng các em đọc sai. Sau đó, giáo viên giao việc ở nhà cho học sinh là tập đọc một đoạn nào đó và viết đoạn đó vào vở. Hôm sau, học sinh đem lên lớp cho giáo viên hoặc tổ trưởng kiểm tra vào 10 phút truy bài đầu giờ. Với những HS có vấn đề về phát âm như nói ngọng, nói lắp…, giáo viên lưu ý học sinh chú ý nghe cô phát âm để viết cho đúng. Vì vậy, giáo viên phải cố gắng phát âm rõ ràng, tốc độ vừa phải mới có thể giúp học sinh yếu viết đúng chính tả.

Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh cách phát âm đúng về hỏi và ngã: Để phát âm đúng dấu ngã, ta dùng phần dưới của lưỡi, chạm một ít vào hàm ếch, khi phát âm, hơi không bật hết ra như với các dấu khác (ngá, ngà, ngả) mà hơi kìm hơi lại một ít.và hơi đưa phần lưỡi này ra phía ngoài (như chữ “ngạ” thì cũng kìm hơi nhưng hơi kéo vào trong).

: Rèn luyện học sinh kĩ năng nghe và viết đúng

Muốn sử dụng được biện pháp này thì điều đầu tiên là giáo viên phải nói đúng và viết đúng. Điều này nhiều giáo viên hay quên. Khi đọc chính tả cho học sinh thì giáo viên chú ý nhưng khi nói thì do đặc điểm phương ngữ nên vẫn hay bỏ qua điều này.

Phải rèn cho học sinh nghe kĩ cách phát âm của cô thầy, hiểu nghĩa của từ, sau đó phát âm lại rồi mới quyết định là viết d/gi, hay hỏi/ngã.

Biện pháp 5: Giải nghĩa từ để thấy sự khác biệt

Biện pháp thứ ba để khắc phục lỗi chính tả cho học sinh là giải nghĩa từ. Muốn viết đúng chính tả thì học sinh phải hiểu nghĩa của từ chính xác.Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết Luyện từ và câu, Tập đọc, … nhưng nó cũng là việc làm rất cần thiết trong tiết chính tả, khi mà học sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hay phân tích cấu tạo tiếng.

Có nhiều cách để giải nghĩa từ cho học sinh. Giáo viên có thể cho học sinh đặt câu vì nếu học sinh đặt câu đúng tức là học sinh đã hiểu nghĩa từ.

Ví dụ 1: Phân biệt “sửa” và “sữa”, “chửa” và “chữa” “nghỉ” và “nghĩ”.

Ví dụ 2: phân biệt “giành” và “dành”, “da” và “gia”, “dày” và “giày”

Để xác định sự khác biệt và sử dụng hỏi/ngã, d/gi chính xác, giáo viên cần dựa vào đặc tính ngữ nghĩa của từ để dung cho chính xác. Ví dụ như “da” hay “gia”. Khi dùng với nghĩa là vỏ bọc bên ngoài cơ thể động vật thì dùng “da” (ví dụ: da cô ấy rất trắng), khi dùng với nghĩa là tăng thêm thì dùng “gia” (ví dụ : gia vị, gia tăng) hay có nghĩa là nhà (Hán Việt) thì dùng là “gia”.

Giáo viên có thể cho học sinh quan sát tranh ảnh để học sinh hiểu nghĩa của từ một cách chính xác. Ví dụ, khi giải thích từ “sửa” và “sữa” giáo viên lấy hình ảnh người thợ đang sửa chữa máy móc và hộp sữa để học sinh thấy được sự khác biệt.

Đặc biệt, với những từ nhiều tiếng, từ nhiều nghĩa, giáo viên phải đặt từ đó trong văn cảnh cụ thể để gợi lại nghĩa của từ hoặc giúp học sinh giải nghĩa từ, đồng thời cho học sinh đặt câu dưới sự hướng dẫn, gợi ý của giáo viên để học sinh rèn luyện kĩ năng sử dụng từ đúng nghĩa, đúng chính tả.

Những bài tập làm ở trên lớp và ở nhà là những bài tập làm thêm để củng cố kiến thức. Nhưng thông qua từng loại bài tập này, giáo viên cần hệ thống theo từng quy tắc chính tả, đưa những bài tập về một dạng quy tắc nhất định để học sinh dễ nắm, dễ nhớ và dễ dàng vận dụng khi gặp những trường hợp tương tự.

Bài tập về điền từ khuyết

– Sau bài tập này giáo viên rút ra quy tắc :

…ải thích, …a thịt, …i chuyển, anh …ũng, biểu …iễn, nhà …áo, tam …ác

Khoanh tròn vào những chữ cái đặt trước những chữ viết đúng chính tả:

* Điền vào ô trống chữ Đ trước những chữ viết đúng chính tả, chữ S trước những chữ viết sai chính tả:

Nghĩ ngợi Nghỉ ngợi

Nghỉ ngơi Nghĩ ngơi

Xã giao Xả dao

* Nối các tiếng ở cột A với các tiếng ở cột B để tạo thành từ viết đúng chính tả:

A B

Dao dục

Giao kéo

Giáo lụa

Dải thích

Giải tiếp

Chọn từ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống trong câu sau:

– Cháu bé đang uống ….. (sửa, sữa)

– Đôi ….. này đế rất …. (giày, dày)

– Chúng ta phải biết … (giữ gìn, dữ dìn)

Tìm từ sai chính tả trong câu sau và sửa lại cho đúng:

– Ông ngồi trước cổng ủy ban xả để đợi lảo chủ tịch.

– Trên đàn thiên lí bóng xuân sang.

– Trước ngả ba đường, nó không biết phải đi hướng nào cho đúng.

– Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giả dần sàng.

– Ông ấy là tác giã vỉ đại của nền văn học nhân loại.

* Bài tập tìm từ đúng với nghĩa tương ứng

. Tìm từ ngữ có thanh hỏi hoặc thanh ngã có nghĩa như sau:

Trên trời có …ếng nước trong

Con kiến chẳng lọt, con ong chẳng vào.

Đôi mắt thật to

Toàn làm bằng tơ

Êm ái giấc mơ.

Tiếng ve cơm trong veo

Cùng …ó đưa tre biếc

Bè …ịu …àng thương yêu

Mang nhiều niềm tha thiết

Lời ve kim …a …iết

Xe sợi chỉ âm thanh.

(theo Nguyễn Minh Nguyên)

Vừa ra khỏi nhà, anh keo kiệt cởi ngay đôi ..ày, đeo lên cổ. Đến cổng nhà người bạn, một con chó …ữ nhảy ra cắn ngay vào bắp chân. Anh liền ôm lấy vết thương và mừng rỡ cho rằng …ù sao cũng không hỏng đôi …ày.(Truyện dân gian)

Sau khi chữa bài cho các em, giáo viên vừa nhận xét chính tả, vừa phát âm vừa phân biệt nghĩa, vừa viết đúng và so sánh chính tả và cuối cùng là chốt quy tắc chính tả.

Đối với những em sai tôi yêu cầu các em về nhà đọc và viết lại mỗi tuần hai dòng tôi luôn kiểm tra vở bài tập của các em để kịp thời sửa sai.

Phần bài tập về nhà tôi luôn kết hợp với tổ trưởng kiểm tra trước giờ vào lớp nên các em phát hiện bạn nào sai tôi gọi em đó lên để hướng dẫn lại.

Ngoài những bài tập trong sách giáo khoa tôi còn nghiên cứu tham khảo một số sách tìm ra một số bài tập thích hợp với từng loại để cho các em làm thêm ở nhà, hoặc các tiết ôn luyện vào buổi chiều nhằm khắc sâu kiến thức vừa học ở lớp.

Khắc phục và sửa chữa lỗi trong dạy học các môn học khác và trong giao tiếp với học sinh

Khi dạy học các môn học khác, nếu như gặp hiện tượng học sinh sai lỗi phân biệt d/gi; hỏi ngã giáo viên cũng cần kịp thời sửa lỗi ngay cho học sinh kể cả khi học sinh nói hay trên bài làm.

Trong quá trình giao tiếp với học sinh, chúng ta không nên lơ là, chủ quan mà phải biết lắng nghe học sinh. Chính do đặc điểm phương ngữ, những câu nói thường ngày mà không được chỉnh sửa là một trong những lí do khiến các em đọc sai và viết sai trong văn bản.

Quá trình thực hiện cách vận dụng quy tắc phân biệt hỏi – ngã với thời gian khá dài, trường Tiểu học Quảng Lưu chúng tôi đã đạt được những kết quả sau:

Kết quả cụ thể sau khi thực hiện sáng kiến trên 5 khối lớp- năm học 2013-2014

Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Trong giáo dục tiểu học, các nội dung dạy học với dung lượng kiến thức cung cấp cho học sinh tuy chưa nhiều nhưng là những kiến thức rất cần thiết, làm cơ sở để hình thành nhân cách con người Việt Nam dưới chế độ ưu việt của chúng ta, góp một phần lớn vào quá trình giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.

Vì vậy muốn nâng cao số lượng học sinh đọc, viết đúng chính tả thì không chỉ trách nhiệm của những người giáo viên đứng lớp mà đó là trách nhiệm của cộng đồng xã hội. Đó là công việc lâu dài, thường xuyên. Cho nên toàn xã hội phải quan tâm, chăm lo. Vì: “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”. Hơn ai hết là những người giáo viên được trực tiếp dạy học sinh tiểu học, bản thân tôi luôn xác định cho mình trách nhiệm to lớn trong quá trình rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.

Đê góp phần thực hiện điều đó, bản thân là một giáo viên trực tiếp đứng lớp, là một người con của quê hương Quảng Bình, để giúp các em phân biệt tốt hơn lỗi d/gi; hỏi/ngã trong khi nói và viết, góp phần giúp các em nói, viết đúng chuẩn ngôn ngữ hơn, người giáo viên cần :

– Thứ nhất là phải tìm hiểu, nghiên cứu và dạy cho học sinh các quy tắc chính tả tiếng Việt , cụ thể là các quy tắc phân biệt d/gi; hỏi / ngã:

+ Quy tắc trong từ láy

¬ Phân biệt d/gi: d và gi không láy với nhau

¬ Phân biệt hỏi / ngã: Sử dụng mẹo: Huyền – ngã – nặng- sắc -hỏi – không

+ Quy tắc trong từ Hán Việt

¬ Phân biệt d/gi : Mẹo: Dưỡng Dục; Giảm Giá; Di Dân

¬ Phân biệt hỏi/ ngã: Mẹo: Mình Nên Nhớ Viết Là Dấu Ngã

+ Quy tắc ngữ nghĩa với phân biệt hỏi/ngã: Mẹo: lãi – lời lợi ; tản- tán- tan

+ Quy tắc trước âm đệm với phân biệt d/gi: trước âm đệm đi kèm với a, ă, â, e, ê, i : oa, oă, uâ, oe, uê, uy, viết d

– Thứ hai phải vận dụng một số phương pháp để phân biệt d/gi; hỏi/ngã trong dạy học chính tả

+ Biện pháp 1: Điều tra cơ bản

+ Biện pháp 2: Chú trọng quy trình dạy học tiết chính tả

+ Biện pháp 3: Luyện phát âm

+ Biện pháp 4: Rèn cho học sinh kĩ năng nghe và viết đúng

+ Biện pháp 5: Giải nghĩa từ để học sinh thấy được sự khác biệt

+ Biện pháp 6: Làm các bài tập chính tả

+ Biện pháp 7: Khắc phục và sữa lỗi trong dạy học các môn học khác và trong giao tiếp với học sinh

Tóm lại, để nâng cao chất lượng giảng dạy, giáo viên phải không ngừng đổi mới phương pháp dạy học. Trên có sở bám sát đối tượng học sinh đang giảng dạy cùng với điều kiện thực tế của nhà trường, giáo viên có thể vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp giảng dạy cho phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất vì không có phương pháp dạy học nào là tối ưu hay vạn năng. Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Tuy nhiên vận dụng có hiệu quả hay không còn tùy thuộc vào khả năng truyền đạt của người giáo viên và sự chăm chỉ học tập của học sinh. Để học sinh đạt được kết quả cao trong học tập, ngoài kinh nghiệm giảng dạy, người giáo viên phải luôn luôn theo dõi những tiến bộ trong học tập của học sinh, qua đó kịp thời cải tiến, điều chỉnh hoạt động dạy cho có hiệu quả hơn.

Đối với học sinh tiểu học, các em thực sự là những mầm cây còn rất non nớt, để có được một cây to, cây khỏe, mỗi giáo viên dạy không chỉ phải trăn trở tìm tòi về nội dung, phương pháp giảng dạy mà cần phải có lòng nhiệt tình, sự kiên trì và nhẫn nại hơn mức bình thường.Với lương tâm và trách nhiệm, trí tuệ và tâm huyết, mỗi người giáo viên cần biết tự rèn luyện, tự học tập, tự sáng tạo để trở thành tấm gương sáng cho thế hệ trẻ phấn đấu và rèn luyện, xứng đáng với niềm tin của nhân dân, góp phần trong sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo. Làm được như vậy thì chúng ta mới xây được nền móng vững chắc cho ngôi nhà tương lai của các em sau này.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Quy Tắc Chính Tả Phân Biệt L/N, Ch/Tr, X/S, Gi/D/, C/Q/K, I/Y

Bài tập chính tả phân biệt các chữ cái đặc biệt

Quy tắc chính tả phân biệt l/n, ch/tr, x/s, gi/d/, c/q/k, i/y dành cho học sinh tiểu học tham khảo. Quy tắc chính tả này được dùng để phân biệt quy tắc chính tả do một âm có nhiều cách viết. Mời thầy cô cùng tham khảo chi tiết và tải về.

– Đầu câu, danh từ riêng.

Ví dụ: Bác Hồ, Tổ quốc, Mặt Trời,…

– Viết hoa khi dẫn lời nói trực tiếp.

Ví dụ: Thanh gọi mẹ ríu rít: – Mẹ ơi!

– Sau dấu hai chấm mà kiểu câu liệt kê thì không viết hoa.

Ví dụ: Xoài có nhiều loại: xoài tượng, xoài cát, xoài thanh ca,…

– Viết hoa tên người, tên địa danh nước ngoài: phiên âm, dịch ra tiếng Việt.

+ Trường hợp phiên âm qua âm Hán Việt: Viết theo quy tắc viết tên người, tên địa lí Việt Nam.

Ví dụ: Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành, Khổng Tử, Đức, Nhật Bản, Bồ Đào Nha, Triều Tiên …

+ Trường hợp phiên âm không qua âm Hán Việt (phiên âm trực tiếp, viết sát theo cách đọc): Đối với mỗi bộ phận tạo thành tên riêng, viết hoa chữ cái đầu và có gạch nối giữa các âm tiết.

Ví dụ: Phơ-ri-đơ-rích Ăng-ghen, Vơ-la-đi-mia I-lích Lê-nin, Mát-xcơ-va, I-ta-li-a, An-giê-ri, …

Qui tắc chính tả do một âm có nhiều cách viết (trường hợp i/y)

Có 3 trường hợp viết y:

+ Bắt buộc viết y đứng sau âm đệm như: huy, tuy, thúy,…

+ Đứng sau nguyên âm ngắn a như: ây

+ Đứng trước ê khi chữ đó không có âm đầu như: yêu, yết, yếm

– Trường hợp bắt buộc viết i:

+ Sau các nguyên âm dài, trong đó các vần kết thúc bằng phụ âm mà không có âm đệm.

Ví dụ: kim, tim, tin, …

+ Trước a khi chữ đó không có âm đệm như: lía, kia, chia,…

– Trường hợp viết i/y đều đúng trong trường hợp có âm tiết mở (khuyến khích học sinh viết i: Châu Mĩ/Châu Mỹ, Địa lí/Địa lý, Bác sĩ/Bác sỹ,…)

– Phải viết i hoặc y bắt buộc do phân biệt nghĩa.

Ví dụ: bàn tay – lỗ tai; ngày mai – may mắn; khoái chí – cái khoáy âm dương.

1. Chính tả phân biệt l /n:

Ghi nhớ:

– L xuất hiện trong các tiếng có âm đệm (VD: loan, luân, loa,…)/N không xuất hiện trong các tiếng có âm đệm (trừ 2 âm tiết Hán Việt: noãn, noa).

Trong cấu tạo từ láy:

+ L/n không láy âm với nhau.

+ L có thể láy vần với nhiều phụ âm khác (VD: lệt bệt, la cà, lờ đờ, lò dò, lạnh lùng,..)

+ N chỉ láy âm với chính nó (no nê, nợ nần, nao núng,…)

Bài tập: Điền l / n:

…o …ê, …o …ắng, …ưu …uyến, …ô …ức, …ão …ùng, …óng …ảy, …ăn …óc, chúng tôi chúng tôi …ành …ặn, chúng tôi …ợi, …oè …oẹt, …ơm …ớp.

2. Chính tả phân biệt ch / tr:

Ghi nhớ:

– Khả năng tạo từ láy của tr hạn chế hơn ch. Tr tạo kiểu láy âm là chính (trắng trẻo), còn ch cấu tạo vừa láy âm, vừa láy vần (chông chênh, chơi vơi) (tr chỉ xuất hiện trong một vài từ láy vần: trẹt lét, trọc lóc, trụi lũi).

– Những danh từ (hay đại từ) chỉ quan hệ thân thuộc trong gia đình chỉ viết với ch (không viết tr): cha, chú, cháu, chị, chồng, chàng, chút, chắt,…

– Những danh từ chỉ đồ vật thường dùng trong nhà chỉ viết với ch: chạn, chum, chén, chai, chõng, chiếu, chăn, chảo, chổi,…– Từ có ý nghĩa phủ định chỉ viết với ch: chẳng, chưa, chớ, chả,…

– Tên cây, hoa quả; tên các món ăn; cử động, thao tác của cơ thể, động tác lao động chân tay phần lớn viết với ch.

– Tiếng trong từ Hán Việt mang thanh nặng (.) và huyền ( ) viết tr.

Mẹo tr / ch:

– Khi gặp một chữ bắt đầu bằng ch, nếu thấy chữ đó mang dấu huyền ( ), dấu ngã (~) và dấu nặng (.) thì đấy là từ thuần Việt.

Ngược lại, một chữ viết với tr nếu mang một trong ba dấu thanh nói trên thì chữ đó là chữ HV.

Cụ thể: Tiếng HV mang một trong ba dấu huyền, ngã, nặng thì phụ âm đầu chỉ viết tr (không viết ch): trà, tràng, trào, trầm, trì, triều, trình, trù, trùng, truyền, trừ (12 chữ); trĩ, trữ (2 chữ), trạch, trại, trạm, trạng, trận, trập, trệ, trị, triện, triệt, triệu, trịnh, trọc, trọng, trợ, trụ, trục, truỵ, truyện, trực, trượng (21 chữ).

– Trong tiếng HV, nếu sau phụ âm đầu là nguyên âm a thì hầu hết viết tr (không viết ch): tra, trà, trá, trác, trách, trạch, trai, trại, trạm, trảm, trang, tràng, tráng, trạng, tranh, trào, trảo (18 chữ).

– Trong tiếng HV, nếu sau phụ âm đầu là nguyên âm o hoặc ơ thì hầu hết viết tr (không viết ch): tróc, trọc, trọng, trở, trợ (5 chữ).

– Trong tiếng HV, nếu sau phụ âm đầu là ư thì phần lớn viết tr: trừ, trữ, trứ, trực, trưng, trừng, trước, trương, trường, trưởng, trướng, trượng, trừu (13 chữ). Viết ch chỉ có: chư, chức, chứng, chương, chưởng, chướng (7 chữ).

Bài tập: Điền từ ngữ có chứa các tiếng sau

trẻ … chẻ…

trê … chê…

tri … chi…

tro … cho …

trợ… chợ…

3- Chính tả phân biệt x / s

Ghi nhớ:

– X xuất hiện trong các tiếng có âm đệm (xuề xoà, xoay xở, xoành xoạch, xuềnh xoàng,…), s chỉ xuất hiện trong một số ít các âm tiết có âm đệm như: soát, soạt, soạn, soạng, suất.

– X và s không cùng xuất hiện trong một từ láy.

-Nói chung, cách phân biệt x/s không có quy luật riêng. Cách sửa chữa lỗi duy nhất là nắm nghĩa của từ, rèn luyện trí nhớ bằng cách đọc nhiều và viết nhiều.

Bài tập: Tìm 5 từ láy có phụ âm đầu s; 5 từ láy có phụ âm đầu x; 5 từ ghép có phụ âm đầu s đi với x.

*Đáp án:

– Sạch sẽ, sụt sịt, sửng sốt, sù sì, sì sụp, sù sụ, so sánh, sinh sôi, sáng sủa, san sát, sặc sỡ,…

– Xót xa, xù xì, xấu xa, xì xào, xao xác, xinh xắn, xao xuyến, xào xạc, xa xôi, xấp xỉ,…

– Xứ sở, sản xuất, xuất sắc, xác suất, xoay sở, xổ số, sâu xa, soi xét,…

4- Chính tả phân biệt gi / r / d:

Ghi nhớ:

– Gi và d không cùng xuất hiện trong một từ láy.

Những từ láy vần, nếu tiếng thứ nhất có phụ âm đầu là l thì tiếng thứ hai có phụ âm đầu là d (lim dim, lò dò, lai dai,líu díu,…)

Từ láy mô phỏng tiếng động đều viết r (róc rách, rì rào, réo rắt,…)

Gi và r không kết hợp với các tiếng có âm đệm. Các tiếng có âm đệm chỉ viết với d (duyệt binh, duy trì, doạ nạt, doanh nghiệp,…)

Tiếng có âm đầu r có thể tạo thành từ láy với tiếng có âm đầu b, c, k (gi và d không có khả năng này) (VD: bứt rứt, cập rập,…)

Trong từ Hán Việt, tiếng có thanh ngã (~), nặng (.) viết d; mang thanh hỏi (?), sắc (/) viết với gi.

Mẹo d / gi / r:

Phụ âm r không bao giờ xuất hiện trong một từ HV.

Các chữ HV mang dấu ngã (~) và dấu nặng (.) đều viết d ( dã man, dạ hội, đồng dạng, diễn viên, hấp dẫn, dĩ nhiên, dũng cảm).

Các chữ HV mang dấu sắc (/) và hỏi (?) đều viết gi (giả định, giải thích, giảng giải, giá cả, giám sát, tam giác, biên giới)

Các chữ HV có phụ âm đầu viết là gi khi đứng sau nó là nguyên âm a, mang dấu huyền () và dấu ngang (Gia đình, giai cấp, giang sơn).

(Ngoại lệ có: ca dao, danh dự).

Chữ HV mang dấu huyền hoặc dấu ngang, âm chính không phải là nguyên âm a (mà là một nguyên âm khác) thì phải viết với d (dân gian, tuổi dần, di truyền, dinh dưỡng, do thám).

5- Quy tắc viết phụ âm đầu “cờ “:

A) Ghi nhớ:

Âm đầu “cờ” được ghi bằng các chữ cái c, k, q.

– Viết q trước các vần có âm đệm ghi bằng chữ cái u.

– Viết k trước các nguyên âm e, ê, i (iê, ia)

– Viết c trước các nguyên âm khác còn lại.

B) Bài tập thực hành: Bài 1: Điền c / k /q: (Đã điền sẵn đáp án vào bài)

kì cọ kiểu cách quanh co kèm cặp

kì quan kẻ cả cập kênh quy cách

kim cương kính cận cảm cúm co kéo

quả quyết cảnh quan

Bài 2: Tìm các từ láy có phụ âm đầu “cờ” ghi bằng các con chữ q/k/c.

*Đáp án:

– quấn quýt, quanh quẩn, quang quác,…

– cằn cỗi, cần cù, cục cằn, cặm cụi,…

– kiêu kì, kênh kiệu, kẽo kẹt,…

Bài 3: Điền c/ k/ q :(Bài đã điền sẵn đáp án)

– cày sâu cuốc bẫm. – cốc mò cò xơi.

– kết tóc xe tơ. – công thành danh toại.

– quýt làm cam chịu. – quen hơi bén tiếng.

– kén cá chọn canh. – kề vai sát cánh.

6- Quy tắc viết phụ âm đầu “gờ”, “ngờ”

A) Ghi nhớ:

– Âm đầu “gờ” được ghi bằng con chữ g, gh.

– Âm đầu “ngờ” được ghi bằng con chữ ng, ngh.

– Viết gh, ngh trước các nguyên âm e, ê, i, iê (ia).

– Viết g, ng trước các nguyên âm khác còn lại.

7- Quy tắc viết nguyên âm i / y

A) Ghi nhớ:

– Nếu đứng một mình thì viết y (y tế, ý nghĩ ).

– Nếu đứng sau âm đệm u thì viết y (suy nghĩ, quy định ).

– Nếu nguyên âm đôi iê đứng đầu tiếng thì viết y (yên ả, yêu thương).

– Nếu là vị trí đầu tiếng (không có âm đệm) thì viết i (im lặng, in ấn ).

– Nếu là vị trí cuối tiếng (trừ uy, ay, ây) thì viết i (chui lủi, hoa nhài).

8- Quy tắc viết hoa:

A) Ghi nhớ:

1. Tên người, tên núi, tên sông, tỉnh, thành phố, quận, huyện, xã, làng,…của Việt Nam được viết hoa chữ cái đầu của mỗi tiếng (VD: Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, Trường Sơn, Cửu Long,…)

– Riêng tên người, địa danh của một số dân tộc ít người nếu được phiên âm từ tiếng dân tộc thì chỉ viết hoa chữ cái đầu ở mỗi bộ phận của tên, giữa các tiếng trong cùng một bộ phận có dấu gạch nối ( VD: Kơ-pa Kơ- lơng, Y-a-li, Đăm -bri, Pắc-pó,…)

2. Tên người, tên địa danh nước ngoài phiên âm trực tiếp ra tiếng Việt thì viết hoa chữ cái đầu ở mỗi bộ phận của tên, giữa các tiếng trong cùng một bộ phận có dấu gạch nối (VD: Lu-i Pa-xtơ, Tô- mát, Ê-đi-xơn, Mê-kông, Von-ga, Ki-ép, Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a,…)

– Riêng tên người, tên địa danh nước ngoài được gọi như kiểu tên người, tên địa danh Việt Nam (do được phiên âm qua âm Hán Việt nên đã được Việt hoá ), thì được viết hoa như tên người, tên địa danh Việt Nam (VD: Lí Bạch, Đỗ Phủ, Trương Mạn Ngọc, Trung Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên,…)

3. Tên các cơ quan, đoàn thể, tổ chức chính trị, xã hội; cụm từ chỉ huân, huy chương, danh hiệu, giải thưởng,…được viết hoa chữ cái đầu ở tiếng đầu các bộ phận nêu nên tính chất “riêng” của tên riêng đó (VD: Đảng Cộng sản Việt Nam, Trường Đại học sư phạm Hà Nội, Huy hiệu Cháu ngoan Bác Hồ,…)

4. Các chữ cái đầu câu, đầu đoạn, đầu bài, đầu các chương mục, đầu dòng thơ đều phải viết hoa.

5. Một số danh từ chung và đại từ xưng hô cũng có thể được viết hoa để tỏ thái độ kính trọng đối với những người và sự việc mà chúng biểu thị (VD: Việt Nam ta gọi tên Người thiết tha)

6. Các sự vật khác (động vật, thực vật, đồ đạc) nếu được đặt tên riêng thì những tên riêng ấy cũng viết hoa theo quy tắc viết hoa tên người (VD: cô Đậu Nành, anh Dưa Hấu, chị Gà Mái Mơ, chú Mướp,…)

9- Quy tắc đánh dấu thanh:

A) Ghi nhớ:

– Dấu thanh thường đặt ở trên hoặc dưới âm chính (VD: loá mắt, khoẻ khoắn,…)

– Ở các nguyên âm có dấu mũ thì các dấu thanh được viết hơi cao lệch về bên phải của dấu mũ (VD: trồng nấm, biển khơi, cố gắng,…)

– Trong tiếng có nguyên âm đôi mà không có âm cuối vần thì dấu thanh được viết ở con chữ thứ nhất của nguyên âm đôi. (VD: cây mía, lựa chọn, múa hát,…)

– Trong tiếng có nguyên âm đôi mà có âm cuối vần thì dấu thanh được viết ở con chữ thứ hai của nguyên âm đôi (VD: ước muốn, chai rượu, sợi miến,…).

Luật chính tả trong Công nghệ giáo dục lớp 1

I. Luật viết hoa:

1. Tiếng đầu câu: Tiếng đầu câu phải viết hoa.

2. Tên riêng : 2.1. Tên riêng Tiếng Việt:

– Viết hoa tất cả các tiếng không có gạch nối. Ví dụ: Vạn Xuân, Việt Nam.

– Một số trường hợp tên riêng địa lí được cấu tạo bởi 1 danh từ chung (sông, núi, hồ,đảo, đèo) kết hợp với một danh từ riêng (thường có một tiếng) có kết cấu chặt chẽ đã thành đơn vị hành chính thì viết hoa tất cả các tiếng. VD: Sông Cầu, Sông Thao, Hồ Gươm, Cửa Lò,…

– Ngoài các trường hợp trên ra thì chỉ viết hoa tiếng là danh từ riêng. VD: sông Hương, núi Ngự, cầu Thê Húc, …

2.2. Tên riêng tiếng nước ngoài:

– Trường hợp các tên riêng nước ngoài phiên âm qua âm Hán Việt thì viết hoa như viết tên riêng Việt Nam. VD: Hàn Quốc, Bồ Đào Nha,…

– Trường hợp các tên riêng nước ngoài không phiên âm qua âm Hán – Việt thì chỉ viết hoa chữ cái đầu và có gạch nối giữa các âm tiết.

VD: Cam-pu-chia, Xinh-ga-po,….

3. Viết hoa để tỏ sự tôn trọng : Ví dụ: Bà Trưng, Bà Triệu…

II. Luật ghi tiếng nước ngoài:

Các trường hợp không phiên âm qua âm Hán – Việt thì nghe thế nào viết thế ấy (như Tiếng Việt). Giữa các tiếng (trong một từ) phải có gạch nối.

Ví dụ: Pa-nô, pi-a-nô.

III. Luật ghi dấu thanh:

–Viết dấu thanh ở âm chính của vần. Ví dụ: bà, bá, loá, quỳnh, bào, mùi…

– Ở tiếng có nguyên âm đôi mà không có âm cuối thì dấu thanh được viết ở vị trí con chữ thứ nhất của nguyên âm đôi.

Ví dụ: mía, múa…

-Ở tiếng có nguyên âm đôi mà có âm cuối thì dấu thanh được viết ở vị trí con chữ thứ hai của nguyên âm đôi.

Ví dụ: miến, buồn… IV. Luật ghi một số âm đầu: 1. Luật e, ê, i:

– Âm /c/ (cờ) trước e, ê, i phải viết bằng chữ k (gọi là ca)

– Âm /g/ (gờ) trước e, ê, i phải viết bằng chữ gh (gọi là gờ kép)

– Âm /ng/ (ngờ) trước e, ê, i phải viết bằng chữ ngh (gọi là ngờ kép)

2. Luật ghi âm /c/ (cờ) trước âm đệm.

Âm /c/ (cờ) đứng trước âm đệm phải viết bằng chữ q (cu) và âm đệm viết bằng chữ u. VD: qua, quyên,….

3. Luật ghi chữ “gì”

Ở đây có hai chữ i đi liền nhau. Khi viết phải bỏ một chữ i (ở chữ gi), thành gì.

V. Luật ghi một số âm chính: 1. Quy tắc chính tả khi viết âm i:

– Tiếng chỉ có một âm i thì có tiếng viết bằng i (i ngắn) có tiếng viết bằng y (y dài):

+ Viết i nếu đó là từ Thuần Việt (ì ầm)

+ Viết y nếu đó là từ Hán Việt (y tá)

– Tiếng có âm đầu (và âm /i/) thì một số tiếng có thể viết y, hoặc viết i đều được. Nhưng hiện nay quy định chung viết là i : thi sĩ

– Khi có âm đệm đứng trước, âm i phải viết là y (y dài): huy, quy (không được viết là qui)

2. Cách ghi nguyên âm đôi:

+ Không có âm cuối: viết là ia. Ví dụ: mía.

+ Có âm cuối: viết là iê. Ví dụ: biển.

+ Có âm đệm, không có âm cuối thì viết là: ya. Ví dụ: khuya.

+ Có âm đệm, có âm cuối, hoặc không có âm đầu thì viết là: yê. Ví dụ: chuyên, tuyết… yên, yểng…

+ Không có âm cuối: viết là ua. Ví dụ: cua.

+ Có âm cuối: viết là uô. Ví dụ: suối.

+ Không có âm cuối: viết là ưa. Ví dụ: cưa.

+ Có âm cuối: viết là ươ. Ví dụ: lươn.

Vitamin D Khác Gì So Với Vitamin D3

Phân biệt Vitamin D và Vitamin D3

Thứ nhất Vitamin D tồn tại dưới 2 hình thức đó là Vitamin D2 được tìm thấy trong nấm hoặc được sản xuất từ các nhà máy, có thể bổ sung bằng cách uống các loại nước trái cây, sữa, ngũ cốc. Còn Vitamin D3 tồn tại dưới dạng ánh sáng mặt trời chiếu qua bề mặt da chúng ta và tổng hợp nên Vitamin D3. Viatmin D thực sự được xem như là một loại Hóc môn hơn là một vitamin. Chúng rất quan trọng đối với cơ thể vì chúng điều chỉnh việc sản xuất photpho và canxi cho cơ thể.

– Các Vitamin D mà chúng ta mua sẵn dưới dạng thuốc thực sự có thể rất có hại cho cơ thể do không được kiểm soát. Một trong các hình thức của vitamin D, tức là vitamin D2 bị phá vỡ bởi cơ thể thành chất khác nhau. Một số các chất này có thể rất có hại cho cơ thể. Vitamin D3 được chia cơ thể thành một chất gọi là calcitrol, mà thực sự có tính chất chống ung thư rất quan trọng.

Bổ sung vitamin D có thể được thực hiện từ một trong hai loài thực vật hoặc động vật. Tuy nhiên, nếu bạn đang tìm kiếm một bổ sung vitamin D3, bổ sung từ thực phẩm động vật hoặc từ ánh nắng mặt trời.

Bổ sung vitamin D như thế nào hợp lý?

Chắc chắn bạn sẽ chẳng bao giờ muốn mình mắc phải những căn bệnh trên, đó là lý do cần bổ sung vitamin Dvào cơ thể. Bạn sẽ dễ dàng tìm thấy dưỡng chất này trong:

– Thực phẩm: trứng gà, cá hồi, tôm, gan bò, phô mai, các sản phẩm từ sữa, ngũ cốc hoặc các loại hạt như hạnh nhân, đậu nành.

– Ánh nắng mặt trời: Ánh nắng buổi sáng sớm chính là nguồn cung cấp vitamin D lớn nhất đối với cơ thể. Chỉ cần tiếp xúc với ánh nắng từ 15 tới 30 phút mỗi ngày, bạn cũng đã có được lượng vitamin D thoả mãn nhu cầu cơ thể.

– Viên uống bổ sung vitamin D: Đối với trẻ nhỏ cần ít nhất 400 IU mỗi ngày, người trưởng thành cần ít nhất 600 IU trong khi những người thuộc độ tuổi trên 70 cần 800 IU vitamin D. Bạn cần hỏi ý kiến bác sĩ trước khi dùng thuốc vì sự thiếu hay thừa vitamin D cũng sẽ gây những hậu quả không tốt đối với sức khỏe.

Tác hại khi thếu Vitamin D

Nguy cơ tử vong tăng 26% với người có nồng độ vitamin D thấp so với những người có nồng độ vitamin D bình thường.

– Những người có nồng độ vitamin D thấp thì nguy cơ mắc bệnh ung thư tăng cao và ngược lại nồng độ vitamin D trong máu càng cao, nguy cơ mắc bệnh ung thư càng thấp. nguy cơ mắc bệnh ung thư giảm gần 80% ở phụ nữ được bổ sung vitamin D

– Người lớn sẽ bị loãng xương, xương dễ gãy… Phụ nữ mang thai nếu thiếu Vitamin D có thể sinh ra trẻ bị khuyết tật ở xương.

– Đối với trẻ em sẽ gây hậu quả chậm lớn, còi xương, chân vòng kiềng, chậm biết đi,…