Top 10 # Tại Sao Chiến Tranh Thế Giới Thứ Nhất Bùng Nổ Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Sansangdethanhcong.com

100 Năm Chiến Tranh Thế Giới Thứ Nhất

Cách đây 100 năm, ngày 4/8/1914, Đức xâm lược Bỉ, đánh dấu sự khởi đầu của Chiến tranh thế giới lần thứ nhất . Kéo dài trong 4 năm, từ tháng 8/1914 đến tháng 11/1918, đây là một trong những cuộc chiến tranh quyết liệt, quy mô to lớn nhất trong lịch sử nhân loại, với sức tàn phá khủng khiếp về vật chất và ảnh hưởng sâu sắc về tinh thần.

Nguyên nhân và hậu quả

Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất là kết quả của sự phát triển kinh tế chính trị của chủ nghĩa tư bản thế giới vào những năm đầu thế kỷ XX. Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển tới giai đoạn mới – giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Sự tranh giành thị trường và thuộc địa giữa các nước đế quốc tất yếu dẫn đến chiến tranh để chia lại đất đai trên thế giới.

Ngoài mục đích phân chia lại thị trường, các nước đế quốc gây chiến để đàn áp phong trào đấu tranh của công nhân trong các nước đế quốc, và đàn áp phong cách mạng và phong trào giải phóng dân tộc.

Những hình ảnh về cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.

Và chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã xảy ra giữa hai khối liên minh quân sự được hình thành sau thế kỷ XIX: một bên là liên minh ba cường quốc, gồm: đế quốc Anh – Pháp – Nga, hay được gọi là khối hiệp ước Entente ba bên, sau này còn thêm Mỹ và một số nước khác tham gia; bên kia là phe Liên minh ba nước, hay còn gọi là Liên minh trung tâm, gồm đế quốc Đức, đế chế Áo – Hung.

Lợi dụng sự việc Đại công tước Franz Ferdinand của Áo – Hung bị một phần tử dân tộc chủ nghĩa người Serbia ám sát tại Sarajevo ngày 28-6-1914, Hoàng đế Wilhelm II của Đức, con người có khát vọng chiến tranh, đã hứa chi viện cho Áo-Hung để cùng trừng phạt Serbia. Sau đó, ngày 28/7/1914, Áo-Hung đã tuyên chiến với Serbia. Đêm hôm đó, quân Áo nã pháo vào thủ đô Belgrade, làm hơn 5.000 người dân bị thiệt mạng.

Sa hoàng Nga Nikolai II lập tức phát động binh lính. Đức gửi tối hậu thư cho Nga – Pháp yêu cầu đình chỉ việc chi viện, nhưng đều bị Nga – Pháp cự tuyệt. Ngày 1/8/1914, Đức tuyên chiến với Nga, và ngày 3/8 đã tuyên chiến với Pháp. Ngày 4/8/1914, Đức vượt biên giới tấn công Bỉ, đánh dấu sự khởi đầu của Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.

Cùng ngày Đức xâm lược Bỉ, Anh tuyên chiến với Đức. Ngày 6/8, Áo – Hung tuyên chiến với Nga. Sau đó, các nước Italy, Romania, Nhật, Mỹ lần lượt tham chiến. Cuộc chiến lan ra ở ba châu lục lớn, với 33 nước tham chiến.

Quân Mỹ tham chiến tại nước Pháp năm 1918.

Đây là lần đầu tiên thế giới biết đến một kiểu chiến tranh tổng lực, chiến tranh toàn diện. Chiến tranh diễn ra không những ác liệt trên bộ, trên không, trên biển, mà các bên còn thực hiện bao vây bóp nghẹt kinh tế của nhau, thử thách tiềm lực kinh tế và sức mạnh tinh thần của đối phương. Sau hơn 4 năm chiến tranh, ngày 11/11/1918, Đức và các nước cùng phe đã phải đầu hàng vô điều kiện.

Cuộc chiến làm 13,6 triệu người chết và khoảng 20 triệu người bị tàn phế. Nhiều thành phố, làng mạc, đường sá, cầu cống, nhà máy bị phá hủy. Thiệt hại vật chất lên tới 338 tỷ USD. Số tiền các nước tham chiến chi phí cho chiến tranh vào khoảng 85 tỉ USD.

Ngoài sự thiệt hại về người và vật chất, cuộc chiến tranh này còn gây tổn thương về tâm lý cho nhiều thế hệ tại châu Âu. Cuộc chiến cũng làm cho châu Âu tụt hậu và vai trò lãnh đạo mà châu Âu đảm đương trong hơn 300 năm đã dần dần chuyển sang bên kia đại dương cho nước Mỹ.

Những bài học

Chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã kết thúc được 100 năm; cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, mà theo một số nhà nghiên cứu đó chỉ là sự tiếp nối của Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đã kết thúc 69 năm, song những bài học của hai cuộc chiến đến nay vẫn còn nguyên giá trị lịch sử:

Một là, thế giới đã đi vào giai đoạn phát triển kinh tế, văn hoá, chính trị có trình độ cao. Ở mức trình độ đó, thế giới không thể còn chỗ cho chủ nghĩa đế quốc và các loại chủ nghĩa nước lớn trắng trợn. Với các quan hệ quốc tế chặt chẽ và quyền lợi đan xen thì chủ nghĩa ích kỷ ở phạm vi quốc gia và quốc tế tất yếu dẫn đến xung đột đối kháng, và chiến tranh thì đều thiệt hại cho tất cả các bên. Chính vì vậy, ngay sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, các nước đã đồng lòng tổ chức ra Hội quốc liên (nay là Liên hợp quốc) để điều hoà các quan hệ quốc tế trên cơ sở các bên cùng chấp nhận được.

Lính Áo trên chiến trường.

Hai là, trong điều kiện các mối quan hệ chặt chẽ của thế giới, của công nghệ cao, của qui mô toàn cầu, với tốc độ tàn phá khủng khiếp của chiến tranh thì “không ai có thể có lợi trong cuộc chiến tranh nếu nổ ra, thậm chí là chiến tranh khu vực”.

Ba là, yếu tố dân tộc quốc gia có động lực rất lớn và các quyền lợi chính đáng của nó phải được tôn trọng. Tình hình quốc tế không thể yên ổn nếu dựa trên cơ sở không tôn trọng tình cảm, quyền lợi chính đáng của quốc gia, dân tộc. Một dân tộc bị dồn vào thế cùng đường sẽ phản ứng rất quyết liệt gây hậu họa cho hoà bình thế giới.

Hiện nay, tuy đã có nhiều cuộc chiến tranh khu vực nổ ra và đã có lúc thế giới bên bờ vực chiến tranh, nhưng về cơ bản hoà bình thế giới vẫn được giữ vững và chưa thấy có dấu hiệu của một đại chiến mới. Điều đó cho thấy ít nhiều thì nhân loại cũng đã rút được các bài học chính trị của hai cuộc đại chiến, đã biết hoá giải các mâu thuẫn bằng hoà bình.

Về cơ bản hoà bình thế giới vẫn được giữ vững, nhưng hiện nay ở một số khu vực, một số nước trên thế giới, máu của người dân vẫn đổ, những đồng tiền đóng thuế của họ vẫn bị quăng vào những việc làm hết sức phi lý – đó là chiến tranh. Hãy để “bóng ma của chiến tranh”trong một tương lai gần chỉ còn là “dĩ vãng” đối với nhân loại.

Bài 13 : Chiến Tranh Thế Giới Thứ Nhất (1914

– Chủ nghĩa tư bản phát triển theo quy luật không đều làm thay đổi sâu sắc so sánh lực lượng giữa các đế quốc ở cuối XIX đầu XX.

– Sự phân chia thuộc địa giữa các đế quốc cũng không đều. Đế quốc già (Anh, Pháp) nhiều thuộc địa. Đế quốc trẻ (Đức, Mĩ) ít thuộc địa.

– Mâu thuẫn giữa các đế quốc về vấn đề thuộc địa nảy sinh và ngày càng gay gắt.

– Các cuộc chiến tranh giành thuộc địa đã nổ ra ở nhiều nơi.

+ Chiến tranh Trung – Nhật (1894 – 1895).

+ Chiến tranh Mĩ – Tây Ban Nha (1989).

+ Chiến tranh Anh – Bô ơ (1899 – 1902).

– Trong cuộc chạy đua giành giật thuộc địa, Đức là kẻ hiếu chiến nhất. Đức đã cùng Áo – Hung, Italia thành lập “phe liên minh”, năm 1882 chuẩn bị chiến tranh chia lại thế giới.

– Để đối phó Anh đã ký với Nga và Pháp những Hiệp ước tay đôi hình thành phe Hiệp ước (đầu thế kỉ XX).

– Cả 2 khối quân sự đối đầu điên cuồng chạy đua vũ trang, chuẩn bị chiến tranh chia lại thế giới, chiến tranh đế quốc không thể tránh khỏi.

– Nguyên cớ trực tiếp của chiến tranh là do một phần tử Xéc-bi ám sát hoàng thân kế vị ngôi vua Áo – Hung.

Hai khối quân sự ráo riết chạy đua vũ trang tích cực chuẩn bị chiến tranh (màu đỏ là phe Liên minh, màu xanh là phe Hiệp ước)

Bức họa mô tả vụ ám sát thái tử Áo – Hung

II Những diễn biến chính của chiến sự

1. Giai đoạn thứ nhất của chiến tranh (1914 – 1916)

Mỹ tham chiến cùng phe Hiệp ước

III. Kết cục của Chiến tranh thế giới thứ nhất

* Hậu quả của chiến tranh

– Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc với sự thất bại của phe liên minh, gây nên thiệt hại nặng nề về người và của.

+ 10 triệu người chết.

+ 20 triệu người bị thương.

+ Tiêu tốn 85 tỉ đô la.

– Cách mạng tháng Mười Nga thành công đánh dấu bước chuyển lớn trong cục diện thế giới.

– Chiến tranh thế giới thứ nhất là cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa.

* HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI

1. Em hãy cho biết tình hình các nước đế quốc cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX?

Trả lời

– Một số nước đi vào con đường tư bản chủ nghĩa muộn, nhưng phát huy được những lợi thế riêng và lợi dụng được những thành tựu khoa học – kĩ thuật của các nước đi trước nên đã có tốc độ tăng trưởng nhảy vọt như Đức, Mĩ, Áo-Hung, vượt qua các nước tư bản “già” như Anh, Pháp.

– Các nước đế quốc “trẻ” có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng nhưng lại ít thuộc địa, ngược lại, những đế quốc “già” thì chiếm số lớn thuộc địa. Đầu thế kỉ XX, thế giới đã phân chia xong, không còn “chỗ trống” nữa. Do đó, giữa các nước đế quốc đã nổ ra cuộc đấu tranh gay gắt để chia lại thị trường thuộc địa.

2. Những biểu hiện nào cho thấy quy luật phát triển không đồng đều của các nước đế quốc?

Trả lời

Các nước Đức, Mĩ đi vào con đường tư bản chủ nghĩa muộn nhưng có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhưng lại ít thuộc địa, ngược lại những nước tư bản như Anh, Pháp tốc độ phát triển kinh tế chậm, nhưng chiếm phần lớn thuộc địa. Đây là quy luật phát triển không đồng đều giữa các nước đế quốc.

3. Giữa các nước đế quốc đã diễn ra những cuộc chiến tranh đầu tiên nào?

Trả lời

Những cuộc chiến tranh đế quốc đầu tiên để tranh giành thuộc địa đã diễn ra là:

– Chiến tranh Mĩ – Tây Ban Nha (1898) : Mĩ chiếm Cu Ba và Phi-lip-pin của Tây Ban Nha.

– Chiến tranh Anh – Bô-ơ ( 1899-1902) : Anh thôn tính hai nước của người Bô – ơ, sáp nhập vào Nam Phi.

– Chiến tranh Nga – Nhật ( 1904-1905).

4. Nguyên nhân dẫn đến cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất ( 1914-1918)?

Trả lời

– Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc về vấn đề thuộc địa trở nên gay gắt, dẫn đến sự hình thành hai khối quân sự kình địch nhau.

+ Khối Liên minh gồm : Đức, Áo – Hung, Italia ra đời năm 1882.

+ Khối Hiệp ước gồm ba nước : Anh, Pháp, Nga hình thành năm 1907.

– Hai khối này đều ráo riết chạy đua vũ trang và tích cực chuẩn bị chiến tranh, mong muốn thanh toán địch thủ của mình để chia lại thuộc địa, làm bá chủ thế giới.

5. Duyên cớ nào trực tiếp dẫn đến chiến tranh?

Trả lời

Từ năm 1912, tình hình ở bán đảo Ban-căng trở nên căng thẳng. Ngày 28-6-1914, Thái tử Áo – Hung bị một phần tử khủng bố ở Xéc-bi ám sát. Bọn quân phiệt Đức, Áo – Hung chớp lấy cơ hội này gây chiến tranh.

6. Vì sao gọi cuộc chiến tranh (1914-1918) là cuộc chiến tranh thế giới?

Trả lời

Cuộc chiến tranh (1914-1918) là cuộc chiến tranh thế giới vì:

– Quy mô của cuộc chiến tranh này không chỉ dừng lại ở một nước, một khu vực mà lan ra toàn thế giới.

– Cuộc chiến tranh đã lôi kéo hơn 30 nước vào cuộc chiến, gây hậu quả khác nhau đến tất cả các nước trên thế giới, kể các nước trung lập, các bên tham chiến.

7. Những trận chiến trong những ngày đầu tiên của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất?

Trả lời

– Ngày 28-7-1914 : Áo – Hung tuyên chiến với Xec – bi.

– Ngày 1-8, Đức tuyên chiến với Nga.

– Ngày 3-8, Đưc tuyên chiến với Pháp.

– Ngày 4-8, Anh tuyên chiến với Đức. Chiến tranh bùng nổ và nhanh chóng trở thành chiến tranh thế giới.

8. Trình bày diễn biến chính của giai đoạn thứ nhất ( 1914-1916)?

Trả lời

– Quân đội Đức tập trung lực lượng ở mặt trận phía Tây nhằm đánh bại quân Pháp một cách chớp nhoáng.

– Pa-ri bị uy hiếp. Quân Pháp đang có nguy cơ bị tiêu diệt.

– Ở mặt trận phía Đông, quân Nga lại tấn công quân Đức, cứu nguy cho Pháp.

– Từ năm 1916, chiến tranh chuyển sang giai đoạn cầm cự ở cả hai phe.

9. Giai đoạn thứ hai của cuộc Chiến tranh thế giới diễn ra như thế nào?

Trả lời

– Từ mùa xuân năm 1917, chiến sự chủ yếu diễn ra ở mặt trận Tây Âu, phe Hiệp ước phản công, phe Liên Minh thất bại và đầu hàng.

– Ngày 7-11-1917, Cách mạng Tháng Mười thắng lợi ở Nga, Nhà nước Xô viết rút khỏi chiến tranh.

– Tháng 7-1918, quân Anh, Pháp bắt đầu phản công.

– Đếntháng 9-1918, quân Anh, Pháp, Mĩ tổng tấn công ở khắp các mặt trận. Các đồng minh của Đức lấn lướt đầu hàng.

– Ngày 9-11-1918, cách mạng bùng nổ ở Đức, lật đổ nền quân chủ và thành lập chế độ cộng hòa

– Ngày 11-11-1918, chính phủ mới ở Đức đầu hàng vô điều kiện. Chiến tranh thế giới kết thúc.

10. Chiến tranh thế giới thứ nhất đã gây nên những hậu quả như thế nào?

Trả lời

– Chiến tranh thế giới thứ nhất đã gây ra nhiều tai họa cho nhân loại:

+ 10 triệu người chết, hơn 20 triệu người bị thương.

+ Nhiều thành phố, làng mạc, đường sá, cầu cống, nhà máy bị phá hủy

+ Số tiền các nước nước tham chiến chi phí cho chiến tranh lên tới khoảng 85 tỉ đô la.

– Tuy nhiên, một kết quả quan trọng trong quá trình chiến tranh là phong trào cách mạng thế giới vẫn không ngừng phát triển, nổi bạt nhất là sự thành công của Cách mạng tháng Mười Nga và việc thành lập Nhà nước Xô viết, đánh dấu một bước chuyển biến lớn trong cực diện chính trị thế giới.

11. Nêu kết cục của Chiến tranh thế giới thứ nhất đối với các nước đế quốc?

Trả lời

– Chiến tranh kết thúc đem lại lợi ích cho các nước đế quốc thắng trận.

– Bản đồ thế giới được chia lại : Đức mất hết thuộc địa. Anh, Pháp, Mĩ mở rộng thêm thuộc địa của mình.

12. Từ diễn biến và kết cục của Chiến tranh thế giới thứ nhất, em hãy cho biết tính chất của nó?

Trả lời

– Đây là cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa, mang tính chất phi nghĩa, phản động, đem lại lợi ích cho giai cấp tư sản cầm quyền.

– Đây là cuộc chiến tranh ăn cướp, tốn phí và hậu quả nặng nề của nó đè nặng lên đời sống nhân dân lao động và nhân dân thuộc địa.

13. Lập niên biểu những sự kiện chính của Chiến tranh thế giới thứ nhất theo mẫu?

Trả lời

28-7 đến 4-8-1914

Áo – Hung tuyên chiến với Xec-bi, Đức tuyên chiến với Nga. Pháp tuyên chiến với Đức

Cuối 1914

Ưu thế thuộc về phe Liên Minh

Cuối 1915

Nga tấn công Đức ở phía Đông, kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của Đức thất bại

Năm 1916

Cả hai phe chuyển sang thế phòng ngự

Năm 1917

Ưu thế thuộc về phe Hiệp ước, chiến sự chủ yếu ở mặt trận phía tây

7-11-1917

Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi. Nước Nga xô viết rút khỏi chiến tranh

7-1918

Phe Hiệp ước phản công, các đồng minh Đức đầu hàng

9-11-1918

Cách mạng bùng nổ ở Đức, chế độ quân chủ bị lật đổ, chế độ cộng hòa được thành lập

11-11-1918

Chính phủ Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc

Bài 6: Chiến Tranh Thế Giới Thứ Nhất (1914

Chi tiết Chuyên mục: Bài 6: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918)

Bảng niên biểu về các sự kiện lớn của Chiến tranh thế giới thứ nhất

1914

Ở phía Tây : ngay đêm 3.8 Đức tràn vào Bỉ, đánh sang Pháp.

Cùng lúc ở phía Đông; Nga tấn công Đông Phổ.

Đức chiếm được Bỉ, một phần nước Pháp uy hiếp thủ đô Pa-ri.

Cứu nguy cho Pa-ri.

Chi tiết Chuyên mục: Bài 6: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918)

Tính chất của Chiến tranh thế giới thứ nhất.

– Là cuộc chiến tranh nhằm tranh giành thụôc địa giữa các nuớc đế quốc, chỉ đem lại lợi nhuận cho giai cấp tư sản nắm quyền

– Là cuộc chiến tranh xâm luợc và cuớp đọat lãnh thổ, thuộc địa đối phuơng

– Là cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa cả 2 phe tham chiến

Chi tiết Chuyên mục: Bài 6: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918)

– Thiệt hại về người: 13,6 triệu người chết và khoảng 20 triệu người bị tàn phế.

– Thiệt hại về vật chất: Nhiều thành phố, làng mạc, đường sá, cầu cống, nhà máy bị phá hủy. Thiệt hại vật chất lên tới 338 tỷ USD. Số tiền các nước tham chiến chi phí cho chiến tranh vào khoảng 85 tỉ USD.

– Làm tổn thương về tâm lý cho nhiều thế hệ tại châu Âu.

– Châu Âu tụt hậu và vai trò lãnh đạo mà châu Âu đảm đương trong hơn 300 năm đã dần dần chuyển sang bên kia đại dương cho nước Mỹ.

– Trong quá trình chiến tranh, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga và việc thành lập Nhà nước Xô viết đánh dầu bước chuyển lớn trong cục diện chính trị thế giới.

Chi tiết Chuyên mục: Bài 6: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918)

– Nét nổi bật trong giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh:

– Tháng 2-1917 Cách mạng Dân chủ tư sản Nga thành công buộc Mĩ tham gia chiến tranh(4-1917), tháng 7-1917, 65 vạn quân Mĩ đổ bộ vào châu Âu có lợi cho phe Hiệp ước

– Tháng 11-1917 Cách mạng tháng Mười Nga thành công, tháng 3-1917 Nga rút khỏichiến tranh.

– Tháng 7-1918 Anh, Pháp bắt đầu phản công đức thua trận liên tiếp,và rút khỏi Pháp,Bỉ…

– 11-11-1918, Đức kí hiệp ước đầu hàng không điều kiện. Chiến tranh kết thúc với sự thất bại hoàn toàn của phe Liên minh.

– Mĩ tham chiến muộn vì:

– Lúc đầu Mĩ giữ thái độ “trung lập”, thực ra Mĩ muốn lợi dụng chiến tranh để buôn bán vũ khí kiếm lời.

– Đến năm 1917 Mĩ tham gia chiến tranh và đứng về phe Hiệp ước với mục đích:

+ Được chia lợi nhuận nhiều hơn sau khi chiến tranh kết thúc

+ Ngăn chăn phong trào cách mạng thế giới đang lan rộng.

Chi tiết Chuyên mục: Bài 6: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918)

1914

Ở phía Tây : ngay đêm 3.8 Đức tràn vào Bỉ, đánh sang Pháp.

Cùng lúc ở phía Đông; Nga tấn công Đông Phổ.

Đức chiếm được Bỉ, một phần nước Pháp uy hiếp thủ đô Pa-ri.

Cứu nguy cho Pa-ri.

1915

Đức, Áo – Hung dồn toàn lực tấn công Nga.

Hai bên ở vào thế cầm cự trên một Mặt trận dài 1200 km.

1916

Đức chuyển mục tiêu về phía Tây tấn công pháo đài Véc-doong.

Đức không hạ được Véc-đoong, 2 bên thiệt hại nặng.

Bùng Nổ Dân Số Trên Thế Giới

Tiểu luận Bùng nổ dân số trên thế giới

1

MỞ ĐẦU

Ngày nay, khái niệm “con quái vật dân số” hay “quả bom dân số” đã trở lên không còn xa lạ gì với mỗi chúng ta. Gọi như vậy phần nào đã cho chúng ta một cái nhìn khái quát nhất về tính nguy hại và cấp thiết, cũng như những áp lực mà vấn đề dân số gây ra cho chúng ta. Trong vòng bốn thập niên trở lại đây, nhân loại đã có cái nhìn khác về vấn đề dân số, đã không còn quan niệm “trời sinh voi trời sinh cỏ” nữa mà thay vào đó, con người đã có cái nhìn nghiêm túc hơn trước thực trạng diễn biễn ngày càng phức tạp của vấn đề dân số. Trong bài tiểu luận này, chúng tôi chỉ muốn đề cập tới nguyên nhân và thực trạng của vấn đề bùng nổ dân số- vấn đề đang làm đau đầu lãnh đạo nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam- để từ đó làm sang tỏ vấn đề bùng nổ dân số hiện đã vượt ra ngoài biên giới của một quốc gia, một khu vực và đã trở thành một vấn đề toàn cầu. Bài tiểu luận của nhóm chúng tôi được chia làm 3 phần I. Khái niệm và thực trạng của vấn đề bùng nổ dân số II. Nguyên nhân bùng nổ dân số III. Tại sao vấn đề dân số lại được coi là vấn đề toàn cầu

2

I. Khái niệm và thực trạng vấn đề bùng nổ dân số trên thế giới 1. Khái niệm – Dân số là tập hợp những người sinh sống trong cùng một quốc gia, khu vực, vùng địa lí kinh tế hoặc một đơn vị hành chính. – Bùng nổ dân số là sự gia tăng dân số quá nhanh trong một thời gian ngắn,gây ảnh hưởng tiêu cực đến mọi mặt của đời sống xã hội1. Như vậy bản chất của bùng nổ dân số chính là sự tăng lên nhanh chóng một cách đột biến của số lượng người sinh sống trong phạm vi của một quốc gia, khu vực, vùng địa lí, hay nói rộng ra đó là sự gia tăng trên phạm vi toàn cầu. 2. Thực trạng vấn đề bùng nổ dân số Chúng tôi sẽ xem xét vấn đề bùng nổ dân số trên hai cấp độ: cấp độ quốc tế và cấp độ quốc gia. a. Cấp độ quốc tế Dân số phát triển với tốc độ chóng mặt. Xét trong toàn bộ tiến trình lịch sử xã hội cho đến nay,tỉ lệ phát triển dân số trên phạm vi toàn thế giới ngày càng cao. Vào những năm công nguyên,dân số thế giới chỉ vào khoảng 250 triệu người .Cách đó 1.600 năm, dân số thế giới tăng trưởng rất chậm, đến năm 1650 dân số thế giới chỉ tăng gấp đôi con số trên. Năm 1825,dân số thế giới lên đến 1 tỉ người.

1

Từ điển bách khoa toàn thư

3

Năm 1925 dân số thế giới là 2 tỉ người. 50 năm tiếp theo dân số thề giới tăng gấp đôi,tức là vào năm 1975 đạt tới 4 tỉ người. Năm 1987,vào ngày 11 tháng 7,dân số thế giới tròn 5 tỉ người,tức là chỉ cần 12 năm để tăng thêm 1 tỉ người.1 Dân số thế giới đã vượt qua ngưỡng 6 tỉ người vào cuối thập kỷ XX, đạt 6,616 tỉ người vào năm 2007, với tỷ lệ tăng dân số hằng năm 1,2% (so với 2% của những năm thập kỷ 60 của thế kỷ XX). Chỉ trong vòng 12 năm, thế giới đã tăng thêm 1 tỉ dân (từ 1987 – 1999), là giai đoạn ngắn nhất trong lịch sử loài người để có thêm 1 tỉ dân và 1 tỉ tiếp theo sẽ đạt được sau 13 năm. Theo dự báo, dân số thế giới sẽ tăng thêm 2,6 tỉ trong vòng 45 năm tới, tức đến năm 2050 dân số thế giới sẽ đạt 9,1 tỉ người . Như vậy có thể thấy thời gian để dân số thế giới tăng thêm gấp đôi, cũng như thời gian để Trái Đất đón thêm 1 tỉ công dân mới ngày càng được rút ngắn một cách nhanh chóng. Người ta tính rằng cứ 6 tháng dân số thế giới lại tăng thêm bằng số dân của nước Pháp (50 triệu) và cứ sau 10 năm lại có một nước Trung Quốc ra đời ở những vùng nghèo nàn nhất trên Trái Đất2. Đó quả thật là những con số khủng khiếp. Tuy nhiên tốc độ tăng dân số ở các khu vực khác nhau trên thế giới là không giống nhau. Có một nghịch lí là khu vực các nước nghèo và kém phát triển nhất lại là những khu vực có tốc độ tăng dân số nhanh nhất. Theo điều tra của Cục Điều tra dân số Mỹ, tốc độ tăng dân số nhanh nhất lại là ở các khu vực nghèo khổ nhất tại châu Phi, Trung Đông và tiểu lục địa Ấn Độ, nơi trung bình một phụ nữ đẻ 7 con. Trong tương lai gần, tốc độ phát triển dân số nhanh nhất vẫn là khu vực châu Phi và Nam Á. Trong vòng nửa đầu thế kỉ XXI, dân số châu Phi sẽ tăng khoảng 2,4- 3 lần, cao hơn tốc độ tăng dân số toàn cầu khoảng 1,7-1,8 lần. Cũng

Nguyễn Trần Quế, Những vấn đề toàn cầu hóa ngày nay, tr.71 Nguyễn Trần Quế, những vấn đề toàn cầu hóa ngày nay, tr 23

4

như vậy tốc độ tăng dân số ở khu vực Nam Á cũng cao hơn tốc độ tăng dân số toàn cầu 10-15%. Chỉ tính riêng trong giai đoạn 2000 – 2005, theo thống kê của Liên hợp quốc, hằng năm dân số thế giới tăng thêm khoảng 76 triệu người, trong đó 6 nước có số dân tăng thêm chiếm 45% là Ấn Độ (số dân tăng thêm chiếm 22%), Trung Quốc (11%), Pa-ki-xtan, Ni-giê-ri-a, Mỹ, Băng-la-đét (mỗi nước 4%). Ngoài ra, 16 nước khác có số dân tăng thêm chiếm 25%, trong đó In-đô-nê-xi-a (số dân tăng hằng năm 2,7 triệu), Băng-la-đét (2,6 triệu), Bra-xin (2,5 triệu), Ê-ti-ô-pi-a (1,8 triệu), Cộng hòa Công-gô (1,5 triệu), Phi-líp-pin (1,5 triệu), Mê-hi-cô (1,4 triệu), Ai-cập (1,3 triệu), Áp-ga-ni-xtan (1,2 triệu), Việt Nam (1,1 triệu), Thổ Nhĩ Kỳ (1 triệu), U-gan-đa (0,9 triệu), I-rắc (0,7 triệu), Kê-ni-a (0,7 triệu), Cộng hòa Tan-dani-a (0,7 triệu), Cô-lôm-bi-a (0,7 triệu) và Xu-đăng (0,7 triệu). Trong khi dân số của nhiều nước, đặc biệt là ở châu Phi và châu Á tiếp tục gia tăng trong vài thập niên tới, thì ở một số nước phát triển đạt dưới mức sinh thay thế lại có xu thế suy thoái dân số trong vòng 50 năm (2000 – 2050) như CHLB Nga (số dân giảm 35 triệu), U-crai-na (23 triệu), Nhật (15 triệu), Ba-lan (7 triệu), Ru-ma-ni (5 triệu), CHLB Đức (4 triệu), Bê-la-rút và Bun-ga-ri (3 triệu)1. Như vậy, sức ép dân số đối với đa số các nước đang phát triển, trong đó có nước ta do số dân tăng thêm hằng năm còn rất lớn trước đời sống kinh tế, chính trị và xã hội, hạn chế đến khả năng cải thiện, phát triển và tiềm ẩn nguy cơ tụt hậu.Dân số tăng nhanh nằm ở khu vực những nước đang phát triển, với hơn 95% sự gia tăng dân số nằm ở khu vực này: Hiện nay, dân số thế giới đang gia tăng với tỷ lệ trung bình là 1,2%/năm. Cục điều tra dân số Mỹ dự báo, tốc độ này sẽ giảm xuống còn 0,5% năm 2050. Khi đó, Ấn Độ sẽ vượt Trung Quốc trở thành nước đông dân nhất thế giới. b. Cấp độ quốc gia

1

Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam

5

Trong tiến trình toàn cầu hóa hiện nay, có một vấn đề nan giải đó là sự tăng nhanh dân số ở khu vực các thành phố lớn. Tỷ lệ dân cư tại các thành phố, đặc biệt là các thành phố lớn ngày càng cao. Năm 1955, dân số đô thị là 872 triệu người (chiếm 32% dân số toàn cầu), năm 1975 là 1,5 tỉ người (chiếm 38%), năm 1995 là 2,6 tỉ người (chiếm 45%). Theo dự báo của Liên Hợp Quốc, tới năm 2025 số dân sống ở các đô thị sẽ chiếm 60% dân số toàn cầu. Số thành phố có trên 10 triệu dân cũng tăng lên nhanh chóng. Nếu như năm 1975 mới chỉ có 5 thành phố như vậy thì tới năm 1995 đã có 14 thành phố, theo dự đoán thì tới năm 2025 chỉ riêng châu Á sẽ có tới 20 thành phố trên 10 triệu dân.1 Khi dân số đô thị toàn cầu bùng nổ (cứ 38 năm lại tăng gấp đôi) các thành phố lớn nhất thế giới ngoại trừ Tokyo sẽ bị tuột xuống cuối danh sách vào năm 2015 và thay thế chúng là các đô thị nhỏ hơn mà ở đó đang có sự bùng nổ dân cư, cũng theo dự đoán này, Bombay và New Delhi sẽ trở thành các thành phố lớn thứ hai và thứ ba trên thế giới thay thế cho Mexico city và New York hiện nay. II. Nguyên nhân bùng nổ dân số Sự chênh lệch lớn về tỷ lệ sinh tử: trong giai đoạnđầu phát triển lịch sử phát triển của nhân loại, tỷ lệ sinh tương đối cao do nhu cầu duy trì nòi giống và nhu cầu lực lượng sản xuất phục vụ phát triển xã hội, trong khi đó tỉ lệ tử cũng tương đối cao do điều kiện sống hạn chế, thiên tai, dịch bệnh nhiều… Do đó, trong giai đoạn này tỷ lệ sinh và tử tương đối cân bằng. Ngược lại, trong giai đoạn “bùng nổ dân số” tỷ lệ sinh vẫn tiếp tục được duy trì trong khi đó tỷ lệ tử có xu hướng giảm do điều kiện sống được nâng cao, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, các nhu cầu cơ bản của con người được chú trọng đặc biệt là trong công tác vệ sinh và y tế dẫn tới tỉ lệ tử giảm xuống. Thêm vào đó, tuổi thọ của con người được nâng cao dần, năm 1975 tuổi trung bình của dân cư thế giới là 21,9 tuổi, tới năm 2000 là 26,6 tuổi. Quá trình toàn cầu hóa đã mang lại cho các

1

Nguyễn Trọng Chuẩn, Những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu của thế kỉ XXI, tr.195

6

quốc gia kém phát triển khả năng tiếp cận với những tiến bộ khoa học kĩ thuật. Những căn bệnh trước kia được coi là nan y đã tìm ra phương pháp chữa trị, người dân đã biết sử dụng rộng rãi các loại thuốc văc-xin, thuốc kháng sinh.. Mặt khác khoa học kĩ thuật cũng góp phần làm giảm tỉ lệ tử ở trẻ sơ sinh, mang lại nhiều cơ hội cho các cặp vợ chồng hiếm muộn… Chính những yếu tố trên đã làm nảy sinh tình trạng mất cân bằng giữa sinh và tử, dẫn đến tình trạng tăng dân số một cách chóng mặt. Nhu cầu về lực lượng sản xuất: ở các quốc gia kém phát triển, những nơi mà khoa học kỹ thuật chưa mấy phát triển và việc áp dụng khoa học và sản xuất còn rất hạn chế, lực lượng sản xuất vẫn chỉ mới ở trình độ cơ khí thủ công, sử dụng lao động cơ bắp, lao động chân tay là chủ yếu, cộng với những nguồn năng lượng có sẵn trong tự nhiên để sản xuât, trong xã hội như vậy thì dân số càng tăng, sức lao động càng nhiều, càng đẩy mạnh sức sản xuất xã hội. Do đó mà dân số thế giới của chúng ta không ngừng tăng lên một cách nhanh chóng, để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của từng quốc gia . Quan niệm lạc hậu: ở một số nước đặc biệt là các nước phương đông vẫn còn một số quan niệm lạc hậu: sinh nhiều con, tư tưởng trọng nam khinh nữ, muôn sinh con trai… Điều này có thể thấy rất rõ ở Việt Nam, tại các vùng dân tộc thiểu số hoặc các vùng nông thôn thường có tư tưởng sinh càng nhiều càng tốt và nhất thiết phải có con trai, do đó mà ở các vùng này gia đình nào cũng có 3 con trở lên. Ở các nước này vai trò và địa vị của người phụ nữ vẫn còn rất thấp, phụ nữ nhiều nơi vẫn chưa được giải phóng hoàn toàn. Ngược lại có thể thấy ở các quốc gia phát triển phương Tây, nơi mà người phụ nữ khá bình đẳng với nam giới và tham gia ngày càng nhiều vào lực lượng lao động của xã hội thì tỉ lệ sinh rất thấp, chính quyền nhiều nước còn phải đề ra các chính sách khuyến khích tăng tỉ lệ sinh. Ở một số nước nghèo và các nước đang phát triển thì vấn đề tiếp cận, và nhận thức về dân số còn rất hạn chế, đặc biệt là châu phi và một số nước ở châu Á, kinh tế nghèo đói, lương thực không đủ ăn chua nói đến vấn đề tiếp cận đến vấn đề giáo dục dân số và kế hoạch hóa gia đình. Họ thiếu những kiến thức và phương tiện cơ 7

bản về phòng tránh thai. Thậm chí nhiều khi chính các nhà lãnh đạo cũng có nhận thức chưa đầy đử về vấn đề này, ví dụ cách đây 8 năm thị trưởng thành phố Mannila đã ra lệnh cấm các trung tâm y tế cung cấp các biện pháp ngừa thai hiện đại như bao cao su, thuốc tránh thai và triệt sản nhằm mục đích bảo vệ các giá trị cuộc sống??

III. Tại sao “Bùng nổ dân số” lại là vấn đề toàn cầu Cũng như mọi vấn đề toàn cầu khác, vấn đề bùng nổ dân số cũng sẽ được chúng tôi nhìn nhận dưới 3 góc độ là :phạm vi tác động, hậu quả tác động và việc đòi hỏi sự chung sức của toàn nhân loại. 1. Phạm vi tác động của vấn đề: Vấn đề bùng nổ dân số có thể được nhìn nhận từ hai góc độ. Trên phạm trù quốc tế, có một thực tế là hiện nay vấn đề bùng nổ dân số chỉ diễn ra chủ yếu ở các nước đang phát triển và chậm phát triển, có thể thấy 60% dân số tập trung tại các nước châu Á và châu Phi, các khu vực còn lại như châu Âu và châu Mỹ dân số chỉ chiếm 40% dân số thế giới. Điều đáng lo ngại hơn là các khu vực kém phát triển này tốc độ tăng dân số luôn ở mức cao hơn rất nhiều so với các nước phát triển. Trong giai đoạn 2000 – 2005, theo thống kê của Liên hợp quốc, hằng năm dân số thế giới tăng thêm khoảng 76 triệu người, trong đó 6 nước có số dân tăng thêm chiếm 45% và 16 nước khác có số dân tăng thêm chiếm 25% thì ngoài 4 nước là Mỹ, Côlômbia, Mêhicô và Braxin ra thì còn lại đều là các quốc gia châu Á và châu Phi, và ngoài trừ Mỹ, Ấn Độ, Braxin, Trung Quốc ra thì các nước còn lại đều là các nước đang và kém phát triển. Trong khi đó thì ở một số nước phát triển như Nga, Nhật hay CHLB Đức đạt dưới mức sinh thay thế lại có xu thế suy thoái dân số trong vòng 50 năm (2000 – 2050). Như vậy nhìn vào bề mặt của vấn đề có thể nhiều người sẽ nghĩ vấn đề bùng nổ dân số chỉ là vấn đề của các nước đang phát 8

triển, và quả thật những hậu quả mà vấn đề bùng nổ dân số mang lại cho các nước này là không phải bàn cãi. Nhưng trong thời đại ngày nay không một vấn đề nào có thể tách ra riêng lẻ mà nó luôn có liên hệ chặt chẽ với các vấn đề khác. Vân đề bùng nổ dân số cũng vậy. Có thể có người sẽ suy nghĩ rằng Việt Nam sinh nhiều thì ảnh hưởng gì tới Mỹ? Đúng là không ảnh hưởng nhiều thật nếu chỉ có Việt Nam nhưng trên thực tế, ngoài Việt Nam ra còn có rất nhiều các nước thế giới thứ 3 khác cũng đang trong tình trạng như vậy,điều đó sẽ mang lại những ảnh hưởng không nhỏ tới các quốc gia khác, đặc biệt là các nước phát triển. Một điều tất yếu là khi dân số trong nước quá đông thì người ta sẽ phải tìm đường sang các nước khác, chủ yếu là các nước phát triển. Điều mà chúng tôi muốn nói tới là vấn đề người nhập cư và di dân. Mặc dù trong chiến tranh thế giới II đã từng xuất hiện một làn sóng di cư ồ ạt từ các nước, các khu vực có chiến sự sang nước Mỹ, nguồn nhập cư này đã góp phần không nhỏ vào thành công của nước Mỹ sau này, tuy nhiên vấn đề hiện nay là mặc dù nhiều nước đã thắt chặt chính sách người nhập cư nhưng số lượng người nhập cư vẫn không giảm, chủ yếu là qua con đường nhập cư bất hợp pháp. Nhập cư bất hợp pháp sẽ dẫn tới những hậu quả không nhỏ cho các nước phát triển cả về an ninh và xã hội. Đó là tình trạng tội phạm gia tăng, xã hội bất ổn, xung đột giữa các nhóm sắc tộc. Ngoài ra xét trên phạm trù quốc gia, trong từng nước đều đang phải đối mặt với tình trạng bùng nổ dân số ở khu vực thành thị. Và trong những thành phố có tốc độ tăng dân số nhanh nhất thì có cả những thành phố rất phát triển như Tokyo hay New york. Do đó có thể thấy ngay cả trong các quốc gia phát triển nhất vẫn phải đối mặt với vấn đề bùng nổ dân số trong phạm vi cục bộ. 2. Hậu quả tác động của Bùng nổ dân số Có thể khẳng định vấn đề này có ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn vong của nhân loại. Có thể nhiều người sẽ cho rằng việc có nhiều người thì sao có thể khiến cho nhân loại diệt vong được, bởi nếu nhìn vào giới tự nhiên thì có thể thấy những

9

loài động vật bị tuyệt chủng hoặc đe dọa tuyệt chủng đều là những loài có số lượng ít ỏi. Phải chăng nếu số lượng người trên Trái Đất càng nhiều thì càng đảm bảo chắc chắn hơn cho sự tồn tại của nhân loại chứ? Tuy nhiên thực tế không phải như vậy, các nhà khoa học đã tính toán rằng các tài nguyên trên Trái Đất chỉ có thể nuôi sống tối đa được khoảng 11 tỉ người mà thôi. Nếu dân số không được kiểm soát mà vẫn tiếp tục tăng trưởng một cách vô hạn như hiện nay thì viễn cảnh về một ngày tận thế sẽ không còn là quá xa vời, và nguyên nhân của điều đó chính là nằm ở chúng ta. Nếu để ý có thể thấy rất nhiều vấn đề toàn cầu khác chính là xuất phát từ vấn đề bùng nổ dân sô. a. Dân số và vấn đề nghèo đói, lạc hậu Ở phương Tây, có tác giả cho rằng: nếu dân số tăng lên 1% thì thu nhập quốc dân tăng khoảng 4%. Ở nhiều nước kém phát triển thuộc châu Phi, tỉ lệ tăng dân số hàng năm rất cao lên đến 3%, nếu muốn đảm bảo nhu cầu cho số dân mới tăng đó thì thu nhập quốc dân bình quân mỗi năm phải tăng khoảng 13%, điều đó là vô cùng khó khăn ngay cả với một quốc gia phát triển chứ đừng nói là một quốc gia kém phát triển. Trong phạm vi một quốc gia, việc bùng nổ dân số sẽ khiến cho mức sống của người dân trong nước bị hạ xuống,mức sống của người dân giảm dẫn tới các dịch vụ chăm sóc tối thiểu không được đáp ứng, dịch bệnh gia tăng. Trên phạm vi quốc tế, bùng nổ dân số sẽ dẫn tới sự chênh lệch trong phân phối của cải giữa các khu vực, khiến cho những nước giàu vẫn cứ giàu, những nước nghèo vẫn cứ nghèo, mặt bằng chất lượng dân số của thế giới bị kéo tuột xuống. b. Dân số và vấn đề bệnh tật Mặc dù chưa có nhà khoa học nào khẳng định được mối liên hệ giữa vấn đề bùng nổ dân số và bệnh tật, tuy nhiên trên thực tế, tại các quốc gia đang và kém phát triển, những nước có tốc độ bùng nổ dân số cao nhất thế giới cũng là những nước mà ở đó vấn đề dịch bệnh đang trở nên rất nghiêm trọng. Có thể lấy ví dụ

10

sau để thấy được điều đó: theo thống kê năm 2000, thế giới có khoảng 40 triệu người bị nhiễm AIDS, trong đó 90% là ở các nước đang phát triển, chủ yếu là ở các quốc gia châu Phi (chiếm tới 2/3 số người mắc bệnh). 1 Bùng nổ dân số dẫn tới điều liện sống nghèo khổ, chiến tranh xung đột triền miên khiến cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người dân không được đảm bảo chính là nguyên nhân chính dẫn tới bệnh tật tràn lan ở châu lục này. c. Dân số và vấn đề tài nguyên thiếu hụt Trong xã hội công nghiệp hiện đại, để đảm bảo cho cuộc sống của mỗi nguời, mỗi năm phải đào lên được 25 loại khoáng sản trong lòng đất. Tài nguyên dầu lửa, nếu tiếp tục được khai thác với tốc độ như trong thập niên 90 của thế kỉ trước thì sẽ cạn kiệt đến năm 2016. Tài nguyên than trên thế giới cũng chỉ còn dùng được 1500 năm nữa, và ước tính 12 loại tài nguyên khác chỉ duy trì đựoc 50 năm nữa là cùng. Trong đó nghiêm trọng nhất là phải kể tới vấn đề thiếu nước ngọt. Vào đầu thế kỉ XXI, một số vùng Nam Á, Trung Mỹ, nhất là Bắc Phi, Đông Phi, Tây Phi đã xuất hiện tình trạng thiếu nước ngọt hoàn toàn. d. Dân số và vấn đề thiếu đất canh tác, lương thực căng thẳng Với sự tăng trưởng cùa dân số trên toàn thế giới, bình quann ruộng đất canh tác theo đầu người ngày một giảm đi. Năm 1950 bình quân ruộng đất theo đầu người trên thế giới là 8,5 mẫu, năm 1960 giảm xuống chỉ còn 7,1 mẫu, năm 1968 là 6,1 mẫu, năm 1974 còn 5,6 mẫu và tới năm 1960 chỉ là 3,9 mẫu. Ruộng đất canh tác giảm đi tất nhiên không chỉ vì lí do dân số bùng nổ mà còn do nhiều nguyên nhân khác như quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, tuy nhiên nguyên nhân dân số tăng lên vẫn là nguyên nhân chủ yếu. Ruộng đất giảm, dân số tăng nhanh làm cho vấn đề lương thực trên phạm vi toàn cầu ngày càng trở lên căng thẳng. Đầu năm 2008 vừa qua đã xảy ra cuộc khủng hoảng lương thực lớn và chưa 1

Nguyễn Trọng Chuẩn, những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu của thế kỉ XXI, tr 226-227

11

bao giờ vấn đề an ninh lương thực lại được đặt ra cấp thiết như lúc này. Hiện nay đại đa số các đang phát triển tại châu Á, châu Phi và Mỹ La-tinh đã phải nhập lương thực, đó là một minh chứng rõ ràng cho hậu quả của việc bùng nổ dân số tại các nước này. e. Dân số và vấn đề ô nhiễm môi trường Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa đang diễn ra trên khắp thế giới, sự bùng nổ dân số đã khiến cho tình hình ô nhiễm môi trường ngày càng trở lên nghiêm trọng. Tại các nước đang phát triển, do sức ép của việc phát triển kinh tế, cho đến nay vẫn tiếp tục sử dụng sử dụng một cách rộng rãi các loại thuốc trừ sâu, khai thác đất quá mức…khiến cho sự phá hoại môi trường sinh thái ngày càng tăng lên. g. Dân số và vấn đề an ninh, xã hội Dân số tăng nhanh gây ra nhiều bất ổn trong xã hội, đó là nạn cướp bóc, khủng bố,…Dễ thấy khi dân số tăng cao, việc kiếm được miếng ăn sẽ ngày càng trở lên khó khăn hơn, và để đảm bảo sinh tồn cho mình người ta có thể sẵn sàng làm mọi việc, kể cả phạm tội. Nghiêm trọng hơn, xuất phát từ vấn đề dân số quá nhiều dẫn tới việc thiếu đất sống, thiếu “không gian sinh tồn” có thể dẫn tới các cuộc xung đột, chiến tranh giữa các nhóm người, gây nên những hậu quả to lớn. Có thể thấy vấn đề bùng nổ dân số đối với vấn đề nghèo đói, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, khan hiếm tài nguyên đều có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp. Bản thân các vấn đề đó đã là các vấn đề mang tính toàn cầu, có ảnh hưởng tới sự tôn vong của nhân loại, chính vì vậy, không còn gí nghi ngờ nữa, vấn đề bùng nổ dân số cũng là một vấn đề có tầm ảnh hưởng sâu sắc, rộng lớn tới tương lai của nhân loại.

12

13

Nguyễn Trọng Chuẩn: Những vấn đề toàn cầu trong hai thập

niên đầu của thế kỉ XXI. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. 2.

Nguyễn Trần Quế: Những vấn đề toàn cầu hóa hiện nay.

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006. 3.

http://www.tapchicongsan.org.vn

4.

http://www.vietnamnet.vn

14

Nhóm thực hiện

1.

Phạm Ngọc Thắng I33

2.

Nguyễn Thu Hằng I33

3.

Hoàng Như Yến I33

4.

Nguyễn Văn Quý I33

5.

Quyền Tú Anh I33

6.

Lattaphong Phanmachan K33

7.

Pakitkeo Senhom K33

15

16