Top 11 # Sự Khác Biệt Giữa Văn Hóa Việt Nam Và Mỹ Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Sansangdethanhcong.com

Sự Khác Biệt Giữa Văn Hóa Phương Tây Và Việt Nam

Sự đối lập văn hóa ngàn đời giữa Đông và Tây vẫn rất rõ ràng trong nội tại, chỉ là vì chúng ta lướt qua chúng quá nhanh và không để ý đến những điều đó. Chỉ khi bước chân ra khỏi đất nước hình chữ S này thì chúng ta mới bỡ ngỡ nhận ra sự khác biệt mà bấy lâu nay vô tình bị lãng quên.

Việt Nam nằm ngay vùng trung tâm hàng hải và giao thương kinh tế giữa Ấn ĐộDương và Thái Bình Dương, đâylà một trong những nguyên nhân chính khiến Việt Namcàng trở nên hội nhập với các quốc gia khác với những nền văn hóa đa dạng. Tại những trung tâm du lịch, tài chính, văn hóa như Sài Gòn, , Đà Nẵng hay Nha Trang thì chúng ta khó có thể thấy được sự khác biệt trong văn hóa giữa người bản địa cũng như du khách vì dường như quá trình giao thoa văn hóa diễn ra từng ngày khiến chúng trở nên quá quen thuộc. Tuy nhiên, sự đối lập văn hóa ngàn đời giữa Đông và Tây vẫn rất rõ ràng trong nội tại, chỉ là vì chúng ta lướt qua chúng quá nhanh và không để ý đến những điều đó. Chỉ khi bước chân ra khỏi đất nước hình chữ S này thì chúng ta mới bỡ ngỡ nhận ra sự khác biệt mà bấy lâu nay vô tình bị lãng quên. Do đó, việc tìm hiểu sự khác biệt văn hóa rất quan trọng, giúp chúng ta có thể sẵn sàng tinh thần với những cú shock văn hóa.

Bài viết sau đây của ELLE MAN là danh sách liệt kê những sự khác nhau cơ bản giữa văn hóa phương Tây và Việt Nam trong cuộc sống hàng ngày.

1. Chuyện tình cảm yêu đương và gia đình:

Phương Tây: Nam, nữ nắm tay nhau hoặc hôn nhau tại chốn công cộng là chuyện hoàn toàn bình thường. Những người xung quanh cũng chẳng hề bận tâm về chuyện đó.

Thậm chí đối với những người là bạn bè thân lâu năm, đàn ông hay đàn bà vẫn có thể dành cho nhau những cái nắm tay, khoác lên vai nhau hoặc trao cho nhau những nụ hôn phớt lên má hoặc cả lên môi.

Trong một gia đình, vợ chồng trao nhau những cái ôm hoặc những chiếc hôn trước mặt lũ trẻ một cách rất vô tư và những đứa trẻ thích nhìn bố mẹ chúng làm vậy. Bố mẹ cũng rất thương xuyên trao những nụ hôn cho con trẻ, họ xem đó là sự biểu hiện tình cảm yêu thương và con cái cũng như những người bạn thân.

Việt Nam: Thường thì ta ít thấy những cặp đôi hôn nhau tại chốn công cộng trừ thế hệ trẻ ngày nay, những người có cái nhìn thoáng hơn trong chuyện yêu đương. Tuy nhiên, họ sẽ nhận được những cái nhìn “ái ngại” từ người lớn xung quanh.

Đối với bạn bè, việc đụng chạm thân thể nhau là cực kì hạn chế dù là những người bạn thân lâu năm, bởi không khéo sẽ đưa cả 2 từ friendzone chuyển sang love affair tự lúc nào không hay.

Vợ chồng cũng ít khi hôn nhau trước mặt con cái, mà họ thường làm chuyện ấy khi không có ai như cái thuở trốn ông bà để cùng nhau đi hẹn hò. Những người bố thườngít khi hôn con trẻ, họ rất yêu thương chúngnhưng cách thể hiện thường đôi khi “ít gần gũi” hơn người phương Tây.

2. Tiệc tùng và lễ hội:

Phương Tây: Giáng sinh và Tết Dương lịch là những ngày lễ quan trọng nhất trong một năm. Họ thường đi nghỉ lễ xa nhà hoặc chỉ quây quần cùng nhau.

Đối với một người châu Âu, sinh nhật và đám cưới là những dịp quan trọng nhất trong đời. Tại sinh nhật, người thân sẽ tụ tập ca hát, nhảy múa, tặng quà và ăn tiệc nhẹ. Trong đám cưới, người phương Tây thường tổ chức tiệc ngồi lẫn buffet, nhưng họ thường ăn nhẹ, ca hát và nhận quà tặng từ người thân và bạn bè. Ít khi nhận tiền mừng, trừ một số vùng văn hóa đặc biệt như Sicily của Ý.

Việt Nam: Tết Âm lịch là dịp lễ hội quan trọng nhất trong một năm. Là dịp để mọi người xa xứ tụ họp về quê hương, quây quần bên nhau bên mâm cỗ gia đình và bái cúng tổ tiên.

Người Việt Nam tổ chức đám giỗ lớn hơn cả sinh nhật, đây là dịp để họ hàng cùng họp mặt nhau trong mâm cơm. Họ bàn về những kí ức xưa của người đã khuất, những điều tốt đẹp về họ. Đối với đám cưới, người Việt Nam cũng tổ chức rất cầu kì, bao gồm nhiều công đoạn tùy vào từng địa phương nhưng thường sẽ có Lễ Đám Hỏi trước Lễ Đính Hôn, là ngày để gia đình họ trai bưng mâm quả qua nhà gái để hỏi cưới. Họ tổ chức tiệc cưới khá long trọng và người đi dự đám cưới thường phải biếu tiền mừng.

3. Ăn uống

Phương Tây: Người phương Tây, điển hình là người Mỹ, không dành quá nhiều thời gian cho việc nấu nướng thường nhật, trừ khi họ là một đầu bếp hoặc một người sành ăn. Họ thường có thói quen mua dự trữ lương thực cho cả một tuần do tính chất cuộc sống, công việc hối hả và bận rộn. Đa phần theo Cơ Đốc giáo nên họ thường sẽ cầu nguyện tạ ơn Thiên Chúa trước khi ăn (không khác biệt lắm so với những người Việt Nam theo Cơ Đốc giáo).

Cách chế biến món ăn cũng rất khác người châu Á, điển hình là Việt Nam, với thức ăn không quá dậy mùi gia vị và không hề cay, ngoại trừ những nền ẩm thực chú trọng gia vị sau chế biến như Hy Lạp, Ý hay Pháp.

Dao, muỗng, nĩa là những vật dụng thường thấy trên bàn ăn, thức ăn thường là thực phẩm khô nguội và súp thì được đựng trong dĩa. Người Mỹ chỉ có một bữa ăn chính là ăn chiều, khi các thành viên trong gia đình quây quần cùng nhau. Thức ăn được chia đều cho mọi thành viên gia đình, và khi ăn họ thường không gây nên tiếng sột soạt (lý do vì sao, tôi sẽ giải thích sau).

Việt Nam: Người Việt chúng ta dành rất nhiều thời gian để chế biến và nấu nướng bởi tính chất ẩm thực Việt Nam khá cầu kì với muôn vàncác loại gia vị. Họ thường mua sắm lương thực hàng ngày tại những khu chợ truyền thống hay trong siêu thị bởi tính chất của ẩm thực Á Đông là nền ẩm thực tươi ngon và nóng hổi khi chế biến, nên sẽ không phù hợp lắm khi dự trữ thức ăn cho cả tuần.

Cách chế biến thức ăn của Việt Nam khá nồng mùi gia vị và rất cay, đây cũng chính là đặc điểm chung của nền ẩm thực Đông Nam Á và Đông Bắc Á.

Người Việt thường ăn bằng đũa và muỗng, thức ăn được đặt trong đĩa và tô, đặt chung trên mâm cơm và mọi người gắp vào chén (bát) của mình để ăn, canh (súp) thường được đặt giữa mâm cơm. Lý giải cho điều này chính là văn hóa cộng đồng trong cách ăn ở và sinh hoạt có từ ngàn năm trước. Trước khi ăn, các hậu bối(người nhỏ tuổi) phải mời các trưởng bối trong gia đình xơi (ăn) cơm rồi mới đượcđụng đũa. Khi ăn một món ăn ngon, đặc biệt là canh hay những món nước, thường thì họ gây ra tiếng sột soạt khi húp.

Tôi sẽ lý giải một chút ở phần này, do bị ảnh hưởng quá nhiều của văn hóa Tây phương mà ngày nay nhiều người xem việc ăn ra tiếng là bất lịch sự và mất vệ sinh. Điều này đúng mà cũng không đúng, vì sao? Bởi đặc tínhcủa cả 2 nền ẩm thực là hoàn toàn khác nhau, thức ăn phương Tây vốn dĩ lấy lúa mạch làm nền tảng nên trên bàn ăn sẽ thường xuất hiện bánh mì cùng nhiều loại thức ăn khô nguội, việc ăn không gây tiếng động là điều hiển nhiên; còn ẩm thực Việt Nam thường rất cay nồng và chỉ thực sự ngon khi được dùng ngay lúc nóng, điều này tạo ra cử động chóp chép và hít hà khi ăn để làm dịu thức ăn trong miệng. Cũng giống như người Nhật và Hàn Quốc, khi được gia chủ mời dùng bữa, việc gây tiếng động sột soạt sẽ tạo cho họ cảm giác vui vẻ vì chứng tỏ họ nấu ăn ngon.

Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là cổ súy việc ăn uống gây quá nhiều tiếng động và vương vãi lung tung, như vậy thật sự là bất lịch sự và không vệ sinh.

4. Cung cách chào hỏi

Phương Tây: Trong cách chào hỏi, người phương Tây có xu hướng bình đẳng giới nên bắt tay giữa 2 người khác giới là điều rất bình thường. Đối với những người bạn, họ thường trao nhau những nụ hôn lên má hoặc hôn phớt trên môi khi chào hỏi lúc gặp mặt hoặc chia tay.

Họthường vẫy tay chào hỏingười khác kể cả với người lớn hơn, và việc vỗ nhẹ vào lưng từ đằng sau để chào hỏi đối với những người thân quen là điều hoàn toàn bình thường. Khi trở về nhà hoặc viếng thăm nhà bạn bè, người phương Tâythường chào hỏi bất cứ thành viên nào trong gia đình mà họ gặp đầu tiên.

Việt Nam: Rất ít khi thấy những người khác giới bắt tay nhau, đàn ông Việt thường không chủ động bắt tay với người lớn tuổi hơn hay với phụ nữ mà sẽ đợi hành động đó từ họ. Khi bắt tay, họ chỉ nắm vừa đủ và không quá lâu,dùng cả hai tay và cúi đầu chào để thể hiện sự kính trọng với người lớn tuổi hơn. Phụ nữ thường không bao giờ bắt tay nhau.

NgườiViệt chẳng bao giờ dành cho nhau những nụ hôn bạn bè, đặc biệt là giữa hai người khác giới, thậm chí đó còn là điều cấm kị đối với những phụ nữ đã có gia đình.

Chỉ có người lớn mới được dùng động tác vẫy tay để kêu trẻ nhỏ, hoặc bạn bè cùng trang lứa kêu lẫn nhau. Việc vỗ nhẹ vào lưng chỉ được chấp nhận đối với bạn bè với nhau, nhưng đối với những người lớn thì điều đó hoàn toàn bị cấm kị, đặc biệt là đàn ông không được làm điều đó với một phụ nữ trưởng thành.Khi vào nhà một gia đình Việt, bạn cần chào hỏi người trưởng tộc hay người lớn tuổi nhất, vào chào từ lớn đến nhỏ.

Bài viết: Đức Nguyễn – Hình ảnh: Sưu tầm

Sự Khác Biệt: Văn Hóa Việt Nam

Dù đều mang nét văn hoá Á Châu nhưng giữa nền văn hoá Việt Nam và Nhật Bản vẫn có những điểm khác biệt nhất định.

Việc hiểu và lý giải được những nét khác biệt đó sẽ phần nào giúp bạn tránh được cú sốc văn hoá cũng như dễ hoà nhập với môi trường sống mới.

Điều đầu tiên dễ nhận thấy nhất là người Nhật thường xuyên sử dụng những lời “cảm ơn”, “xin lỗi”. Điều này gây không ít bất ngờ, thậm chí khó hiểu cho những ai lần đầu tiên đến Nhật. Trong khi người Việt chỉ cảm ơn khi bản thân mình nhận một ân huệ nào đó và xin lỗi khi mình gây ra một điều thực sự phiền toái cho người khác. Thậm chí, việc nói lời cảm ơn không phải xảy ra với mọi đối tượng. Người miền Nam hay nói những lời này hơn là người miền Bắc. Nói thế không có nghĩa là người miền Bắc kém lịch sự, mà theo họ, những lời nói đó mang lại cảm giác ngại ngùng, xa lạ. Những câu nói đó có thể kéo dài khoảng cách giữa họ. Đổi lại họ có cách thể hiện lòng biết ơn cũng như sự hối lỗi của mình theo một cách khác.

Văn hoá Việt Nam và Nhật Bản vẫn có những điểm khác biệt nhất định

Còn ở Nhật thì sao? Người Nhật liên tục sử dụng những câu “cảm ơn”, ” xin lỗi” như một thói quen hàng ngày. Nhiều người Việt không hiểu tại sao người Nhật lại “thích” dùng những từ đó đến thế, bởi có những trường hợp hoàn toàn không cần thiết, có khi còn khá ngược đời. Ví dụ, đang đi trên đường, do không để ý bạn vô tình va phải một người khác. Lúc đó rất có thể bạn sẽ nhận được một câu xin lỗi từ chính người mà bạn vừa va phải. Nếu là ở Việt Nam, người phải xin lỗi chính là bạn. Đó là khác biệt rất lớn.

Để lý giải điều đó, cần đứng trên góc độ văn hoá để nhìn nhận. Nhật Bản là một dân tộc hùng mạnh, ở đó mối quan hệ giữa người với người luôn được coi trọng. Người Nhật sống không phải vì mình mà sống cho người khác, sống cho xã hội. Do vậy mà họ luôn cố gắng duy trì mối quan hệ tốt đẹp với những người xung quanh. Họ không tiếc lời nói của mình miễn sao làm hài lòng đối phương. Trong khi đó người Việt ngày nay luôn trọng cái “tôi”, đề cao bản thân, không thích làm những chuyện gây tổn hại tới danh dự cá nhân. Việc nói xin lỗi, cảm ơn như một sự hạ thấp mình.

Nói vậy không có nghĩa là người Việt không bao giờ nói “cảm ơn”, “xin lỗi”. Ở đây chỉ xét về mức độ cũng như phạm vi đối tượng sử dụng mà thôi.

Cũng với lối tư duy tránh làm mất lòng người khác trên, người Nhật hiếm khi nói “không” với người không thân thiết. Thay vào đó, họ thường nói vòng vo và mong muốn nhận được sự thấu hiểu của đối phương khi giao tiếp. Họ không bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ của mình rõ ràng mà luôn giữ cảm xúc đó ơ một giới hạn rất mơ hồ. Do vậy không phải dễ dàng để biết được liệu đối phương đang nghĩ gì, cảm nhận như thể nào. Ví dụ, khi được rủ đi xem phim mà không thể đi, họ thường thể hiện ý muốn đi nhưng sau đó sẽ đưa ra những lí do khách quan, thậm chí không đưa ra một lý do cụ thể nào hết bằng cách nói lấp lửng. Còn ở Việt Nam, đa số người ta sẽ nói ra vấn đề của mình rằng có việc bận, hoặc thậm chí nói thẳng là không muốn đi vì một lí do nào đó. Đối với tư duy người Việt, nói thẳng ra vấn đề chính là cách minh chứng cho sự thành thật của mình đối với đối phương.

Người Nhật rất đúng giờ – đó là nhận định mà hầu hết người nước ngoài đưa ra khi tiếp xúc với người Nhật, với văn hoá Nhật. Điều này có thể dễ dàng nhận thấy khi đối chiếu lịch trình giờ tàu chạy với điểm thời gian thực tế mà tàu đến ga, hoặc khi sắp xếp một cuộc hẹn với người Nhật và luôn thấy họ đến trước giờ hẹn ít nhất 5 phút. Thói quen đó ăn sâu vào mỗi cá nhân và dần trở thành một quy tắc ngầm, một ý thức cơ bản. Người Nhật luôn tránh làm phiền người khác. Do vậy tới trễ hẹn được coi là hành vi thiếu lịch sự, làm tổn hại tới người khác. Việc đúng giờ là điều nên làm trong mọi tình huống. Vì thế mà ta có thể dễ dàng bắt gặp cảnh tượng nhân viên công ty chạy vội cho kịp giờ làm, cảnh bước chân vội vã trên khắp các đường phố.

Trong khi đó, ý thức tuân thủ nguyên tắc về thời gian ở Việt Nam dường như chưa được đề cao đúng mức. Việc trễ hẹn năm bảy phút là chuyện thường tình. Và cũng chẳng mấy ai phàn nàn về điều đó bởi nó đã ăn sâu vào nếp sống. Và sự cố gắng để thay đổi một hành vi mà cả xã hội chấp nhận dường như không mấy được lưu tâm.

Có thể có những ngoại lệ và nhiều cách lí giải cho những sự khác biệt này. Tuy nhiên dù ở góc độ nào đi nữa thì việc thừa nhận chúng và thay đổi để thích nghi với môi trường sống ở Nhật Bản là điều nên làm.

Sự Khác Biệt Trong Văn Hóa Giao Tiếp Giữa Người Việt Và Người Mỹ

Thực trạng hiện nay, các ứng xử trong giao tiếp dần có tính chất toàn cầu hóa tuy nhiên nét đặc trưng của phong cách giao tiếp ở từng quốc gia vẫn còn là một điều rất thú vị. Cùng xem những sự khác biệt thú vị trong giao tiếp giữa người Việt và người Mỹ

Giao tiếp luôn là một kỹ năng cần có cho sự thành công trong cuộc sống. Kỹ năng giao tiếp tốt làm vững chắc mối quan hệ tương quan giữa con người với nhau đặc biệt là giữa những con người ở các quốc gia khác nhau thì kỹ năng giao tiếp càng đáng được lưu tâm bởi thế giới không chỉ có một nền văn hóa. Thực trạng hiện nay, các ứng xử trong giao tiếp dần có tính chất toàn cầu hóa tuy nhiên nét đặc trưng của phong cách giao tiếp ở từng quốc gia vẫn còn là một điều rất thú vị. Cùng xem những sự khác biệt thú vị trong giao tiếp giữa người Việt và người Mỹ.

1. Chào hỏi và làm quen

Ở Mỹ , người dân thường chào nhau bằng những cử chỉ rất gần gũi như ôm hoặc hôn má tùy theo độ thân mật hoặc trong các mối quan hệ sơ giao và trong việc kinh doanh thì những cái bắt tay luôn là cách chào nhau lịch sự và văn minh nhất.

Trong khi ở Việt Nam – một nước Á Đông khá coi trọng thứ bậc giao tiếp trong xã hội nên cách chào hỏi cũng trở nên phức tạp hơn tùy theo mối quan hệ.

Với người Mỹ tư duy của họ khá thoáng và bạo dạn trong việc bắt đầu các mối quan hệ mới, cởi mở hòa đồng và vui vẻ là điều mà người ta thường ấn tượng nhất khi làm quen với một người Mỹ. Còn với người Việt hiện nay, tuy nhờ sự du nhập của văn hóa nước ngoài mà đã tự do và mạnh mẽ hơn trong việc làm quen nhưng nhìn chung vẫn còn thái độ ngại ngùng và bối rối hơn sơ với sự thoáng đạt trong giao tiếp của người Mỹ.

2. Cách thể hiện ý kiến cá nhân và giải quyết vấn đề trong giao tiếp:

Người Mỹ luôn coi trọng sự thẳng thắn và chính trực trong giao tiếp nói riêng và cách sống nói chung, ở Mỹ, nói dối còn là một điều tội lỗi và xấu xa hơn cả trộm cắp, đồng thời dường như họ cũng tin rằng những người rụt rè và dài dòng không thẳng thắn trong giao tiếp là không đáng tin. Người Mỹ luôn đi thẳng vào vấn đề và trong mọi sự việc họ thường không quan tâm quá trình mà chỉ chú ý đến kết quả.

Người Việt thì vốn đề cao sự khéo léo và mềm mỏng, cẩn trọng trong quá trình giao tiếp, coi trọng sự nhã nhặn đồng thời trong việc giải quyết các vấn đề thường xem trọng quá trình hơn người Mỹ, chấp nhận sự thỏa hiệp và tránh xa các xung đột.

3. Phong cách sống và giao tiếp

Người Mỹ đề cao những gì thuộc về bản thân họ về khả năng cá nhân, cá tính riêng, cái ”tôi” của bản thân là điều mà họ luôn quan tâm và bảo vệ, phong cách sống của người Mỹ bao gồm trong hai từ: tự do và tự lập. Trong giao tiếp người Mỹ thường xem trọng cái tôi của bản thân và thể hiện sự tự tin về chính mình.

Trong phong cách sống, phần lớn người Việt tỏ ra trân trọng cái ”ta”, những giá trị thuộc về cộng đồng và đề cao sự hòa nhập giữa mọi người trong xã hội, phong cách sống cộng đồng, yêu thương và đùm bọc lẫn nhau. Trong giao tiếp, người Việt đề cao sự khiêm tốn và khiêm nhường khi thường tự hạ thấp bản thân để thể hiện mình không quá tự tin hay kiêu ngạo.

4.Thể hiện cảm xúc, xin lỗi và cảm ơn

Nói theo tục ngữ của người Việt thì người Mỹ thể hiện cảm xúc theo kiểu ”ruột để ngoài da” vui buồn đều thể hiện qua gương mặt và câu nói một cách rõ ràng. Trong giao tiếp thường nhật thì việc nói xin lỗi và cảm ơn là một điều thường thấy trong xã hội Mỹ, họ xin lỗi khi chạm phải người khác hay thậm chí là các va chạm giao thông…vv…vv…Ở Mỹ, quan niệm xin lỗi và hành vi để tiến tới hòa giải một cách vui vẻ và là hành vi can đảm, điều này khá khác biệt với đa số người Việt thường xem việc phải xin lỗi là hành động gây tự ái cho bản thân.

Bên cạnh việc nói ”xin lỗi” thì ”cám ơn” cũng là một câu nói phổ thông trong xã hội Mỹ, họ cảm ơn mọi lúc, mọi nơi với mọi hành động tác động tốt đến cuộc sống của họ dù là nhỏ nhặt hay lớn lao để thể hiện sự hài hòa và vui vẻ thường trực, trong khi đó văn hóa người Việt lại đậm chất bí ẩn của Á Đông thường ít bộc lộc cảm xúc ra bên ngoài khi giao tiếp, Phần lớn người Việt thường giữ sự biết ơn lại và cất giấu ở trong lòng mà tiết kiệm hai từ ”cảm ơn”.

5. Cách ứng xử nơi công cộng:

Trong khi người Việt có thói quen thích sự náo nhiệt nên thường vô tâm trong việc ứng xử nơi công cộng thì Người Mỹ rất ghét việc gây ồn ào ở những nơi không riêng tư nhất là những nơi mang tính trang nghiêm như bảo tàng, đài tưởng niệm hay giáo đường, ngay những nơi như nhà hàng hay quán ăn họ vẫn luôn tuân thủ việc ”ăn nhẹ nói khẽ” và khi cần gọi nhân viên phục vụ họ vẫn thường thể hiện sự tinh tế và lịch sự trong giao tiếp khi sử dụng những cử chỉ hoặc ánh mắt để tránh làm phiền những người xung quanh.

Sưu tầm và tổng hợp

Sự Khác Nhau Giữa Văn Hóa Hàn Và Việt

Bên cạnh quốc gia có nền giáo dục xuất sắc trong khu vực châu Á cũng như luôn đứng top trong các nước có đầu tư cao về giáo dục. Hàn Quốc còn là một quốc gia với nền văn hóa vô cùng đa dạng và phong phú. Việc tìm hiểu văn hóa Hàn trước khi đến du học Hàn Quốc không chỉ giúp bạn hiểu hơn về nơi bạn sắp đến mà còn giúp bạn hòa nhập và không bị “sốc văn hóa” trong những tháng ngày ở Hàn Quốc.

Những thói quen hằng ngày

Sự khác nhau giữa văn hóa Hàn và văn hóa Việt thể hiện qua việc vệ sinh răng miệng, người Hàn thường “ngâm” rất lâu bàn chải đánh răng trong miệng, vừa lục sục chải răng vừa làm việc khác như làm tiếp bài tập, dùng điện thoại hay laptop thậm chí là nói chuyện với người khác. Trong khi đó người Việt coi hành động này là mất lịch sự, chỉ nên làm trong phòng vệ sinh và đi ra ngoài khi đã sạch sẽ tươm tất.

Trong khi đi ăn ở ngoài, người Hàn thường order từng món riêng lẻ, ví dụ ăn xong món thịt nướng mới tiếp tục gọi cơm hoặc mì ăn thêm, không ăn kèm 2 món cùng một lúc và thanh toán ngay tại quầy thu ngân. Người Việt thường kêu nhiều món cùng một lúc, ăn kết hợp với nhau, sẽ gọi nhân viên thanh toán tại bàn.

Bữa sáng ở Hàn Quốc được chuẩn bị sẵn ở nhà, cả nhà quay quần cùng một bàn ăn trước khi bắt đầu một ngày làm việc, học tập. Trái lại, người Việt ít ăn sáng ở nhà, thường mua thức ăn ở ngoài hoặc dừng lại một quán ven đường ăn bánh mì, xôi, khoai luộc, phở, bún, cơm sườn, …

Bữa sáng ở Hàn Quốc được chuẩn bị sẵn ở nhà

Vào ngày nghỉ, người Hàn thường hẹn bạn bè, đồng nghiệp ăn uống ở ngoài hoặc tham gia các hoạt động rèn luyện sức khỏe vào cuối tuần như leo núi, đi bộ, chơi goft. Người Việt sẽ dành ngày nghỉ bên cạnh gia đình nhiều hơn.

Ở Hàn Quốc dễ bắt gặp các cụ già thường đi một mình, hoặc hai cụ cùng đi với nhau, các cụ còn thường tụ họp đi chơi với nhau theo nhóm còn Việt Nam các cụ già thường được con cháu đưa đi.

Việt Nam thì thường có vụ tip, tiền bo trong khi Hàn Quốc không có văn hóa tip, bồi dưỡng cho nhân viên dịch vụ đã tính trong giá dịch vụ rồi, người Hàn quan niệm hành động đưa tiền tip cho nhân viên là hành động thiếu tôn trọng và bất lịch sự.

Đặc điểm về con người

Người Hàn khá thẳng thắn, bộc trực, không ôn hòa như người Việt. Họ thường thể hiện cảm xúc nóng giận vui buồn rõ ngoài mặt, người Việt kín đáo, giỏi che giấu cảm xúc và khá điềm tĩnh hơn.

Hầu như tất cả phụ nữ ở Hàn dù còn trẻ hay già đều thích trang điểm, trang điểm thường xuyên. Các cô gái trẻ thì thường muốn cải thiện vẻ đẹp nên chấp nhận phẫu thuật thẩm mỹ đau đớn. Trong khi người Việt đề cao vẻ đẹp tự nhiên, thường trang điểm vào những dịp đặc biệt hoặc chỉ khi đi làm đi học. Đàn ông Hàn thường được đề cao về tiêu chuẩn lịch lãm, ga lăng, điềm đạm, mày râu nhẵn nhụi. Trong khi đàn ông Việt mạnh mẽ, bề ngoài gai góc, thẳng thắng.

Ở Hàn, nhà thường xây với phong cách khá thấp, nhiều phòng nhỏ, còn Việt Nam xây nhà với tiêu chí “nhà cao cửa rộng”. Người Hàn Quốc không tin tưởng tín ngưỡng như ở Việt Nam, rất ít nhiều theo đạo. Tuy nhiên ở Việt Nam, tôn giáo và tín ngưỡng khá phong phú.

Hàn Quốc thường xây nhà với phong cách khá thấp, nhiều phòng nhỏ

Người Hàn có tính đề cao dân tộc, bảo thủ, bảo hộ thị trường và văn hóa trong nước như các sản phẩm trong nước, không tin tưởng dùng hàng nhập từ nước ngoài. Trong khi người Việt ưa chuộng hàng “ngoại”, suy nghĩ thoáng nên xã hội mang tính hội nhập cao.

Cả hai dân tộc đều có ngày lễ và Tết. Người Hàn trong những ngày này về thăm ông bà cha mẹ theo luật lệ, không ai dám làm trái. Làm luật xong rồi thì về nhà đi chơi, ăn bánh nếp ngọt, nấu mi-yok-kuk, ăn khoảng 4-5 loại món ăn truyền thống như sườn bò xào ngọt, miến ngọt … Nét khác biệt giữa văn hóa Hàn và Việt còn thể hiện ở tính kỷ luật cao, chấp hành nghiêm túc nghĩa vụ của một công dân, thậm chí thanh niên Hàn rất hào hứng và vui mừng khi tham gia nghĩa vụ quân sự.

Văn hóa ăn uống

Ẩm thực Hàn Quốc chỉ gồm 1 đến 2 vị chính và không có nhiều rau thơm như ở Việt Nam. Ở Việt Nam một món ăn có thể kết hợp nhiều gia vị, nguyên liệu và được chế biến theo trình tự và nguyên tắc để đảm bảo độ dinh dưỡng, không sống cũng không quá chín. Trong khi người Hàn Quốc không có bước tẩm ướt nguyên liệu trước khi nấu, họ thường chế biến theo kiểu bỏ cùng một lúc và nấu chín lên.

Người Hàn ăn từng miếng to, ăn nhanh

Bữa ăn của người Hàn thường chỉ có một món chính nhưng có rất nhiều món ăn kèm như các loại kim chi rau dưa. Trong khi người Việt, một mâm ăn có 2- 4 món chính như: món kho mặn, rau luộc hoặc xào, món canh và một chén nước mắm. Người Hàn ăn từng miếng to, ăn nhanh, đó là cách để thể hiện sự biết ơn với người nấu món ăn, để họ biết món ăn đó rất ngon. Còn người Việt ăn uống khá từ tốn, ăn theo cách thưởng thức món ăn.

Người Hàn dùng bàn thấp và ngồi bệt dưới đất, không bao giờ nâng bát lên, họ chỉ thích uống rượu Soju. Người Việt có nhiều loại loại rượu khác nhau, mỗi nhà sẽ có một bình rượu quý để mời khách đến chơi.

Với bài viết, sự giống và khác nhau giữa văn hóa của người Hàn và Việt phần nào giúp cho bạn khám phá cuộc hành trình văn hóa tại xứ Hàn dễ dàng hơn. Nhất là những bạn du học sinh sắp đi du học Hàn Quốc, sẽ nhanh chóng hòa mình với nền văn hóa đó.