Top 10 # Sự Khác Biệt Giữa Kinh Tế Vi Mô Và Vĩ Mô Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Sansangdethanhcong.com

Sự Khác Biệt Giữa Kinh Tế Vi Mô Và Vĩ Mô

Kinh tế vi mô là nghiên cứu về một hành vi kinh tế của một cá nhân, công ty hoặc hộ gia đình cụ thể, tức là nó nghiên cứu một đơn vị cụ thể. Mặt khác, kinh tế vĩ mô là nghiên cứu về toàn bộ nền kinh tế, không phải là một đơn vị đơn lẻ mà là sự kết hợp của tất cả, các công ty, hộ gia đình, quốc gia, v.v.

“Kinh tế” được định nghĩa là nghiên cứu về cách con người làm việc cùng nhau để chuyển đổi các nguồn lực hạn chế thành hàng hóa và dịch vụ để đáp ứng mong muốn của họ (không giới hạn) và cách họ phân phối giống nhau. Kinh tế học đã được chia thành hai phần rộng là Kinh tế vi mô và Kinh tế vĩ mô. Ở đây, trong bài viết đã cho, chúng tôi đã chia nhỏ khái niệm và tất cả những khác biệt quan trọng giữa kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô, ở dạng bảng, có một cái nhìn.

Nội dung: Kinh tế vi mô Vs Kinh tế vĩ mô

Biểu đồ so sánh

Định nghĩa kinh tế vi mô

Ví dụ : Nhu cầu cá nhân, Giá của sản phẩm, v.v.

Định nghĩa kinh tế vĩ mô

Kinh tế vĩ mô là nhánh của kinh tế học tập trung vào hành vi và hiệu suất của các biến tổng hợp và những vấn đề ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Nó bao gồm các nền kinh tế khu vực, quốc gia và quốc tế và bao gồm các lĩnh vực chính của nền kinh tế như thất nghiệp, nghèo đói, mức giá chung, GDP (Tổng sản phẩm quốc nội), xuất nhập khẩu, tăng trưởng kinh tế, toàn cầu hóa, chính sách tài chính / tiền tệ, v.v. trong việc giải quyết các vấn đề khác nhau của nền kinh tế, từ đó cho phép nó hoạt động hiệu quả.

Ví dụ : Tổng cầu, Thu nhập quốc dân, v.v.

Sự khác biệt chính giữa Kinh tế vi mô và vĩ mô

Kinh tế học vi mô nghiên cứu phân khúc thị trường cụ thể của nền kinh tế, trong khi Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu toàn bộ nền kinh tế, bao gồm một số phân khúc thị trường.

Kinh tế vi mô nhấn mạnh vào các đơn vị kinh tế cá nhân. Đối với điều này, trọng tâm của kinh tế vĩ mô là các biến kinh tế tổng hợp.

Trong khi kinh tế vi mô được áp dụng cho các vấn đề vận hành hoặc nội bộ, các vấn đề môi trường và bên ngoài là mối quan tâm của kinh tế vĩ mô.

Kinh tế học vi mô bao gồm các vấn đề như giá của một loại hàng hóa cụ thể sẽ ảnh hưởng đến lượng cầu và lượng cung của nó như thế nào và ngược lại trong khi Kinh tế vĩ mô bao gồm các vấn đề lớn của nền kinh tế như thất nghiệp, chính sách tiền tệ / tài chính, nghèo đói, thương mại quốc tế, v.v.

Kinh tế vi mô xác định giá của một loại hàng hóa cụ thể cùng với giá của hàng hóa bổ sung và hàng hóa thay thế, trong khi Kinh tế vĩ mô rất hữu ích trong việc duy trì mức giá chung.

Trong khi phân tích bất kỳ nền kinh tế nào, kinh tế vi mô có cách tiếp cận từ dưới lên, trong khi kinh tế vĩ mô có cách tiếp cận từ trên xuống được xem xét.

Video: Kinh tế vi mô Vs Kinh tế vĩ mô

Kinh tế vi mô

Ưu điểm:

Nó giúp xác định giá của một sản phẩm cụ thể và giá của các yếu tố sản xuất khác nhau, ví dụ như đất đai, lao động, vốn, tổ chức và doanh nhân.

Nó dựa trên nền kinh tế doanh nghiệp tự do, có nghĩa là doanh nghiệp độc lập để đưa ra quyết định.

Nhược điểm:

Giả định về việc làm đầy đủ là hoàn toàn không thực tế.

Nó chỉ phân tích một phần nhỏ của nền kinh tế trong khi một phần lớn hơn không bị ảnh hưởng.

Kinh tế vĩ mô

Ưu điểm:

Nó rất hữu ích trong việc xác định cán cân thanh toán cùng với các nguyên nhân thâm hụt và thặng dư của nó.

Nhược điểm:

Phân tích của nó nói rằng các tập hợp là đồng nhất, nhưng nó không phải như vậy bởi vì đôi khi chúng không đồng nhất.

Nó chỉ bao gồm các biến tổng hợp tránh được phúc lợi của cá nhân.

Điểm tương đồng

Vì kinh tế vi mô tập trung vào việc phân bổ các nguồn lực hạn chế giữa các cá nhân, nên kinh tế vĩ mô kiểm tra xem việc phân phối các nguồn lực hạn chế được thực hiện như thế nào giữa nhiều người, để nó sử dụng tốt nhất các nguồn lực khan hiếm. Khi nghiên cứu kinh tế vi mô về các đơn vị riêng lẻ, đồng thời, kinh tế học vĩ mô nghiên cứu về các biến tổng hợp. Theo cách này, chúng ta có thể nói rằng chúng phụ thuộc lẫn nhau.

Phần kết luận

Kinh tế vi mô và vĩ mô không mâu thuẫn trong tự nhiên, trên thực tế, chúng là bổ sung. Vì mỗi đồng tiền đều có hai khía cạnh – kinh tế vi mô và vĩ mô cũng là hai khía cạnh của cùng một đồng tiền, trong đó, một trong những đồng tiền khác là công đức và theo cách này chúng bao trùm toàn bộ nền kinh tế. Điều quan trọng duy nhất làm cho chúng khác biệt là khu vực ứng dụng.

Sự Khác Biệt Giữa Kinh Tế Vi Mô Và Vĩ Mô?

Kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô là hai nhánh lớn trong ngành kinh tế học. Cho nên, trước tiên bạn phải hiểu khái niệm kinh tế học là gì?

Trên Wikipedia cũng có giải thích những khái niệm này nhưng đúng như bạn nói, mình cũng thấy nó khá trừu tượng, vì vậy mình sẽ bắt đầu bằng những câu hỏi như:

Tại sao một số nước lại giàu có và một số nước lại lạc hậu chậm phát triển?

Chúng ta nên làm thế nào để giảm thiểu số lượng người thất nghiệp?

Nguyên nhân nào tạo nên sự suy thóa kinh tế hay lạm phát?

Tại sao đa số mức thu nhập của phụ nữ lại ít hơn đàn ông?

Chúng ta có nên tăng giảm mức thuế đối với mặt hàng này hay không?

Có cả tấn câu hỏi như vậy đang diễn ra hàng ngày và kinh tế học sẽ giúp chúng ta giải quyết những câu hỏi đó. Cho nên, đi đến khái niệm chung giống như trên Wikipedia là: Kinh tế học là khoa học của sự lựa chọn, nó giúp con người đưa ra quyết định về sự lựa chọn. Khi bạn nhìn một cách tổng quan, kinh tế học sẽ dựa trên thống kê (phương pháp định lượng) hay tâm lý học (phương pháp định tính). Tức là bạn đưa ra quyết định dựa trên dữ liệu cụ thể hoặc dựa trên cảm tính.

Trở lại câu hỏi của bạn, có hai từ hán việt quan trọng đó là vi (trong trường hợp này là nhỏ) và vĩ (trong trường hợp này là lớn), do đó, điểm khác nhau duy nhất ở đây đó chính là đối tượng nghiên cứu, chúng ta có:

Kinh tế vi mô nghiên cứu cách thức hoạt động kinh tế của từng cá nhân, gia đình hay nhà máy cụ thể:

Nó giải quyết các vấn đề về cung, cầu, giá cả hàng hóa, phúc lợi kinh tế, sự sản xuất, sự tiêu dùng.

Nó giúp đưa ra giá cả của một sản phẩm dựa trên các yếu tố tác động xung quanh như vị trí địa lý, thành phố, … trong một đất nước. Ví dụ cùng một sản phẩm nhưng nếu bạn bán ở hai nơi khác nhau thì giá cả sẽ khác nhau.

Kinh tế vĩ mô nghiên cứu cách thức hoạt động của toàn bộ nền kinh tế (bao gồm trong nước và quốc tế):

Nó giải quyết các vấn đề về thu nhập quốc gia, giá trị đồng tiền, phân phối hàng hóa, nguồn nhân lực, …v.v.

Giữ nền kinh tế đất nước ổn định bằng cách giải quyết các vấn đề về lạm phát, giảm phát, thất nghiệp, hệ thống tiền tệ, …v.v.

Có rất nhiều thuật ngữ chuyên ngành kinh tế học bạn có thể tìm hiểu thêm để hiểu rõ hơn. Hy vọng sẽ giúp ích được cho bạn.

Kinh Tế Học Vi Mô Và Kinh Tế Học Vĩ Mô

Kết quả

Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô:

Với cách hiểu như vậy, có thể nói, kinh tế học quan tâm đến các lựa chọn kinh tế (và các hậu quả của chúng) trong phạm vi xã hội nói chung. Tuy nhiên, khi đối tượng nghiên cứu của kinh tế học được giới hạn lại trong một lĩnh vực cụ thể, xác định nào đó, nó phát triển thành các môn kinh tế học cụ thể như: kinh tế học tiền tệ – ngân hàng, kinh tế học môi trường, kinh tế học nhân lực hay kinh tế học công cộng v.v…Chẳng hạn, kinh tế học công cộng chính là môn khoa học ứng dụng các nguyên lý kinh tế học vào việc xem xét, phân tích hoạt động của khu vực công cộng. Các môn kinh tế học cụ thể có thể được xem như những nhánh khác nhau của kinh tế học. Song, khác với việc rẽ nhánh sâu vào các lĩnh vực cụ thể của đối tượng nghiên cứu, ở phạm vi rộng hơn, kinh tế học bao gồm hai phân nhánh chính: kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô.

Kinh tế học vi mô: Kinh tế học vi mô tập trung nghiên cứu các hành vi của các cá nhân (những người sản xuất và người tiêu dùng) trên từng thị trường hàng hóa riêng biệt. Nền kinh tế được hợp thành từ nhiều thị trường hàng hoá khác nhau (các thị trường: vải vóc, quần áo, ô tô, gạo, máy móc, lao động v.v…). Khi nghiên cứu về các lựa chọn kinh tế, kinh tế học vi mô xem xét những lựa chọn này trong khuôn cảnh của một thị trường cụ thể nào đó. Nói chung, nó tạm thời bỏ qua những tác động xuất phát từ các thị trường khác. Nó giả định các đại lượng kinh tế chung của nền kinh tế như mức giá chung, tỷ lệ thất nghiệp v.v… như là những biến số đã xác định. Hướng vào từng thị trường cụ thể, nó xem xét xem những cá nhân như người tiêu dùng, nhà kinh doanh (hay doanh nghiệp), nhà đầu tư, người có tiền tiết kiệm, người lao động v.v… lựa chọn các quyết định như thế nào? Nó quan tâm xem sự tương tác lẫn nhau giữa những người này, trên một thị trường riêng biệt nào đó, diễn ra như thế nào và tạo ra những kết cục gì? Chẳng hạn, khi phân tích về thị trường vải, nhà kinh tế học vi mô sẽ quan tâm đến những vấn đề như: những yếu tố nào chi phối các quyết định của những người tiêu dùng vải? Nhu cầu về vải của mỗi cá nhân và của cả thị trường được hình thành như thế nào và biến động ra sao? Người sản xuất vải sẽ lựa chọn các quyết định như thế nào khi đối diện với các vấn đề như: số lượng công nhân cần thuê? lượng máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu cần đầu tư, mua sắm? sản lượng vải nên sản xuất? Khi những người tiêu dùng và người sản xuất vải tham gia và tương tác với nhau trên thị trường thì sản lượng và giá cả vải sẽ hình thành và biến động như thế nào? Thật ra, các biến số giá cả và sản lượng thường quan hệ chặt chẽ với nhau. Giá cả thị trường của một loại hàng hoá một mặt, được hình thành như là kết quả tương tác lẫn nhau của nhiều người tham gia vào các giao dịch thị trường (những người tiêu dùng với nhau, những người sản xuất với nhau và khối những người tiêu dùng và khối những người sản xuất với nhau); mặt khác, lại ảnh hưởng trở lại đến các quyết định của những người này. Vì thế, lý thuyết kinh tế học vi mô đôi khi còn được gọi là lý thuyết giá cả.

Kinh tế học vĩ mô: Kinh tế học vĩ mô tập trung xem xét nền kinh tế như một tổng thể thống nhất. Nó không nhìn nền kinh tế thông qua cái nhìn về từng thị trường hàng hoá cụ thể cũng giống như trường hợp người họa sỹ nhìn một cánh rừng một cách tổng thể thường không để mắt một cách chi tiết đến từng cái cây. Người hoạ sỹ có thể vẽ một cánh rừng mà không nhất thiết phải thể hiện chi tiết những cái cây trong đó.

Khi phân tích những lựa chọn kinh tế của xã hội, kinh tế học vĩ mô quan tâm đến đại lượng hay biến số tổng hợp của cả nền kinh tế. Cũng là phân tích về giá cả, song nó không quan tâm đến những biến động của từng loại giá cụ thể như giá vải, giá lương thực, mà là chú tâm vào sự dao động của mức giá chung. Cần có những kỹ thuật tính toán để có thể quy các mức giá cụ thể của những hàng hoá riêng biệt về mức giá chung của cả nền kinh tế, song đó là hai loại biến số hoàn toàn khác nhau. Sự thay đổi trong mức giá chung được thể hiện bằng tỷ lệ lạm phát. Đo lường tỷ lệ lạm phát, giải thích nguyên nhân làm cho lạm phát là cao hay thấp, khảo cứu hậu quả của lạm phát đối với nền kinh tế cũng như các khả năng phản ứng chính sách từ phía nhà nước v.v… là góc nhìn của kinh tế học vĩ mô về giá cả. Cũng có thể nói như vậy về biến số sản lượng. Khi chỉ quan tâm đến sản lượng của các hàng hoá cụ thể, nghĩa là ta vẫn đang nhìn sản lượng dưới góc nhìn của kinh tế học vi mô. Kinh tế học vĩ mô không chú tâm vào sản lượng của các hàng hoá cụ thể như vải hay lương thực mà quan tâm đến tổng sản lượng của cả nền kinh tế. Tổng sản lượng đó được hình thành như thế nào, do những yếu tố nào quy định, biến động ra sao? Những chính sách nào có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dài hạn (hay sự gia tăng liên tục của tổng sản lượng)? v.v… Đó là những câu hỏi mà kinh tế học vĩ mô cần giải đáp.

Kinh tế học vĩ mô cũng có thể chia nền kinh tế thành những cấu thành bộ phận để khảo cứu, phân tích. Song khác với kinh tế học vi mô, các bộ phận cấu thành này vẫn mang tính tổng thể của cả nền kinh tế. Ví dụ, nó xem các kết quả vĩ mô như là sản phẩm của sự tương tác giữa thị trường hàng hoá, thị trường tiền tệ, thị trường lao động. Tuy nhiên, ở đây các thị trường trên đều được xem xét như là các thị trường chung, có tính chất tổng hợp của toàn bộ nền kinh tế.

Như vậy, kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô thể hiện các cách nhìn hay tiếp cận khác nhau về đối tượng nghiên cứu. Chúng là hai phân nhánh khác nhau của kinh tế học, song có quan hệ chặt chẽ với nhau. Những tri thức kinh tế học vi mô là nền tảng của các hiểu biết về nền kinh tế vĩ mô. Để có những hiểu biết về thị trường lao động chung hay tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế, người ta cần phải nắm được cách lựa chọn hay phản ứng của người la o động và doanh nghiệp điển hình trên một thị

trường lao động cụ thể.

PGS.TS. Phí Mạnh Hồng (Quantri.vn biên tập và hệ thống hóa)

Kinh Tế Học Vi Mô

Cùng với Kinh tế học vĩ mô, Kinh tế học vi mô được coi là một phân ngành quan trọng nhất cung cấp các kiến thức nền tảng cho những ai muốn hiểu về sự vận hành của nền kinh tế thị trường. Khác với Kinh tế vĩ mô nghiên cứu nền kinh tế như một tổng thể, Kinh tế vi mô tập trung vào việc phân tích các hành vi của các chủ thể kinh tế như người sản xuất, người tiêu dùng, thậm chí là chính phủ trên từng thị trường riêng biệt. Những tương tác khác nhau của các chủ thể này tạo ra những kết cục chung trên các thị trường cũng như xu hướng biến động của chúng.

Hiểu được cách mà một thị trường hoạt động như thế nào và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các thị trường, trên thực tế là cơ sở để hiểu được sự vận hành của cả nền kinh tế, cắt nghĩa được các hiện tượng kinh tế xảy ra trong đời sống thực, miễn đây là nền kinh tế dựa trên những nguyên tắc thị trường. Đây là điểm xuất phát cực kỳ quan trọng để để mỗi cá nhân, tổ chức cũng như chính phủ có thể dựa vào để đưa ra những ứng xử thích hợp nhằm thích nghi và cải thiện trạng huống kinh tế.

Phần I: tập trung trình bày về mô hình cung – cầu như là một mô hình cơ bản để tư duy về sự vận hành của một thị trường.

Phần II: đề cập đến mô hình về sự lựa chọn của người tiêu dung nhằm vạch ra những gì ẩn giấu đằng sau đường cầu của thị trường. Sự lựa chọn của doanh nghiệp trên thị trường đầu ra (giúp người ta hiểu những gì nằm đằng sau đường cung) được phân tích trong các phần 3, 4, 5; trong đó Phần III: được dành để trình bày những nguyên tắc chung trước khi việc áp dụng chúng trong các cấu trúc thị trường cụ thể được phát triển ở các phần sau.

Phần cuối cùng như là sự tổng kết bước đầu về cơ chế phân bổ nguồn lực theo nguyên tắc thị trường. Bên cạnh những ưu thế rõ rệt của cơ chế này, các thất bại thị trường được xem như cơ sở của các hoạt động kinh tế của Nhà nước.

Sự khan hiếm là việc xã hội với các nguồn lực hữu hạn không thể thỏa mãn tất cả các nhu cầu vô hạn và ngày càng tăng của con người.

Do nguồn lực có giới hạn, mỗi người mua hoặc bán đều phải tính toán lựa chọn cho mình một phương án tiêu dùng tối ưu hoặc phương án tổ chức sản xuất kinh doanh tối ưu.

Giúp bạn lý giải được những hiện tượng diễn ra trong cuộc sống hàng ngày như tại sao ngày lễ người ta lại đi du lịch nhiều? Tại sao trái cây cứ đến mùa lại hạ giá?…

II. Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu của kinh tế vi mô

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của kinh tếhọc vi mô là hành vi và cách thức ra quyết định của 3 thành viên của nền kinh tế(người sản xuất,hộ gia đình và chính phủ).

2.2. Nội dung nghiên cứu

Cầu và cung trên thị trường;

Hệ số co giãn và ý nghĩa của các loại co giãn đó;

Lý thuyết hành vi người tiêu dùng;

Lý thuyết hành vi người sản xuất;

Thị trường cạnh tranh và độc quyền;

Thị trường sức lao động;

Sự trục trặc của kinh tế thị trường và vai trò điều tiết của Chính phủ.

2.3. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp mô hình hóa: Để nghiên cứu kinh tế học, các giả thiết kinh tế được thành lập và kiểm chứng bằng thực nghiệm. Nếu các phép thử được thực hiện lặp đi lặp lại nhiều lần đều cho kết quả thực nghiệm đúng như giả thiết thì giả thiết được coi là lý thuyết kinh tế.

Phương pháp so sánh tĩnh: Ceteris Paribus là thuật ngữ được sử dụng thường xuyên trong kinh tế học, có nghĩa là giả định các nhân tố khác không đổi. Các giả thuyết kinh tế về mối quan hệ giữa các biến phải đi kèm với giả định Ceteris Paribus trong mô hình.

Phương pháp phân tích cận biên: Đây là phương pháp đặc thù của kinh tế học vi mô, còn gọi là phương pháp tối ưu hóa, hay phương pháp phân tích lợi ích -chi phí.

III. Một số khái niệm cơ bản

Sự khan hiếm (Scarcity): Khan hiếm tồn tại khi nhu cầu vượt quá khả năng sẵn có về tài nguyên để thỏa mãn nhu cầu đó. (Khi nhu cầu lớn hơn khả năng đáp ứng sẽ dẫn tới sự khan hiếm).

Sự khan hiếm mang tính quy luật: Nhu cầu của con người là vô hạn nhưng khả năng đáp ứng là có hạn.

Người tiêu dùng khan hiếm về tiền bạc, người sản xuất khan hiếm về nguồn lực, mọi người khan hiếm về thời gian.

Nguồn lực (resources) là các yếu tố đầu vào được sử dụng để sản xuất ra hàng hóa phục vụ nhu cầu của con người, bao gồm: Đất đai, Lao động, vốn, Khả năng kinh doanh của doanh nghiệp.

Hàng hóa: Là những sản phẩm, phương tiện, công cụ thỏa mãn nhu cầu của con người. Chúng ta có các loại hàng hóa vô hình, hữu hình.

IV. Kinh tế vi mô – Nền tảng cho các chuyên ngành của kinh tế học

Kinh tế học vi mô là nền tảng cho nhiều chuyên ngành của kinh tế học. Chủ nghĩa kinh tế tự do mới phát triển các lý luận kinh tế học vĩ mô của mình trên cơ sở kinh tế học vi mô. Ngay cả chủ nghĩa Keynes gần đây (phái kinh tế học Keynes mới) cũng đi tìm các cơ sở kinh tế học vi mô cho lý luận kinh tế học vĩ mô của chủ nghĩa này. Trên cơ sở kinh tế học vĩ mô, nhiều chuyên ngành khác trong đó có tài chính quốc tế, kinh tế học phát triển được phát triển. Kinh tế học vi mô còn làm nền tảng trực tiếp cho các môn như kinh tế học công cộng, kinh tế học phúc lợi, thương mại quốc tế, lý thuyết tổ chức ngành, địa lý kinh tế, v.v… Cùng với kinh tế vi mô là hai trụ cột của khoa học kinh tế.