Top 3 # Phân Biệt Kế Toán Tài Chính Và Kế Toán Quản Trị Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Sansangdethanhcong.com

Phân Biệt Kế Toán Quản Trị Và Kế Toán Tài Chính

Trong khối ngành Kế toán, thuật ngữ “Kế toán quản trị – Kế toán tài chính” thường được sử dụng nhiều . Tuy nhiên, nếu bạn không phải là nhân sự trong ngành Kế toán, để hiểu rõ và phân biệt hai thuật ngữ trên là cực kỳ khó. Bài viết sau đây giúp bạn có được khái niệm tổng quát và so sánh giữa hai thuật ngữ ” Kế toán quản trị – Kế toán tài chính”.

Mục tiêu là điểm khác nhau căn bản của kế toán tài chính và kế toán quản trị. Nếu như mục tiêu của kế toán tài chính là cung cấp thông tin cho đối tượng bên ngoài tổ chức bao gồm cổ đông, nhà đầu tư hiện tại và tiềm năng, chủ nợ, các cơ quan nhà nước, các nhà phân tích đầu tư chứng khoán, khách hàng thì kế toán quản trị cung cấp thông tin phục vụ cho nhà quản lý của chính tổ chức đó. Họ có thể là các giám đốc điều hành, giám đốc marketing, giám đốc tài chính, …

Kế toán quản trị tạo ra các sản phẩm là báo cáo quản trị, các kế hoạch, chiến lược tài chính quản trị giúp nhà quản lý doanh nghiệp đưa ra các quyết định cho doanh nghiệp. Còn kế toán tài chính là kế toán phản ánh hiện trạng và sự biến động về vốn, tài sản của doanh nghiệp dưới dạng tổng quát hay nói cách khác là phản ánh các dòng vật chất và dòng tiền tệ trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp với môi trường kinh tế bên ngoài. Sản phẩm của kế toán tài chính là các báo cáo tài chính. Thông tin của kế toán tài chính ngoài việc được sử dụng cho ban lãnh đạo doanh nghiệp còn được sử dụng để cung cấp cho các đối tượng bên ngoài như: Các nhà đầu tư, ngân hàng, cơ quan thuế, cơ quan tài chính, cơ quan thống kê.

SỰ KHÁC NHAU

1) Mục đích:

– Kế toán quản trị có mục đích: Cung cấp thông tin phục vụ điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh.

– Kế toán tài chính: Cung cấp thông tin phục vụ cho việc lập các báo cáo tài chính.

2) Đối tượng phục vụ:

– Đối tượng sử dụng thông tin về kế toán quản trị là: Các nhà quản lý doanh nghiệp (Hội đồng quản trị, ban giám đốc)

– Đối tượng sử dụng thông tin về kế toán tài chính là: Các nhà quản lý doanh nghiệp và các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp (Nhà -đầu tư, ngân hàng, cơ quan thuế, cơ quan tài chính, cơ quan thống kê)

3) Đặc điểm thông tin:

– Kế toán quản trị nhấn mạnh đến sự thích hợp và tính linh hoạt của số liệu, thông tin được tổng hợp phân tích theo nhiều góc độ khác nhau. Thông tin ít chú trọng đến sự chính xác mà mang tính chất phản ánh xu hướng biến động, có tính dự báo vì vậy thông tin kế toán quản trị phục vụ cho việc đánh giá và xây dựng các kế hoạch kinh doanh, thông tin được theo dõi dưới hình thái giá trị và hình thái hiện vật. Ví dụ: Kế toán vật tư ngoài việc theo dõi giá trị của vật tư còn phải theo dõi số lượng vật tư.

– Kế toán tài chính phản ánh thông tin xảy ra trong quá khứ đòi hỏi có tính khách quan và có thể kiểm tra được. Thông tin chỉ được theo dõi dưới hình thái giá trị.

4) Nguyên tắc cung cấp thông tin:

– Kế toán quản trị không có tính bắt buộc, các nhà quản lý được toàn quyền quyết định và điều chỉnh phù hợp với nhu cầu và khả năng quản lý của doanh nghiệp.

– Kế toán tài chính phải tôn trọng các nguyên tắc kế toán được thừa nhận và được sử dụng phổ biến, nói cách khác kế toán tài chính phải đảm bảo tính thống nhất theo các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán nhất định để mọi người có cách hiểu giống nhau về thông tin kế toán đặc biệt là báo cáo tài chính và kế toán tài chính phải tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành, đặc biệt là những yêu cầu quản lý tài chính và các yêu cầu của xã hội thông qua việc công bố những số liệu mang tính bắt buộc.

6) Kỳ báo cáo:

– Kế toán quản trị có kỳ lập báo cáo nhiều hơn: Quý, năm, tháng, tuần, ngày.

– Kế toán tài chính có kỳ lập báo cáo là: Quý, năm

7) Quan hệ với các môn khoa học khác:

– Do thông tin kế toán quản trị được cung cấp để phục vụ cho chức năng quản lý, nên ngoài việc dựa vào hệ thống ghi chép ban đầu của kế toán tài chính thì kế toán quản trị còn phải kết hợp và sử dụng nội dung của nhiều môn khoa học khác như: Kinh tế học, thống kê kinh tế, tổ chức quản lý doanh nghiệp, quản trị đầu tư để tổng hợp phân tích và xử lý thông tin.

– Kế toán tài chính ít có mối quan hệ với các môn khoa học khác.

8) Tính bắt buộc theo luật định:

– Kế toán quản trị không có tính bắt buộc.

ĐIỂM GIỐNG NHAU

Tuy vậy, hệ thống kế toán quản trị và kế toán tài chính cũng có nhiều điểm giống nhau bởi vì cả hai hệ thống này đều dựa vào dữ liệu thu thập được từ hệ thống kế toán cơ bản của tổ chức. Hệ thống này bao gồm thủ tục, nhân sự, và hệ thông máy tính để thu thập và lưu trữ các dự liệu tài chính của tổ chức. Một phần của hệ thống kế toán chung này là hệ thống kế toán chi phí (cost accounting), có nhiệm vụ thu thập thông tin chi phí được sử dụng trong cả hệ thống kế toán quản trị và kế toán tài chính. Ví dụ, số liệu về giá thành sản phẩm được nhà quản lý sử dụng để định giá bán sản phẩm, đó là một mục đích sử dụng thông tin của kế toán quản trị. Tuy vậy, số liệu giá thành cũng được sử dụng để xác định giá trị hàng tồn kho trên bảng cân đối kế toán, đó lại là một mục đích sử dụng thông tin của kế toán tài chính.

Cũng như theo xu thế tiến hoá chung, kế toán quản trị vào Việt Nam ban đầu với hình thái hệ thống lập kế hoạch (dự toán ngân sách) và quản trị chi phí. Phương pháp lập kế hoạch đã bắt đầu sơ khai từ sau những năm 1985, tuy nhiên bước đầu còn đơn giản và thiếu chính xác. Sau khi kinh tế tư nhân phát triển thì việc lập kế hoạch phục vụ cho nhu cầu hoạch định của doanh nghiệp mới được phát triển rầm rộ.

Phương pháp lập kế hoạch ở nhiều doanh nghiệp cũng khác nhau. Về cơ bản, phương pháp lập kế hoạch được phân làm 2 cách:

– Thứ nhất: lập kế hoạch dự trên sự tăng trưởng. Các doanh nghiệp thường dựa trên sự phát triển của công ty và các số liệu quá khứ (tốc độ tăng trưởng của doanh thu, mức độ gia tăng chi phí) và ước lượng kế hoạch thực hiện cho tương lai. Phương pháp này thường được vận dụng khá phổ biến hiện nay do dể thực hiện và ước lượng tương đối chính xác. Các doanh nghiệp hoạt động trong khối sản xuất thường vận dụng theo phương pháp này

– Thứ hai: dựa vào mục tiêu của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thường dựa vào mục tiêu tăng trưởng của mình trong thời gian tới và đề ra kế hoạch hành động sao cho thực hiện được mục tiêu đó. Phương pháp lập kế hoạch này thường được vận dụng đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ.

Ngoài ra, rất ít doanh nghiệp chú trong đến việc lập kế hoạch kết hợp giữa hai phương pháp trên do sự phức tạp trong khâu lượng hoá số liệu kế hoạch và hạ tầng thông tin chưa đáp ứng được.

Hệ thống quản trị và kiểm soát chi phí cũng được hình thành theo nhu cầu quản trị của doanh nghiệp, theo cùng với hệ thống lập kế hoạch (dự toán). Tuy nhiên, việc kiểm soát chi phí chỉ dừng lại ở một vài khoản mục chi phí phát sinh tương đối lớn và chiếm tỉ trọng cao như: chi phí quảng cáo tiếp thị, chi phí vận chuyển, lương… (trong chi phí bán hàng) ; chi phí tiếp khách, đào tạo,…(trong chi phí quản lý doanh nghiệp). Bên cạnh đó, việc quản lý chi phí ở khâu sản xuất (đối với doanh nghiệp có hoạt động sản xuất) cũng được tổ chức chặt chẽ nhằm giảm giá thành sản phẩm.

– Tìm hiểu nghề Kế toán quản trị

– Khóa học Kế toán quản trị ACCA F2

– Khóa học Ứng dụng Dashboard reporting trong Excel

Phân Biệt Kế Toán Tài Chính Và Kế Toán Quản Trị

ĐỊNH NGHĨA KẾ TOÁN QUẢN TRỊ VÀ KẾ TOÁN TÀI CHÍNH

Kế toán được định nghĩa là một hệ thống thông tin đo lường, xử lý và cung cấp thông tin hữu ích cho việc ra các quyết định điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong đó kế toán quản trị đưa ra tất cả các thông tin kinh tế đã được đo lường xử lý và cung cấp cho ban lãnh đạo doanh nghiệp để điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, hay nói cách khác kế toán quản trị giúp ban lãnh đạo doanh nghiệp cân nhắc và quyết định lựa chọn một trong những phương án có hiệu quả kinh tế cao nhất: phải sản xuất những sản phẩm nào, sản xuất bằng cách nào, bán các sản phẩm đó bằng cách nào, theo giá nào, làm thế nào để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và phát triển khả năng sản xuất. Các quyết định này gồm hai loại: Quyết định mang tính chất ngắn hạn: Các quyết định này giúp doanh nghiệp giải quyết các bài toán kinh tế trong thời kỳ ngắn hạn.

– Trong trường hợp nào doanh nghiệp có thể bán sản phẩm với giá thấp hơn giá ở điểm hoà vốn? – Trong trường hợp nào doanh nghiệp nên tự chế hay đi mua một vài bộ phận của sản phẩm? – Trong trường hợp nào doanh nghiệp nên bán ra bán thành phẩm thay vì tiếp tục hoàn thiện thành sản phẩm cuối cùng? Quyết định mang tính dài hạn: Các quyết định này giúp doanh nghiệp giải quyết các bài toán kinh tế hoạch định chiến lược đầu tư dài hạn như: Trong trường hợp nào doanh nghiệp quyết định thay thế mua sắm thêm các máy móc thiết bị hay thực hiện phát triển thêm lĩnh vực kinh doanh. Còn kế toán tài chính là kế toán phản ánh hiện trạng và sự biến động về vốn, tài sản của doanh nghiệp dưới dạng tổng quát hay nói cách khác là phản ánh các dòng vật chất và dòng tiền tệ trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp với môi trường kinh tế bên ngoài. Sản phẩm của kế toán tài chính là các báo cáo tài chính. Thông tin của kế toán tài chính ngoài việc được sử dụng cho ban lãnh đạo doanh nghiệp còn được sử dụng để cung cấp cho các đối tượng bên ngoài như: Các nhà đầu tư, ngân hàng, cơ quan thuế, cơ quan tài chính, cơ quan thống kê. Để hiểu rõ mối quan hệ giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính ta cần phân tích sự giống nhau và khác nhau giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị“Tóm lấy” những thông tin cập nhật ưu đãi mới nhất về: Khóa học kế toán thuế và Dịch vụ kế toán thuếSỰ GIỐNG NHAU

Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ chặt chẽ với thông tin kế toán, đều nhằm vào việc phản ánh kết quả hoạt động của doanh nghiệp, đều quan tâm đến doanh thu, chi phí và sự vận động của tài sản, tiền vốn. Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ chặt chẽ về số liệu thông tin. Các số liệu của kế toán tài chính và kế toán quản trị đều được xuất phát từ chứng từ gốc. Một bên phản ánh thông tin tổng quát, một bên phản ánh thông tin chi tiết. Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ trách nhiệm của Nhà quản lý.

SỰ KHÁC NHAU

Kế toán quản trị có mục đích: Cung cấp thông tin phục vụ điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Kế toán tài chính: Cung cấp thông tin phục vụ cho việc lập các báo cáo tài chính.

Đối tượng sử dụng thông tin về kế toán quản trị là: Các nhà quản lý doanh nghiệp (Hội đồng quản trị, ban giám đốc) Đối tượng sử dụng thông tin về kế toán tài chính là: Các nhà quản lý doanh nghiệp và các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp (Nhà đầu tư, ngân hàng, cơ quan thuế, cơ quan tài chính, cơ quan thống kê)

Kế toán quản trị nhấn mạnh đến sự thích hợp và tính linh hoạt của số liệu, thông tin được tổng hợp phân tích theo nhiều góc độ khác nhau. Thông tin ít chú trọng đến sự chính xác mà mang tính chất phản ánh xu hướng biến động, có tính dự báo vì vậy thông tin kế toán quản trị phục vụ cho việc đánh giá và xây dựng các kế hoạch kinh doanh, thông tin được theo dõi dưới hình thái giá trị và hình thái hiện vật.

Ví dụ: Kế toán vật tư ngoài việc theo dõi giá trị của vật tư còn phải theo dõi số lượng vật tư. Kế toán tài chính phản ánh thông tin xảy ra trong quá khứ đòi hỏi có tính khách quan và có thể kiểm tra được. Thông tin chỉ được theo dõi dưới hình thái giá trị.

Kế toán quản trị không có tính bắt buộc, các nhà quản lý được toàn quyền quyết định và điều chỉnh phù hợp với nhu cầu và khả năng quản lý của doanh nghiệp. Kế toán tài chính phải tôn trọng các nguyên tắc kế toán được thừa nhận và được sử dụng phổ biến, nói cách khác kế toán tài chính phải đảm bảo tính thống nhất theo các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán nhất định để mọi người có cách hiểu giống nhau về thông tin kế toán đặc biệt là báo cáo tài chính và kế toán tài chính phải tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành, đặc biệt là những yêu cầu quản lý tài chính và các yêu cầu của xã hội thông qua việc công bố những số liệu mang tính bắt buộc.

Kế toán quản trị có kỳ lập báo cáo nhiều hơn: Quý, năm, tháng, tuần, ngày. Kế toán tài chính có kỳ lập báo cáo là: Quý, năm

Do thông tin kế toán quản trị được cung cấp để phục vụ cho chức năng quản lý, nên ngoài việc dựa vào hệ thống ghi chép ban đầu của kế toán tài chính thì kế toán quản trị còn phải kết hợp và sử dụng nội dung của nhiều môn khoa học khác như: Kinh tế học, thống kê kinh tế, tổ chức quản lý doanh nghiệp, quản trị đầu tư để tổng hợp phân tích và xử lý thông tin. Kế toán tài chính ít có mối quan hệ với các môn khoa học khác.

Phân Biệt Giữa Kế Toán Quản Trị &Amp; Kế Toán Tài Chính

1. Kế toán quản trị là gì?

Kế toán quản trị có vai trò đo lường, xử lý và cung cấp thông tin kinh tế cho ban lãnh đạo, người điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hay nói cách khác, kế toán quản trị giúp cho ban lãnh đạo công ty cân nhắc và đưa ra quyết định có hiệu quả cao nhất, ví dụ như: sản xuất những sản phẩm nào? sản xuất như thế nào? bán với giá như thế nào?… Nhìn chung, các quyết định này lại được phân chia làm 2 loại:

Quyết định ngắn hạn: giúp doanh nghiệp giải quyết các bài toán kinh tế trong thời kỳ ngắn hạn. Một số ví dụ về quyết định ngắn hạn bao gồm:

Định giá sản phẩm: khi nào doanh nghiệp bán sản phẩm với giá thấp hơn giá hòa vốn?

Thời điểm bán hàng: tiến hành bán sản phẩm khi còn trong quá trình sản xuất hay hoàn thành đến sản phẩm cuối cùng?

Quyết định dài hạn: giúp doanh nghiệp giải các bài toán mang tính chiến lược đầu tư dài hạn. 1 số ví dụ về quyết định dài hạn bao gồm:

Mở rộng thị trường mới: khi nào doanh nghiệp nên mở rộng các sản phẩm của mình ra thị trường?

Nâng cấp quá trình sản xuất: khi nào doanh nghiệp cần thay đổi dây chuyền sản xuất?

2. Kế toán tài chính là gì?

Kế toán tài chính phản ánh hiện trạng và sự biến động không ngừng về tài sản, nguồn vốn của doanh nghiệp. Hay nói cách khác, nó phản ánh dòng vật chất và dòng tiền tệ trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp và các yếu tố bên ngoài. Sản phẩm của kế toán tài chính sau cùng đó chính là báo cáo tài chính. Thông tin của kế toán tài chính ngoài được cung cấp cho ban lãnh đạo công ty còn được sử dụng bởi các cá nhân, tổ chức bên ngoài công ty: ngân hàng, nhà đầu tư, nhà cung ứng, người cho vay, cơ quan nhà nước… (Stakeholders)

3. Điểm tương đồng giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính

Có mỗi liên hệ chặt chẽ với thông tin kế toán, phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: doanh thu, chi phí, tài sải, nguồn vốn;

Đều dựa trên những ghi chép ban đầu của kế toán;

Đều biểu hiện trách nhiệm của nhà quản lý và là công cụ quản lý doanh nghiệp.

4. Phân biệt giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính

Mục đích

Cung cấp thông tin phục vụ cho việc lập báo cáo tài chính.

Cung cấp thông tin cho việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh.

Đối tượng phục vụ

Các nhà quản lý doanh nghiệp và các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp: ngân hàng, nhà đầu tư, nhà cung ứng, cơ quan nhà nước, tổ chức tín dụng…

Các nhà quản lý doanh nghiệp.

Đặc điểm thông tin

Phản ánh thông tin xảy ra trong quá khứ, đòi hỏi có tính khách quan và có thể kiểm tra được. Thông tin chỉ được theo dõi dưới hình thái giá trị.

Thông tin được tổng hợp và phân tích theo nhiều góc độ khác nhau. Thông tin ít chú trọng đến sự chính xác mà mang tính chất phản ánh xu hướng biến động, có tính dự báo vì vậy thông tin kế toán quản trị phục vụ cho việc đánh giá và xây dựng các kế hoạch kinh doanh, thông tin được theo dõi dưới hình thái giá trị và hình thái hiện vật.

Nguyên tắc cung cấp thông tin

Phải tôn trọng các nguyên tắc kế toán được thừa nhận và được sử dụng phổ biến. Nói cách khác kế toán tài chính phải đảm bảo tính thống nhất theo các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán nhất định để mọi người có cách hiểu giống nhau về thông tin kế toán đặc biệt là báo cáo tài chính. Kế toán tài chính phải tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành, đặc biệt là những yêu cầu quản lý tài chính và các yêu cầu của xã hội thông qua việc công bố những số liệu mang tính bắt buộc.

Không có tính bắt buộc, các nhà quản lý được toàn quyền quyết định và điều chỉnh phù hợp với nhu cầu và khả năng quản lý của doanh nghiệp.

Phạm vi thông tin

Kỳ báo cáo

Năm, quý

Năm, quý, tháng, tuần, ngày

Tính bắt buộc

Bắt buộc theo luật định

Không bắt buộc theo luật định

Hình 1: Tóm tắt điểm khác biệt giữa Kế toán tài chính & Kế toán quản trị

Kế toán tài chính và Kế toán quản trị có ý nghĩa rất lớn trong việc điều hành doanh nghiệp. Thực tế, chúng giúp tổ chức và sử dụng theo nhiều cách khác nhau. Kế toán tài chính mang lại giá trị trong việc lưu trữ hồ sơ hợp pháp các giao dịch vô số và so sánh hiệu suất của hai giai đoạn của một thực thể hoặc giữa hai thực thể. Trong khi đó, kế toán quản lý hữu ích trong việc phân tích hiệu suất, lập chiến lược, đánh giá hiệu quả và chuẩn bị các chính sách cho tương lai cho công ty.

6 Điểm Khác Biệt Của Kế Toán Quản Trị Và Kế Toán Tài Chính

Do khác nhau nhiều điểm về đối tượng và mục đích sử dụng thông tin, nên kế toán quản trị và kế toán tài chính về cơ bản cũng có những điểm khác biệt.

Tìm hiểu về khái niệm

Kế toán quản trị là một hệ thống thực hiện việc thu thập, xử lý và truyền đạt thông tin đến các nhà quản trị nội bộ doanh nghiệp. Từ đó, giúp nhà quản trị đưa ra những quyết định kinh doanh đúng đắn trong tương lai, đồng thời làm nền tảng cho việc quản trị doanh nghiệp theo hệ thống, hướng đến phát triển doanh nghiệp bền vững.

Kế toán tài chính là việc ghi chép, phản ánh, tổng hợp số liệu, lập BCTC phục vụ nhu cầu cung cấp thông tin đến các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp, tổ chức như: các cổ đông, cơ quan chức năng (thuế, thanh tra…), các chủ nợ, ngân hàng… Mục đích phục vụ cho các nhu cầu quản lý vĩ mô.

Từ những điểm khác biệt cơ bản về đối tượng và mục đích sử dụng thông tin, nên kế toán quản trị và kế toán tài chính có một số điểm khác biệt cơ bản sau:

1. Đối tượng sử dụng thông tin

Đối tượng sử dụng thông tin của kế toán quản trị là các thành viên bên trong doanh nghiệp: Ban giám đốc, chủ sở hữu, những nhà quản lý, giám sát viên,… còn của kế toán tài chính lại chủ yếu ở bên ngoài doanh nghiệp như: các cổ đông, khách hàng, người cho vay, nhà cung cấp và chính phủ (cơ quan thuế, cơ quan quản lý tài chính…).

2. Đặc điểm thông tin

Kế toán tài chính phải tuân thủ các nguyên tắc về thông tin theo chuẩn mực và chế độ hiện hành của kế toán tại từng quốc gia, cũng như với cả nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế về kế toán được các quốc gia công nhận.

Ngược lại, do yêu cầu phải nhạy bén và nắm bắt nhanh các cơ hội kinh doanh đa dạng nên thông tin kế toán quản trị cần linh hoạt, nhanh chóng và tùy theo vào từng quyết định cụ thể của người quản lý. Thông tin của kế toán quản trị không buộc phải tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán chung; các quy định của Nhà nước về kế toán quản trị (nếu có) cũng chỉ mang tính chất hướng dẫn. 

3. Tính pháp lý của kế toán

Kế toán tài chính có tính pháp lệnh, hiểu đơn giản là hệ thống sổ, ghi chép, trình bày và cung cấp thông tin đều phải tuân theo các quy định thống nhất nếu muốn được thừa nhận.

Ngược lại, tổ chức công tác kế toán quản trị lại mang tính nội bộ, thuộc thẩm quyền của từng doanh nghiệp, sao cho phù hợp với đặc thù quản lý, yêu cầu quản lý, điều kiện và khả năng quản lý cụ thể của từng đơn vị.

4. Hình thức của thông tin

Thông tin của kế toán tài chính chủ yếu được thể hiện ở hình thức giá trị. Còn của kế toán quản trị, lại được biểu hiện ở cả hai hình thái là: hiện vật và giá trị.

Thông tin của kế toán tài chính là thông tin phản ánh về những nghiệp vụ kinh tế đã phát sinh, đã xảy ra. Trong khi đó, vì phần lớn nhiệm vụ của nhà quản trị là lựa chọn phương án, đề án cho một sự kiện hoặc một quá trình chưa xảy ra, nên thông tin của kế toán quản trị chủ yếu đặt trọng tâm cho tương lai.

Thông tin kế toán tài chính chủ yếu là các thông tin kế toán thuần tuý, được thu thập từ các chứng từ kế toán. Còn thông tin trong kế toán quản trị lại được thu thập nhằm phục vụ cho chức năng ra quyết định của nhà quản lý và thường không có sẵn. Vì vậy, ngoài việc dựa vào hệ thống ghi chép ban đầu của kế toán, kế toán quản trị còn phải vận dụng nhiều phương pháp khác nhau như: thống kê, kinh tế học, hạch toán nghiệp vụ, quản lý để tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin thành dạng có thể sử dụng được phù hợp với mục đích ban đầu.

5. Cách thức báo cáo sử dụng

Báo cáo được sử dụng trong kế toán tài chính là các báo cáo kế toán tổng hợp toàn doanh nghiệp (gọi là các Báo cáo tài chính). Tại đó, phản ánh tổng quát về nguồn vốn, tài sản, kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong một thời kỳ (gồm Bảng cân đối kế toán; Báo cáo lưu chuyển tiền tệ; Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh; Thuyết minh báo cáo tài chính).

Báo cáo của kế toán quản trị lại đi sâu vào từng bộ phận, từng khâu công việc của doanh nghiệp (như báo cáo chi phí sản xuất và giá thành, báo cáo nợ phải trả, báo cáo nhập xuất và tồn kho của hàng tồn kho…).

6. Kỳ báo cáo

Kế toán quản trị thực hiện kỳ báo cáo thường xuyên và ngắn hơn kỳ báo cáo của kế toán tài chính, tùy theo yêu cầu quản trị doanh nghiệp. Báo cáo của kế toán tài chính được lập định kỳ, thường là hàng năm. 

Theo Tạp chí tài chính