--- Bài mới hơn ---
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Vài Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 8 Học Tốt Kiểu Văn Bản Thuyết Minh Soạn Bài Lập Dàn Ý Bài Văn Thuyết Minh (Chi Tiết) 5 Bài Văn Mẫu Thuyết Minh Một Danh Lam Thắng Cảnh, Bài Văn Mẫu Hay Nhấ Soạn Bài Phương Pháp Thuyết Minh Sbt Ngữ Văn 10 Tập 2 Giáo Án Ngữ Văn Lớp 10
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KHÁNH SƠN
TRƯỜNG THCS BA CỤM BẮC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG VIẾT VĂN THUYẾT MINH
CHO HỌC SINH LỚP 8
Giáo viên: Nguyễn Thị Mai Hoa
NĂM HỌC: 2013 – 2014
1
MỤC LỤC
1. Đặt vấn đề …………………………………………………………….. Trang 3
2. Giải quyết vấn đề …………………………………………………….. Trang 5
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề …………………………………………… Trang 5
2.2. Thực trạng của vấn đề……………………………………………… Trang 6
2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề ………………….. Trang 9
2.3.1. Phương pháp thuyết trình kết hợp giảng giải, minh họa bằng mẫu
vật thật hoặc hình ảnh ………………………………………………………….. Trang 10
2.3.2. Phương pháp phân tích ……………………………………………… Trang 12
2.3.3. Phương pháp quan sát và rèn luyện theo mẫu …………………… Trang 14
2.3.4. Phương pháp giao tiếp ……………………………………………. Trang 15
2.3.5. Phương pháp thảo luận nhóm và viết đoạn văn ngắn ……………. Trang 17
2.4. Hiệu quả của SKKN ……………………………………………….. Trang 20
3. Kết luận ………………………………………………………………. Trang 22
4. Kiến nghị, đề xuất …………………………………………………….. Trang 24
2
thức trình bày là sự thể hiện hình thức bố cục của bài văn trên trang giấy. Bên
cạnh hình thức rõ ràng thì việc viết đúng kiến thức cơ bản cũng vô cùng quan
trọng bởi kiến thức cơ bản là “bột” và “có bột mới gột nên hồ”.
Môn Ngữ văn trong nhà trường bậc THCS chia làm ba phân môn: Văn
học, Tiếng việt, Tập làm văn. Trong thực tế dạy và học, phân môn Tập làm văn
là phân môn giáo viên phải đầu tư công sức nhiều nhất. Cố thủ tướng Phạm Văn
Đồng đã từng nói: “Dạy làm văn chủ yếu là dạy cho học sinh diễn tả cái gì mình
suy nghĩ, mình cần bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ chính xác, làm nổi bật
điều mình muốn nói”… (Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện).
Văn bản thuyết minh là kiểu văn bản lần đầu tiên được đưa vào chương
trình Tập Làm Văn mới. Đây là loại văn bản thông dụng, có phạm vi sử dụng rất
phổ biến trong đời sống. Chính vì vậy, có thể nói đây là kiểu văn bản hoàn toàn
mới, chưa có trong chương trình và sách giáo khoa Tập làm văn trước đây đối
với giáo viên. MỚI là so với chương trình và sách giáo khoa chứ không MỚI so
với yêu cầu thực tế của đời sống. Vậy nên để giúp học sinh viết tốt một bài văn
thuyết minh là hết sức cần thiết.
4
2. Giải quyết vấn đề
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề
Môn Ngữ văn 8 trong chương trình THCS nói riêng và trong nhà trường
nói chung có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh 4 kĩ năng đó là: “nghe – nói – đọc viết”. Trong đó, phân môn Tập làm văn là phân môn có tính chất tích hợp các
phân môn khác. Qua tiết Tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn
bản, đó là bài nói, bài viết. Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan
trọng, thông qua đó con người thực hiện quá trình tư duy – chiếm lĩnh tri thức,
trao đổi tư tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng hợp tác
trong cuộc sống lao động. Ngôn ngữ (dưới dạng nói – ngôn bản, và dưới dạng
viết – văn bản) giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển xã hội. Chính
vì vậy, hướng dẫn cho học sinh nói đúng đặc biệt viết đúng kiểu bài, dạng đề bài
yêu cầu là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc phần lớn vào việc
giảng dạy môn Ngữ văn nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng. Tuy chỉ
là một phân môn trong môn học Ngữ văn, xong Tập làm văn vẫn được coi là căn
cứ quan trọng, nếu không nói là chủ yếu để đánh giá kết quả của cả môn học.
Với mỗi học sinh trung học, nói “giỏi văn” hay “kém văn” hầu như cũng đồng
nghĩa là giỏi hay kém về Tập làm văn.
Thực tế việc giảng dạy trong nhà trường đặc biệt môn Ngữ Văn thường
giúp học sinh giỏi về lý thuyết (có kiến thức) nhưng lại yếu về thực hành (chưa
biết cách viết tốt một bài văn). Không chỉ thế, có trường hợp học sinh chưa có
khả năng viết đúng kiểu bài, hoặc khi viết trình bày chưa rõ ràng, mạch lạc…
Theo tinh thần hiện đại hóa nội dung chương trình, hướng tới thực tiễn đời sống,
giảm bớt hàn lâm, tăng cường thực hành nói và viết cho học sinh, SGK Ngữ Văn
8 đã đưa vào giảng dạy ở phần Tập làm văn thể loại “Văn thuyết minh” với
mong muốn bước đầu các em có năng lực giới thiệu khách quan, mạch lạc về đối
tượng nào đó.
5
hứng dẫn đến chất lượng bài văn kém và kéo theo các dạng văn khác các em
cũng không thể làm tốt được, nếu viết tốt văn thuyết minh trong môn Ngữ văn sẽ
còn giúp các em học tốt một số môn học khác…
2.2. Thực trạng của vấn đề
Tuy không xuất hiện nhiều trong lĩnh vực văn chương nhưng văn bản
thuyết minh lại là loại văn bản thông dụng, có phạm vi sử dụng phổ biến trong
đời sống.
Văn bản thuyết minh không sử dụng khả năng quan sát và trí tưởng tượng
phong phú để tạo dựng hình ảnh, diễn biến, cốt truyện như trong văn bản tự sự,
đồng thời cũng không phụ thuộc vào cảm xúc như văn biểu cảm, không bày tỏ ý
định, nguyện vọng hay thông báo tin tức như trong văn bản hành chính. Với mục
đích cung cấp tri thức và nâng cao hiểu biết cho con người, văn bản thuyết minh
sử dụng lối tư duy khoa học, đòi hỏi sự chính xác, rạch ròi. Muốn làm văn bản
thuyết minh thì phải tiến hành quan sát, tìm hiểu, điều tra, nghiên cứu, tích luỹ
kiến thức. Không có sự hiểu biết để có lượng tri thức thì khó có thể trình bày,
giải thích được một cách sâu sắc, chặt chẽ, chính xác, rạch ròi đặc trưng, tính
chất của sự vật hiện tượng.
Mặt khác, dù có sử dụng thao tác giải thích nhưng nó không phụ thuộc
phương thức nghị luận, bởi hình thức giải thích ở đây không phải là dùng lí lẽ và
dẫn chứng làm sáng tỏ vấn đề hay bày tỏ một quan niệm nào đó. Nói cách khác
người làm văn thuyết minh không cần bộc lộ những nhận xét, đánh giá chủ quan
của mình trong quá trình cung cấp tri thức, cũng không tự hư cấu, bịa đặt, tưởng
tượng… Tất cả những gì được giới thiệu, trình bày đều phải phù hợp với quy
luật khách quan, đúng như đặc trưng bản chất của nó; tức là đúng như hiện trạng
vốn có, đúng như trình tự đã hoặc đang diễn ra… Tóm lại, khi viết văn thuyết
minh phải tôn trọng sự thật, không vì lòng yêu ghét mà thuyết minh sai sự thật.
Văn bản thuyết minh được sử dụng rộng rãi trong đời sống. Với mục đích
cung cấp tri thức, hướng dẫn con người tiếp cận và nắm bắt sự vật, hiện tượng,
7
với mục tiêu cụ thể là: hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng trình bày
văn bản (nói và viết) ở nhiều thể loại khác nhau như: miêu tả, kể chuyện, biểu
cảm, nghị luận… Trong quá trình tham gia vào các hoạt động học tập này, học
sinh với vốn kiến thức còn hạn chế nên thường ngại nói, ngại viết. Đặc biệt trong
thực tế dạy – học Văn bản thuyết minh tôi thấy bài văn của học sinh mình chưa
đáp ứng được những yêu cầu của một văn bản trong nhà trường. Bài văn của các
em vẫn còn hiện tượng lạc đề, lệch đề dẫn đến chưa biết cách viết đúng nội dung
trọng tâm. Vì:
Đây là một kiểu văn bản mới, kiểu bài lạ nên việc dạy của giáo viên và
học của học sinh đều có phần lúng túng.
Các bài văn thuyết minh trong chương trình Ngữ văn 8 ít có yếu tố nghệ
thuật nên bài dạy của giáo viên dễ rơi vào tình trạng rời rạc, ít hấp dẫn, ít thu hút
được sự chú ý theo dõi của học sinh.
Muốn sản sinh văn bản thuyết minh đòi hỏi học sinh cần nhiều kiến thức
thực tế, chính xác, khoa học nhưng thực tế giảng dạy cho thấy, học sinh có phần
mơ hồ trong vấn đề này.
Khó khăn trong việc tìm tài liệu cho quá trình dạy và học, nhất là phần
thuyết minh về địa phương.
Giáo viên THCS được phân công giảng dạy theo từng môn học riêng biệt.
Giáo viên được phân công dạy môn nào thì chỉ chuyên tâm tìm hiểu, học hỏi và
trau dồi kiến thức chuyên môn của môn đó, ít tìm hiểu, quan tâm đến các môn,
các lĩnh vực khác. Nhưng phần văn thuyết minh lại có mối quan hệ chặt chẽ với
các môn khác trong nhà trường và các lĩnh vực trong đời sống.
Trường THCS Ba Cụm Bắc là một trường vùng sâu, vùng xa, có nhiều
học sinh là người dân tộc Raglai nên việc tiếp thu kiến thức còn gặp nhiều khó
khăn đặc biệt là khả năng diễn đạt (vốn từ nghèo nàn, không phong phú do ít
giao tiếp bằng tiếng phổ thông). Khi vào thực tế giảng dạy, tôi thấy phần lớn học
sinh còn lúng túng, vụng về, gặp nhiều khó khăn khi viết bài văn thuyết minh.
9
10
viết không thể hư cấu, bịa đặt tưởng tượng hay suy luận. Nghĩa là tri thức phải
phù hợp với thực tế và không đòi hỏi người làm phải bộc lộ cảm xúc cá nhân của
mình. Người viết phải tôn trọng sự thật, không vì lòng yêu ghét của mình mà
thêm thắt cho đối tượng. Xác định đối tượng thuyết minh cho đề văn thuyết
minh rất đa dạng với nhiều kiểu cấu trúc diễn đạt khác nhau: có khi là một câu
văn, nhiều khi là một câu đặc biệt chỉ đề cập tới đối tượng. Muốn làm bài, học
sinh phải xác định đối tượng thuyết minh, phải quan sát, điều tra, phải tích lũy,
hệ thống hóa mới viết được bài. Điều này nâng cao ý thức khoa học cho học
sinh. Chính vì thế giáo viên cần có phương pháp thuyết trình kết hợp giảng giải
minh họa bằng mẫu vật thật hoặc hình ảnh cho từng đối tượng. Cụ thể:
* Khi đối tượng thuyết minh là một đồ vật thì nội dung thuyết minh
thường
– Cấu tạo của đối tượng
– Các đặc điểm của đối tượng
– Tính năng hoạt động
– Cách sử dụng, cách bảo quản
– Lợi ích của đối tượng
* Khi thuyết minh về một loài vật, nội dung thuyết minh thường
– Nguồn gốc
– Đặc điểm
– Hình dáng
– Lợi ích
* Khi thuyết minh về một thể loại văn học, nội dung thuyết minh
thường
– Nêu một định nghĩa chung về thể thơ
– Nêu các đặc điểm của thể thơ:
12
+ Số câu, chữ.
+ Quy luật bằng trắc.
+ Cách gieo vần.
+ Cách ngắt nhịp.
+ Cảm nhận về vẻ đẹp, nhạc điệu của thể thơ.
*Khi đối tượng thuyết minh là một danh lam thắng cảnh, di tích lịch
sử, thì nội dung thuyết minh thường
– Vị trí địa lí.
– Những cảnh quan làm nên vẻ đẹp đặc sắc của đối tượng.
– Những truyền thống lịch sử, văn hoá gắn liền với đối tượng.
– Cách thưởng ngoạn đối tượng.
*Khi đối tượng thuyết minh là một danh nhân văn hoá thì các nội
dung thuyết minh thường
– Hoàn cảnh xã hội.
– Thân thế và sự nghiệp (chiếm vai trò chủ yếu, có dung lượng lớn nhất
trong bài viết).
– Đánh giá xã hội về danh nhân.
*Khi giới thiệu một đặc sản thì nội dung thuyết minh thường
– Nguồn gốc, ý nghĩa tên gọi món ăn, đặc sản.
– Đặc điểm riêng của món ăn, đặc sản: dáng vẻ, màu sắc, hương vị.
– Cách thức chế biến, thưởng thức.
2.3.2. Phương pháp phân tích
Văn bản thyết minh là kiểu văn bản thông dụng trong mọi lĩnh vực đời
sống nhằm cung cấp tri thức (kiến thức) và đặc điểm, tính chất, nguyên nhân…
của các hiện tượng và sự vật trong tự nhiên, xã hội. Tri thức trong văn thuyết
13
Bên cạnh cơ sở kiến thức đáng tin cậy thì việc sử dụng lời giới thiệu kèm
miêu tả, bình luận, sử dụng một số biện pháp nghệ thuật một cách hợp lý giúp
bài viết sinh động hơn đặc biệt là khi thuyết minh về một danh lam thắng cảnh.
Thực tế cho thấy đối tượng thuyết minh là vô cùng phong phú nên giáo viên có
thể phân tích cho học sinh một số mẫu, định hướng cho các em yêu cầu cơ bản
khi thuyết minh một số đối tượng khác. Cụ thể là:
* Thuyết minh về một cuốn sách, một tập truyện: Cần giới thiệu được
tác giả, thể loại, nhà xuất bản, năm xuất bản, dung lượng, những đặc sắc về nội
dung, nghệ thuật, những đóng góp ảnh hưởng tích cức của cuốn sách (truyện…)
với người đọc, xã hội.
* Đối tượng thuyết minh là người (một tác giả, danh nhân, một gương
mặt tiêu biểu…): Cần giới thiệu tên, tuổi, quê quán gia đình, ngành nghề, môi
trường sinh hoạt làm việc, biểu hiện tư chất, năng khiếu, quá trình học tập, rèn
luyện, thành tích nổi bật và ý nghĩa của những thành tích của nhân vật được
thuyết minh.
* Thuyết minh về một vật dụng (chiếc nón lá, cái cặp sách, chiếc áo
dài…): Cần trình bày nguồn gốc, chất liệu, kiểu dáng, màu sắc, quá trình tồn tại,
vai trò, tác dụng, ưu việt, giá trị thẩm mĩ của vật dụng đối với đời sống, sinh hoạt
con người.
* Thuyết minh về một loài cây, một loài vật nuôi: Cần trình bày được
tên, nguồn gốc, các đặc điểm nổi bật (hình dáng, màu sắc, hương vị, tập tính,
thói quen…), quá trình sinh trưởng và phát triển, cách chăm sóc, nuôi dưỡng…
Vai trò, quan hệ của cây (con vật) đối với đời sống con người.
Dạy Tập làm văn cũng như dạy kiểu văn bản thuyết minh rất cần thiết
việc hình thành lý luận một các có hệ thống. Nhưng lý thuyết chỉ thực sự được
củng cố và tiêu hoá thông qua hệ thống bài tập. Rèn luyện bền bỉ, tỉ mỉ từng
bước, thường xuyên thông qua hệ thống bài tập, chặt chẽ từng thao tác một cho
học sinh là một yêu cầu có tính nguyên tắc, phù hợp đặc thù của giảng dạy Tập
16
làm văn. Thông qua luyện tập thực hành, lý thuyết làm văn mới được định hình
và đạt đến trình độ thông hiểu thực sự.
2.3.3. Phương pháp quan sát và rèn luyện theo mẫu
Khi vận dụng phương pháp quan sát và rèn luyện theo mẫu, giáo viên
hướng dẫn học sinh tiến hành phân tích và sản sinh văn bản (nói, viết) theo mẫu.
Qua việc tìm hiểu các ngữ liệu, học sinh đi đến những kết luận về lí thuyết rồi
vận dụng linh hoạt những kiến thức này vào hoạt động luyện tập và tạo lập sáng
tạo văn bản theo những yêu cầu của từng bài tập. Việc rèn luyện theo mẫu này
phải là những vấn đề thực sự có ý nghĩa, gần gũi với chính học sinh. Cách dạy
làm văn (trong đó có văn thuyết minh) theo phương pháp này là cách dạy có
hiệu quả khá cao bởi đa số học sinh ở đây là người sở tại nên năng lực tự sáng
tạo văn bản của các em còn hạn chế.
Muốn làm văn bản thuyết minh thì phải tiến hành quan sát, tìm hiểu, điều
tra, nghiên cứu, tích luỹ kiến thức. Để có thể trình bày, giải thích được một cách
sâu sắc, chặt chẽ, chính xác, rạch ròi đặc trưng, tính chất của sự vật hiện tượng
cần có sự hiểu biết lượng tri thức về đối tượng cần thuyết minh. Mà muốn có tri
thức về đối tượng thì trước hết phải biết quan sát. Quan sát không phải chỉ đơn
thuần là nhìn, xem mà còn phải quan sát phát hiện đặc điểm tiêu biểu của sự vật,
phân biệt cái chính, cái phụ. Đặc điểm tiêu biểu có ý nghĩa phân biệt sự vật này
với sự vật khác như cao, thấp, dài, ngắn, to, bé, vuông, tròn… Hơn nữa phải biết
tra cứu từ điển, sách giáo khoa. Thứ ba là biết phân tích, ví dụ đối tượng có thể
chia làm mấy bộ phận, mỗi bộ phận có đặc điểm gì, quan hệ của các bộ phận ấy
với nhau ra sao.
* Ví dụ 1: Sau khi các em có những định hướng về cách làm một bài văn
thuyết minh từ việc phân tích mẫu văn bản “Chiếc xe đạp” qua bài “Đề văn
thuyết minh và cách làm bài văn thuyết minh” – Tuần 13; tiết 51. Giáo viên
hướng dẫn học sinh luyện tập bằng bài tập:
Tìm ý và lập dàn ý cho đề bài “Thuyết minh về chiếc bút bi”.
17
Để làm được bài tập trên, học sinh phải biết quan sát sau đó vận dụng
những kiến thức lý thuyết để tiến hành tìm hiểu đề bài (xác định đối tượng –
chiếc bút bi); tìm hiểu, tích luỹ tri thức về đối tượng (nguồn gốc, hình dáng,
nguyên liệu, cách sử dụng, vai trò, ý nghĩa, công dụng của chiếc bút bi trong
cuộc sống: trường học, bệnh viện, nhà máy…); lựa chọn phương pháp thuyết
minh (định nghĩa, giải thích, phân tích, phân loại, nêu ví dụ); từ đó lập dàn ý cho
đề bài để viết bài.
* Ví dụ 2: Để củng cố kiến thức và rèn luyện kỹ năng về kiểu bài
“Thuyết minh một thể loại văn học” – Tuần 16; tiết 61, ngoài các bài tập nhận
diện “Thuyết minh đặc điểm thể thơ thất ngôn bát cú”, giáo viên có thể cho
các em luyện tập, tập viết bài bằng bài tập sau:
Lập dàn ý cho đề bài: “Thuyết minh về thể loại truyện ngắn dựa trên cơ sở
các tác phẩm truyện ngắn đã học”.
Căn cứ vào những kết luận về lý thuyết kiểu bài vừa tìm được từ việc
thuyết minh về thể thơ Thất ngôn bát cú đường luật, kết hợp với việc quan sát
tìm hiểu các truyện ngắn trong phần đọc hiểu văn bản, để tìm ra những đặc điểm
của truyện ngắn về dung lượng, cốt truyện, kết cấu, nhân vật, vai trò, tác dụng để
tạo lập một dàn ý hợp lý.
2.3.4. Phương pháp giao tiếp
Bên cạnh việc hướng dẫn học sinh quan sát và rèn luyện theo mẫu thì
việc đưa các em vào những tình huống giao tiếp để sản sinh văn bản cũng là một
việc làm quan trọng. Điều này thể hiện ở việc giáo viên đưa ra các câu hỏi. Với
phương pháp này giáo viên có thể giúp học sinh liên hệ đến nhiều phân môn
khác.
* Ví dụ: Môn Giáo dục công dân: Khoan dung là gì? Biểu hiện của khoan
dung? Giáo viên hỏi các học sinh khác: Theo em, bạn đã trình bày đầy đủ và hợp
lý về khái niệm này chưa? Vì sao? Nếu là em, em sẽ trình bày khái niệm này
như thế nào?
18
Hoặc môn Sinh học: Thân là gì? Cấu tạo ngoài của thân gồm những bộ
phận nào?
Hoặc môn Địa lý: Sông là gì?
Việc đặt ra những câu hỏi để đưa học sinh vào tình huống giao tiếp như
trên chủ yếu vận dụng trong tiết dạy thực hành “Luyện nói”.
Trong chương trình Ngữ văn nói chung, Ngữ văn 8 nói riêng, tiết luyện
nói cũng chiếm vị trí khá quan trọng. Bởi vì nó không chỉ củng cố lý thuyết mà
còn góp phần rèn luyện kĩ năng, hình thành kĩ xảo. Để giờ làm văn miệng thực
sự có hiệu quả, tránh cho các em cảm giác nhàm chán, đơn điệu, tẻ nhạt. Giáo
viên cần chuẩn bị, xây dựng kế hoạch giảng dạy thật kĩ lưỡng, tạo được những
tình huống sư phạm để phát huy hiệu quả đào tạo học sinh về nhiều mặt.
Trong tiết luyện nói, thời gian chuẩn bị ít, đòi hỏi sự nhanh nhạy, linh
hoạt, cơ động trong chọn từ, sắp ý và diễn đạt. Hơn nữa trong giờ làm văn
miệng, học sinh còn phải biết vận dụng yếu tố đặc thù của lời nói kết hợp với
những hoạt động hình thể. Song bên cạnh những khó khăn trên, giờ làm văn
miệng lại có thế mạnh là hoạt động giao tiếp tập thể dễ kích thích hứng thú hoạt
động của học sinh. Chính vì vậy, giáo viên có thể cho cả lớp chuẩn bị một vấn
đề song chỉ định một vài học sinh (không nhất thiết phải giỏi nhất) chuẩn bị kĩ
hơn để trình bày trước tập thể, lớp trao đổi, giáo viên tổng kết. Trước khi tiết
luyện nói diễn ra giáo viên ra đề cho học sinh chuẩn bị trong 15 – 20 phút, để
luyện nói thành công học sinh cũng phải trải qua quá trình viết văn bản trong
thời gian ngắn, phải biết cách sắp xếp ý, lựa chọn, chắt lọc ngôn từ… Điều này
phụ thuộc vào quá trình giao tiếp hay nói cách khác phụ thuộc vào phương pháp
giao tiếp ban đầu giữa giáo viên với học sinh để từ văn bản viết chuyển sang văn
bản nói được sinh động hơn.
Dù tổ chức theo hình thức nào thì qua cách diễn đạt, phong cách, điệu bộ
của học sinh, giáo viên cần động viên hay uốn nắn kịp thời về mặt ứng xử đồng
thời bổ sung, điều chỉnh kiến thức cho các em. Phương pháp giao tiếp trong tiết
19
“Luyện nói” có ý nghĩa giáo dục toàn diện, vừa rèn luyện ngôn ngữ nói, nghệ
thuật giao tiếp vừa củng cố phương pháp tư duy, cách lựa chọn ngôn ngữ để viết
bài.
Trong chương trình Ngữ văn còn có tiết “Trả bài”. Đây cũng là tiết tập
trung phương pháp giao tiếp trong giảng dạy. Giáo viên căn cứ vào dữ kiện của
đề bài, tình hình làm văn của học sinh để xác định yêu cầu của tiết dạy về các
mặt tư tưởng, kĩ năng, phương pháp. Giờ trả bài cần tiến hành theo một trình tự
hợp lý.
– Yêu cầu học sinh nhắc lại đề bài, tìm hiểu đề.
– Xây dựng, định hướng cho bài viết (dàn ý).
– Giáo viên nhận xét bài làm của học sinh (ưu điểm và tồn tại), trả bài cho
học sinh.
– Học sinh tự chữa lỗi cho bài làm của mình và bạn (trên cơ sở lời nhận
xét và lời phê của giáo viên).
– Giáo viên chọn một số đoạn văn mắc các lỗi tiêu biểu, chữa trước lớp.
– Đọc một số bài văn viết tốt.
– Củng cố kiến thức bài học (lý thuyết, kĩ năng làm bài), khuyến khích,
động viên học sinh làm bài sau.
Giờ trả bài là giờ học được xây dựng từ sự lao động trực tiếp và vốn liếng
nhiều mặt của học sinh. Điều cốt yếu là qua giờ trả bài, các em nhận ra mặt
mạnh, mặt yếu của mình, để có hướng phát huy hay khắc phục. Giáo viên cần
tập trung dành thời gian cho học sinh tự sửa bài để khả năng viết của các em dần
dần được nâng cao.
2.3.5. Phương pháp thảo luận nhóm và viết đoạn văn ngắn
Như tất cả chúng ta đều biết, để thu hút được sự chú ý của học sinh trong
giờ học Văn đã khó với phân môn Tập Làm Văn lại càng khó hơn. Do vậy muốn
thực hiện được người giáo viên cần phải có nghệ thuật, có sự kết hợp nhiều yếu
20
--- Bài cũ hơn ---
Phương Pháp Dạy Văn Thuyết Minh Sử Dụng Mội Số Biện Pháp Nghệ Thuật Trong Văn Bản Thuyết Minh Thuyết Minh Về Một Danh Lam Thắng Cảnh Hoặc Di Tích Ở Quê Hương Em. ( Vịnh Hạ Long ) Cách Làm Bài Văn Thuyết Minh Về Một Danh Lam Thắng Cảnh Soạn Bài Thuyết Minh Về Một Danh Lam Thắng Cảnh