Top 5 # Phương Pháp Kế Toán Thực Hiện Giai Đoạn Thu Nhận Thông Tin Kế Toán Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Sansangdethanhcong.com

Giải Pháp Nâng Cao Hệ Thống Thông Tin Kế Toán Trong Giai Đoạn Hội Nhập

Hệ thống thông tin kế toán (TTKT) có vai trò quan trọng trong quản lý kinh tế cả ở tầm vĩ mô và vi mô, đặc biệt, trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới và khu vực. Vì thế, tổ chức hệ thống TTKT trong các doanh nghiệp (DN) như thế nào có chất lượng phục vụ cho công tác quản lý, cho quá trình ra quyết định là một tất yếu khách quan. Do đó, tổ chức hệ thống TTKT là một nội dung mà hiện nay các DN rất chú trọng và quan tâm.

Đặc biệt là, Việt Nam đang từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Với sự phát triển khoa học, công nghệ và thông tin như hiện nay, đòi hỏi việc cung cấp TTKT phải được thực hiện một cách nhanh chóng, kịp thời, chính xác và đáng tin cậy, để phục vụ cho quản lý và việc ra quyết định. Vì vậy, tổ chức hệ thống TTKT trong các DN có chất lượng là một vấn đề rất đáng quan tâm.

Mặt khác, mục đích sử dụng và mức độ nhu cầu thông tin của các đối tượng có thể khác nhau, giữa các nhóm trong và ngoài đơn vị song cũng có những điểm chung nhất định. Những điểm chung về nhu cầu TTKT của các đối tượng sử dụng thông tin bao gồm những thông tin về tình hình tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh (HĐKD) và lưu chuyển tiền của một đơn vị kế toán (ĐVKT) nhất định. Do vậy, họ đều có nhu cầu được cung cấp, đọc và hiểu TTKT phản ánh tình hình kinh tế của đơn vị trên các phương diện: Tài sản, nợ phải trả, vốn chủ sở hữu; Thu nhập, chi phí, kết quả hoạt động; Luồng tiền; Các thông tin chung khác.

Những điểm khác biệt về mục đích sử dụng TTKT của các nhóm đối tượng có ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ nhu cầu thông tin tổng quát, chi tiết và chuyên biệt. Nhu cầu về thông tin dạng tổng quát là nhu cầu chung, chủ yếu thuộc về nhóm đối tượng bên ngoài đơn vị và được thỏa mãn thông qua các báo cáo tài chính (BCTC).

Nhu cầu thông tin dạng chi tiết chủ yếu thuộc về nhóm đối tượng bên trong đơn vị và được thỏa mãn thông qua các báo cáo kế toán chi tiết. Nhu cầu thông tin chuyên biệt chủ yếu thuộc về nhóm đối tượng bên trong đơn vị là các nhà quản lý và được thỏa mãn thông qua hệ thống báo cáo kế toán quản trị (KTQT).

TTKT bao gồm những TTKT tài chính và TTKT quản trị. Nhưng trong bài viết này, chúng tôi đề cập chủ yếu đến TTKT tài chính. Vì TTKT tài chính được rất nhiều đối tượng sử dụng quan tâm.

TTKT tài chính phản ánh một cách tổng quát những thông tin kinh tế tài chính của một đơn vị và nó chủ yếu cần cho mọi đối tượng sử dụng, nó có vai trò rất quan trọng đối với mỗi một đối tượng khi sử dụng để ra quyết định sao cho phù hợp. TTKT tài chính thường được thể hiện dưới các loại sau:

Kế toán với đặc điểm cung cấp thông tin một cách liên tục, thường xuyên và có hệ thống tình hình tài chính, tình hình hoạt động và luồng tiền của đơn vị cụ thể. Do vậy, TTKT có vai trò rất quan trọng trong quản lý kinh tế và nó tùy theo từng đối tượng sử dụng, cụ thể:

1.      Đối với nhà quản trị DN: Họ sử dụng thông tin về kế toán để xác định mục đích kinh doanh, đề ra các quyết định để thực hiện, đánh giá thực hiện mục tiêu và điều chỉnh, nếu thấy cần thiết, để HĐKD của họ đạt hiệu quả cao hơn; vai trò của kế toán trong việc cung cấp thông tin cho các nhà quản trị là nhằm liên kết các quá trình quản lý với nhau và liên kết DN với môi trường bên ngoài.

2.      Đối với chủ sở hữu: Họ quan tâm đến lợi nhuận, lợi tức sinh ra từ vốn kinh doanh, vì đây là căn cứ để họ đưa ra các quyết định cần thiết, bao gồm cả quyết định phân chia lợi nhuận, lợi tức cho họ. Đồng thời, qua việc xem xét thông tin trên báo cáo kế toán họ có thể đánh giá năng lực trách nhiệm của các bộ phận quản lý ở DN là tốt hay xấu.

3.      Đối với nhà đầu tư: Họ luôn muốn đầu tư vào nơi nào có tỷ lệ hoàn vốn cao nhất và thời gian ngắn nhất. Do vậy, trước khi đầu tư, họ cần thông tin về tình hình tài chính của DN để qua đó nghiên cứu, phân tích, đánh giá rồi đi đến quyết định có nên đầu tư hay không.

4.      Đối với các nhà cho vay và cung cấp hàng hóa dịch vụ: Các ngân hàng, các tổ chức tài chính cũng như các nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ, trước khi cho vay hoặc cung cấp hàng hóa, đều có nhu cầu về thông tin khả năng thanh toán của DN như thế nào; nghĩa là DN hay đơn vị đó có đủ khả năng thanh toán hay không, để có thông tin này thì phải có TTKT cung cấp.

5.      Đối với cơ quan thuế: Các cơ quan thuế địa phương và trung ương dựa vào tài liệu do kế toán cung cấp để xác định thuế, thuế tiêu thụ đặc biệt và biết được các đơn vị hay các DN có thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước hay không.

6.      Đối với Nhà nước: Các cơ quan Nhà nước cần số liệu kế toán của các đơn vị, các DN để tổng hợp cho ngành, địa phương và trên cơ sở đó phân tích, đánh giá, nhằm định ra các chính sách kinh tế thích hợp, để thúc đẩy sản xuất kinh doanh và điều hành kinh tế vĩ mô.

Qua trên, chúng ta thấy TTKT có vai trò rất quan trọng, đặc biệt trong quá trình hội nhập hiện nay nó càng trở nên quan trọng hơn. Thông tin do kế toán cung cấp là thông tin phản hồi về đối tượng quản lý. Nếu không có thông tin này, cả hệ thống quản lý kinh tế sẽ bị đình trệ. Mặt khác, nó có vai trò quan trọng đối với các đối tượng sử dụng khác nhau. Đồng thời, kế toán còn hỗ trợ đắc lực cho các công cụ quản lý khác phát huy tốt nhất tác dụng của chúng. Do đó, để TTKT đảm bảo chất lượng và đảm bảo là nguồn thông tin hữu ích đối với các đối tượng sử dụng, thì TTKT phải đảm bảo được yêu cầu thích hợp,  tính tin cậy và có thể so sánh được.

-        Tính thích hợp được hiểu là khả năng của TTKT để tạo ra sự khác biệt đối với các đối tượng sử dụng TTKT. Nói khác là, tính thích hợp của TTKT trợ giúp cho các đối tượng sử dụng đánh giá điều kiện hiện tại, dự đoán tương lai và đánh giá quá khứ.

-        Tính tin cậy của TTKT được hiểu là TTKT không bị ràng buộc từ tính thiên vị về bất kỳ một đối tượng sử dụng thông tin nào và phải được trình bày, công bố theo đúng yêu cầu đã đề ra.

-        Tính có thể so sánh được của TTKT cho phép các đối tượng sử dụng TTKT có thể xác định tính tương đồng và khác biệt giữa hai hoặc nhiều đối tượng cần so sánh. Đối tượng được so sánh có thể là giữa kế hoạch và thực tế, giữa các kỳ thực tế của cùng một ĐVKT, giữa các ĐVKT với các ĐVKT khác trong cùng ngành.

Để đáp ứng được yêu cầu TTKT nêu trên, chúng tôi xin trao đổi và nêu một số đề xuất nhằm nâng cao chất lượng TTKT.

1.      Thứ nhất: Nhà nước ta phải có hướng dẫn chi tiết về những quy định trong chuẩn mực (CM) đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán: Phải đảm bảo tính thống nhất giữa Nghị định của Chính Phủ và CM đạo đức nghề nghiệp.

2.      Thứ hai: Hệ thống chuẩn mực kế toán (CMKT) và CM đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán phải phù hợp với thông lệ quốc tế. CMKT quốc tế đã đưa ra các khái niệm, yêu cầu, điều kiện và cả những quan điểm chung về tính minh bạch của BCTC.

3.      Thứ ba: Cần hoàn thiện hệ thống BCTC trên các phương diện: Trình bày thông tin tổng quát và chi tiết đảm bảo tính so sánh và phân tích được, vì hiện nay các BCTC có báo cáo thông tin tổng quát, có báo cáo thông tin chi tiết nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu so sánh, phân tích như thuyết minh BCTC, báo cáo kết quả HĐKD, nên bổ sung báo cáo vốn chủ sở hữu vì đây là thông tin cần thiết để đánh giá nguồn lực tự có của các ĐVKT, các DN, thông tin mà các nhà đầu tư luôn quan tâm.

4.      Thứ tư: Hiện nay, đang có xu hướng xung khắc và mâu thuẫn trong việc áp dụng theo hệ thống văn bản pháp quy của Nhà nước và hệ thống CMKT, do vậy đã làm sai lệch đáng kể thông tin của kế toán dẫn đến tính minh bạch, trung thực, khách quan không được đảm bảo. Thực tế ở Việt Nam có DN thuyết minh chính sách kế toán ghi nhận khoản chênh lệch tỷ giá hối đoái theo CM số 10 nhưng thực tế lại làm kế toán theo TT 201/2009, văn bản có mâu thuẫn với CM này. Trình trạng phổ biến là thuyết minh thiếu nhiều nội dung theo yêu cầu của CM và chế độ kế toán (Trích http://www.tin moi.vn). Do vậy, theo quan điểm, việc xử lý thông tin và trình bày thông tin trên BCTC phải tuân thủ theo các quy định và hướng dẫn của CMKT. Hệ thống CMKT, kiểm toán phải do Hội nghề nghiệp kế toán, kiểm toán soạn thảo, hoàn thiện và ban hành phù hợp với thông lệ quốc tế. Các văn bản pháp luật về kinh tế tài chính phải do Nhà nước ban hành, là hệ thống các quy phạm pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế tài chính trong nền kinh tế quốc dân.

5.      Thứ năm: Trong giảng dạy khoa học kế toán nói chung, cần phải tuân thủ theo các nguyên tắc và CMKT đã được thừa nhận vì đây là cơ sở nền tảng để giải thích, phân tích và chứng minh các mối liên hệ trong quá trình thu thập, xử lý, trình bày và cung cấp thông tin của kế toán. Từ đó, TTKT mới đạt được yêu cầu: Thích hợp, tin cậy và tính có thể so sánh được.

Tóm lại: Để đáp ứng TTKT thực sự được minh bạch, trung thực, khách quan và có chất lượng trong quá trình hội nhập thì nhất thiết phải tuân thủ theo hệ thống CMKT, CM kiểm toán đã ban hành và phù hợp với thông lệ quốc tế. Tất cả thông tin định lượng và định tính của kế toán, kiểm toán đều do con người xử lý và cung cấp thông tin trong quá trình hành nghề. Do vậy, thông tin đó có khách quan, trung thực, minh bạch hay không, phụ thuộc rất nhiều vào đạo đức nghề nghiệp của người làm kế toán, kiểm toán, phụ thuộc vào sức ép về lợi ích của chủ DN. Chính vì vậy, hoàn thiện và hướng dẫn chi tiết thực hiện CM đạo đức nghề nghiệp kế toán và kiểm toán là hết sức cần thiết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta./.

Tài liệu tham khảo

– Luật Kế toán Việt Nam;

– chúng tôi Đoàn Xuân Tiên, GT Nguyên lý Kế toán năm 2009, NXB Tài chính.

Theo Tạp chí Kế toán và Kiểm toán – Bài của TS. Trần Hải Long – Đại học Thương mại

Nguyên Tắc Và Phương Pháp Ghi Nhận Doanh Thu Trong Kế Toán

Ghi nhận doanh thu là một trong những bước quan trọng nhất của quá trình kinh doanh . Nó giúp người làm kinh doanh xác định được kết quả kinh doanh một cách rõ ràng và chân thực. Với nguyên tắc ghi nhận doanh thu khác nhau sẽ dẫn đến kết quả hoạt động kinh doanh khác nhau.

Các nội dung chính [hide]

– Doanh thu là lợi ích kinh tế thu được làm tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp ngoại trừ phần đóng góp thêm của các cổ đông. Doanh thu được ghi nhận tại thời điểm giao dịch phát sinh, khi chắc chắn thu được lợi ích kinh tế, được xác định theo giá trị hợp lý của các khoản được quyền nhận, không phân biệt đã thu tiền hay sẽ thu được tiền.

Doanh thu là yếu tố quyết định đến thành công trong công tác kinh doanh của doanh nghiệp

– Doanh thu và chi phí tạo ra khoản doanh thu đó phải được ghi nhận đồng thời theo nguyên tắc phù hợp. Tuy nhiên trong một số trường hợp, nguyên tắc phù hợp có thể xung đột với nguyên tắc thận trọng trong kế toán, thì kế toán phải căn cứ vào chất bản chất và các Chuẩn mực kế toán để phản ánh giao dịch một cách trung thực, hợp lý.

Thu nhập khác: là khoản thu góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu từ hoạt động ngoài các hoạt động tạo ra doanh thu.

Việc tổ chức công tác kế toán doanh thu, chi phí và xác định kết quả kinh doanh giúp các doanh nghiệp:

– Xác định hiệu quả của từng loại hoạt động trong doanh nghiệp.

– Đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh.

– Có căn cứ để thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước, thực hiện việc phân phối cũng như tái đầu tư sản xuất kinh doanh.

– Kết hợp các thông tin thu thập được với các thông tin khác để đề ra chiến lược giải pháp sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất trong tương lai.

Việc tổ chức công tác kế toán doanh thu, chi phí và xác định kết quả kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với Nhà nước. Nhà nước có thể tái đầu tư vào cơ sở hạ tầng, đảm bảo điều kiện về chính trị – an ninh – xã hội tốt nhất.

Thông qua các chỉ tiêu về doanh thu, chi phí và xác định kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trên báo cáo tài chính, các nhà đầu tư sẽ phân tích, đánh giá tình hình hoạt động của doanh nghiệp để có các quyết định đầu tư đúng đắn.

Đồng thời, thông qua tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước của các doanh nghiệp, các nhà hoạch định chính sách quốc gia sẽ có cơ sở để ra các giải pháp phát triển kinh tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động thông qua các chính sách tiền tệ, chính sách thuế và các khoản phụ cấp, trợ cấp, trợ giá.

Quản lý bán hàng đơn giản, tối ưu chi phí hiệu quả với chúng tôi

Các số liệu về doanh thu, chi phí, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp là căn cứ để ra quyết định cho vay vốn đầu tư

Kết quả kinh doanh và lịch sử thanh toán là căn cứ để đưa ra các quyết định về việc cho doanh nghiệp chậm thanh toán.

Quản lý nghiệp vụ tiêu thụ hàng hóa trong doanh nghiệp là quá trình quản lý hàng hóa về số lượng, chất lượng giá trị hàng hóa bán ra, quản lý từ khâu mua, bán từng mặt hàng, từng nhóm hàng cho đến khi thu được tiền hàng cụ thể như sau:

– Quản lý về số lượng: giá trị hàng hóa xuất bán bao gồm việc quản lý từng người mua, từng lần gửi hàng, từng nhóm hàng.

– Quản lý về giá cả bao gồm: việc lập dự định về theo dõi, việc thực hiện giá đưa ra kế hoạch của kỳ tiếp theo.

– Quản lý việc thu hồi tiền bán hàng và xác định kết quả kinh doanh: quản lý tiêu thụ hàng hóa tốt sẽ tạo điều kiện cho quản lý kết quả kinh doanh tốt. Từ đó hạn chế rủi ro trong kinh doanh cũng như ngăn chặn nguy cơ thất thoát hàng hóa, đảm bảo tính chính xác của các số liệu đưa ra.

– Phản ánh, ghi chép đầy đủ tình hình hiện có và sự biến động về mặt số lượng, chủng loại, quy cách, mẫu mã,… đối với từng loại hàng hóa, dịch vụ bán ra.

– Phản ánh, ghi chép đầy đủ, kịp thời các khoản doanh thu, các khoản giảm trừ doanh thu và toàn bộ chi phí phát sinh trong kỳ để cuối kỳ tập hợp doanh thu, cho phí, từ đó xác định được kết quả kinh doanh.

– Theo dõi thường xuyên, liên tục biến động tăng, giảm các khoản doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, doanh thu hoạt động tài chính và thu nhập khác.

– Theo dõi chi tiết, riêng biệt từng loại doanh thu, kể cả doanh thu nội bộ nhằm phản ánh kịp thời, chi tiết, đầy đủ kết quả kinh doanh làm căn cứ lập các báo cáo tài chính.

– Theo dõi chi tiết các khoản giảm trừ doanh thu, các khoản phải thu, chi phí của từng hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời theo dõi và đôn đốc các khoản phải thu khách hàng.

– Xác định chính xác kết quả hoạt động kinh doanh, theo dõi tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước.

– Xác định được quá trình luân chuyển chứng từ về kế toán doanh thu và xác định kết quả kinh doanh.

– Đưa ra những kiến nghị, biện pháp nhằm hoàn thiện việc tiêu thụ và xác định kết quả kinh doanh, cung cấp cho ban lãnh đạo những thông tin cần thiết để xây dựng những kế hoạch cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp

Chiết khấu thương mại là khoản doanh nghiệp bán giảm giá giá niêm yết cho khách hàng mua hàng với số lượng lớn. Khoản giảm giá có thể phát sinh trên khối lượng của từng lô hàng mà khách đã mua, cũng có thể phát sinh trên tổng khối lượng hàng lũy kế mà khách hàng đã mua trong một quãng thời gian nhất định tùy thuộc vào chính sách chiết khấu thương mại của bên bán

Giảm giá hàng bán là khoản giảm trừ cho người mua do toàn bộ hoặc toàn phần hàng hóa kém phẩm chất, sai quy cách hoặc lạc hậu thị hiếu.

Giá trị hàng bán bị trả lại là giá trị khối lượng hàng bán đã đƣợc xác định là tiêu thụ bị khách hàng trả lại và từ chối thanh toán do các nguyên nhân nhƣ: Vi phạm cam kết, vi phạm hợp đồng kinh tế, hàng bị mất, kém phẩm chất, không đúng chủng loại quy cách. Khi doanh nghiệp ghi nhận giá trị hàng bán bị trả lại đồng thời ghi nhận giảm tương ứng giá vốn hàng bán trong kỳ

Thuế tiêu thụ đặc biệt được coi là một trong các khoản giảm trừ doanh thu phát sinh khi doanh nghiệp cung cấp các loại sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất (hoặc các loại dịch vụ) thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB cho khách hàng.

– Thuế xuất khẩu được coi là một trong các khoản giảm trừ doanh thu phát sinh trong khi doanh nghiệp có hàng hóa được phép xuất khẩu qua cửa khẩu hay biên giới. Doanh nghiệp phải có nghĩa vụ nộp thuế xuất khẩu. Trong doanh thu của hàng xuất khẩu đã bao gồm số thuế xuất khẩu phải nộp vào ngân sách nhà nước.

– Thuế GTGT tính theo phương pháp trực tiếp là tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất tới tiêu thụ. Thuế GTGT phải nộp tương ứng với số doanh thu đã được xác định trong kỳ báo cáo.

6. Điều kiện và nguyên tắc ghi nhận doanh thu kế toán

Doanh nghiệp chỉ ghi nhận doanh thu bán hàng khi đồng thời thỏa mãn các điều kiện sau:

– Doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu sản phẩm, hàng hóa cho người mua;

– Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý hàng hóa như người sở hữu hoặc quyền kiểm soát hàng hóa;

– Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn. Khi hợp đồng quy định người mua được quyền trả lại sản phẩm, hàng hóa, đã mua theo những điều kiện cụ thể, doanh nghiệp chỉ được ghi nhận doanh thu khi những điều kiện cụ thể đó không còn tồn tại và người mua không được quyền trả lại sản phẩm, hàng hoá (trừ trường hợp khách hàng có quyền trả lại hàng hóa dưới hình thức đổi lại để lấy hàng hóa, dịch vụ khác);

– Doanh nghiệp đã hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán hàng;

Doanh nghiệp chỉ ghi nhận doanh thu cung cấp dịch vụ khi đồng thời thỏa mãn các điều kiện sau:

– Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn. Khi hợp đồng quy định người mua được quyền trả lại dịch vụ đã mua theo những điều kiện cụ thể, doanh nghiệp chỉ được ghi nhận doanh thu khi những điều kiện cụ thể đó không còn tồn tại và người mua không được quyền trả lại dịch vụ đã cung cấp;

– Doanh nghiệp đã hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch cung cấp dịch vụ đó;

– Xác định được phần công việc đã hoàn thành vào thời điểm báo cáo;

– Xác định được chi phí phát sinh cho giao dịch và chi phí để hoàn thành giao dịch cung cấp dịch vụ đó.

Trường hợp hợp đồng kinh tế bao gồm nhiều giao dịch, doanh nghiệp phải nhận biết các giao dịch để ghi nhận doanh thu, ví dụ:

– Trường hợp hợp đồng kinh tế quy định việc bán hàng và cung cấp dịch vụ sau bán hàng (ngoài điều khoản bảo hành thông thường), doanh nghiệp phải ghi nhận riêng doanh thu bán hàng và doanh thu cung cấp dịch vụ;

Doanh thu của doanh nghiệp có ý nghĩa đến Nhà nước và tình hình kinh tế thị trường

– Trường hợp hợp đồng quy định bên bán hàng chịu trách nhiệm lắp đặt sản phẩm, hàng hóa cho người mua thì doanh thu chỉ được ghi nhận sau khi việc lắp đặt được thực hiện xong;

– Trường hợp doanh nghiệp có nghĩa vụ phải cung cấp cho người mua hàng hóa, dịch vụ miễn phí hoặc chiết khấu, giảm giá, kế toán chỉ ghi nhận doanh thu đối với hàng hóa, dịch vụ phải cung cấp miễn phí đó cho đến khi đã thực hiện nghĩa vụ với người mua.

Việc ghi nhận doanh thu bán bất động sản phải đảm bảo thỏa mãn đồng thời 5 điều kiện sau:

– Bất động sản đã hoàn thành toàn bộ và bàn giao cho người mua, doanh nghiệp đã chuyển giao rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu bất động sản cho người mua;

– Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý bất động sản như người sở hữu bất động sản hoặc quyền kiểm soát bất động sản;

– Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn;

– Doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán bất động sản;

– Đối với hàng hóa nhận bán đại lý, ký gửi theo phương thức bán đúng giá hưởng hoa hồng, doanh thu là phần hoa hồng bán hàng mà doanh nghiệp được hưởng.

– Đối với hoạt động dịch vụ ủy thác xuất nhập khẩu, doanh thu là phí ủy thác đơn vị được hưởng.

– Đối với đơn vị nhận gia công vật tư, hàng hóa, doanh thu là số tiền gia công thực tế được hưởng, không bao gồm giá trị vật tư, hàng hóa nhận gia công.

– Trường hợp bán hàng theo phương thức trả chậm, trả góp, doanh thu được xác định theo giá bán trả tiền ngay.

– Doanh thu không bao gồm khoản thu hộ bên thứ ba như:

+ Các loại thuế gián thu (thuế GTGT, thuế xuất khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế bảo vệ môi trường,…) phải nộp.

+ Số tiền người bán hàng đại lý thu hộ bên chủ hàng do bán hàng đại lý.

+ Các khoản phụ thu và phí thu thêm ngoài giá bán đơn vị không được hưởng

Phương Pháp Của Hạch Toán Kế Toán

Xuất phát từ những đặc điểm cơ bản của đối tượng hạch toán kế toán, hệ thống phương pháp hạch toán kế toán đã ra đời gồm 4 yếu tố (phương pháp cụ thể) là chứng từ, đối ứng tài khoản, tính giá và tổng hợp – cân đối kế toán.

Phân loại các phương pháp hạch toán kế toán

Chứng từ: Phương pháp chứng từ là một phương pháp thông tin và kiểm tra sự hình thành và các nghiệp vụ kinh tế.

Đối ứng tài khoản: Phương pháp đối ứng tài khoản là phương pháp thông tin và kiểm tra quá trình vận động của vốn kinh doanh theo từng loại hoặc từng bộ phận của vốn.

Tính giá: Phương pháp tính giá là phương pháp thông tin và kiểm tra về chi phí trực tiếp và gián tiếp cho từng loại hoạt động, từng loại hàng hóa (kể cả vật liệu, tài sản, sản phẩm và lao vụ).

Tổng hợp – cân đối kế toán: Phương pháp tổng hợp – cân đối phương pháp khái quát tình hình vốn kinh doanh và kết quả kinh doanh của đơn vị hạch toán qua từng thời kỳ nhất định.

Việc vận dụng các phương pháp hạch toán kế toán

Trong thực tiễn công tác, tùy thuộc vào trình độ của cán bộ và phương tiện tính toán cũng như yêu cầu quản lý, cách vận dụng các phương pháp hạch toán kế toán trên cũng khác nhau. Tuy nhiên, các hình thức biểu hiện cơ bản của các phương pháp có tính ổn định tương đối và có sự kết hợp trong mối quan hệ phụ thuộc giữa các yếu tố của cả hệ thống phương pháp.

Mối quan hệ giữa các phương pháp hạch toán kế toán

Mỗi phương pháp có vị trí, chức năng nhất định song giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành một hệ thống phương pháp hạch toán kế toán. Do đó, trong công tác kế toán, các phương pháp này được sử dụng một cách tổng hợp, đồng bộ.

Phương pháp Tổng hợp – cân đối kế toán được sử dụng trong quản lý kinh tế, khi muốn có những thông tin tổng hợp hay bức tranh toàn cảnh về tình hình tài chính của doanh nghiệp.

Tuy nhiên, kế toán chỉ có thể Tổng hợp – cân đối được trên cơ sở vận dụng mối quan hệ Đối ứng tài khoản để ghi chép các nghiệp vụ kinh tế vào các tài khoản kế toán.

Việc ghi chép vào tài khoản kế toán lại yêu cầu phải Tính giá các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh.

Song, muốn tính giá và ghi chép vào các tài khoản kế toán chính xác, đòi hỏi phải có những Chứng từ hợp pháp, hợp lý, hợp lệ sao chụp nguyên hình các nghiệp vụ kinh tế phát sinh và là cơ sở pháp lý để làm căn cứ ghi sổ kế toán.

Phương Pháp Kế Toán Là Gì Và Các Phương Pháp Kế Toán Cơ Bản?

Phương pháp kế toán là gì và các phương pháp kế toán cơ bản? – Đa số các doanh nghiệp hiện nay đều có các phương pháp kế toán riêng cho doanh nghiệp mình. Bài viết sau đây sẽ chia sẻ cho các bạn 4 phương pháp kế toán cơ bản đang được sử dụng phổ biến hiện nay.

Phương pháp kế toán là các phương thức, biện pháp kế toán sử dụng để thu nhập, xử lý và cung cấp thông tin về tài sản, sự biến động của tài sản và các quá trình hoạt động kinh tế tài chính nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý.

Các phương pháp kế toán cơ bản:

Là phương pháp thông tin và kiểm tra về chi phí trực tiếp và gián tiếp cho từng loại hoạt động, từng loại tài sản như: tài sản cố định, hàng hoá, vật tư, sản phẩm và lao vụ…

Chứng từ kế toán là phương pháp thông tin và kiểm tra sự hình thành các nghiệp vụ kinh tế: mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh đều phải lập các chứng từ là giấy tờ hoặc vật chứa đựng thông tin, làm bằng chứng xác nhận sự phát sinh và hoàn thành của các nghiệp vụ kinh tế. Đây là căn cứ pháp lý cho việc bảo vệ tài sản và xác minh tính hợp pháp trong việc giải quyết các mối quan hệ kinh tế pháp lý thuộc đối tượng hạch toán kế toán, kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh.

Bạn đang xem: Phương pháp kế toán là gì và các phương pháp kế toán cơ bản?

Là phương pháp thông tin và kiểm tra quá trình vận động của mỗi loại tài sản, nguồn vốn và quá trình kinh doanh theo mối quan hệ biện chứng được phản ánh vào trong mỗi nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Phương pháp đối ứng tài khoản được hình thành bởi cặp phương pháp tài khoản và ghi sổ kép.

Là phương pháp khái quát tình hình tài sản, nguồn vốn và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị hạch toán qua từng thời kỳ nhất định bằng cách lập các báo cáo có tính tổng hợp và cân đối như: bảng cân đối kế toán; báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh; báo cáo lưu chuyển tiền tệ…

⇒ Tóm lại, hệ thống phương pháp kế toán bao gồm 4 phương pháp : phương pháp tính giá, phương pháp chứng từ kế toán, phương pháp tài khoản kế toán và phương pháp tổng hợp cân đối kế toán, mỗi phương pháp độc lập một cách tương đối nhưng lại nằm trong những mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Nếu thiếu bất kỳ phương pháp nào kế toán đều không thể thực hiện được nhiệm vụ và mục đích cung cấp thông tin của mình:

+ Xuất phát từ mục đích của kế toán là cung cấp thông tin cho xây dựng được các báo cáo tài chính tổng quát cung cấp thông tin cho việc ra quyết định, kế toán cần vận dụng phương pháp tổng hợp cân đối kế toán.

+ Để có số liệu tổng hợp cho báo cáo tài chính, kế toán phải ghi nhận sự vận động của vốn kinh doanh vào tài khoản và sổ sách kế toán theo các mối quan hệ đối ứng sẵn có của chúng, vậy kế toán phải sử dụng phương pháp đối ứng tài khoản.

+ Để xác định được giá trị vốn kinh doanh và giá trị các giao dịch ảnh hưởng đến vốn của đơn vị, kế toán phải sử dụng phương pháp tính giá.

+ Để tiến hành tính giá, kế toán phải có những bằng chứng xác thực để chứng minh cho các giao dịch hoàn thành, vậy kế toán phải sử dụng phương pháp chứng từ kế toán.

Một số nguyên tắc khi lập bảng cân đối kế toán đối với những DN có chu kỳ kinh doanh trong vòng 12 tháng

Tài sản và Nợ phải trả được phân thành ngắn hạn và dài hạn theo điều kiện sau

– Tài sản và Nợ phải trả được thu hồi hay thanh toán trong vòng 12 tháng tới kể từ ngày kết thúc kỳ kế toán năm, được xếp vào lọai ngắn hạn.

– Tài sản và Nợ phải trả được thu hồi hay thanh toán từ trên 12 tháng tới trở lên kể từ ngày kết thúc kỳ kế toán năm, được xếp vào lọai dài hạn.