Top 13 # Tại Sao Có Tết Trung Thu Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Sansangdethanhcong.com

Tại Sao Có Tết Trung Thu

Người Việt ăn Tết Trung thu vào ngày rằm tháng 8 âm lịch. Trong dịp này người ta làm cỗ cúng gia tiên và bày bánh trái ra sân cúng mặt trăng.

Nhân dịp Tết Trung thu, người lớn thì uống rượu, thưởng trăng, và hát trống quân; trẻ em thì rước đèn, đi xem múa lân, ca hát các bài hát Trung thu, và vui hưởng bánh kẹo cùng các thứ trái cây do cha mẹ bày ở ngoài sân trong đêm Trung thu dưới hình thức một mâm cỗ. Theo tục lệ, việc trẻ con thưởng thức bánh kẹo trái cây trong đêm Trung thu này được gọi là “phá cỗ.”

Nguồn gốc Tết Trung thu

Chuyện xưa kể rằng vua Đường Minh Hoàng (713-741 Tây Lịch) dạo chơi vườn Ngự Uyển vào đêm rằm tháng 8 âm lịch.

Trong đêm Trung thu, trăng rất tròn và trong sáng. Trời thật đẹp và không khí mát mẻ. Nhà vua đang thưởng thức cảnh đẹp thì gặp đạo sĩ La Công Viễn còn được gọi là Diệp Pháp Thiện. Đạo sĩ có phép tiên đưa nhà vua lên cung trăng.

Ở đấy, cảnh trí lại càng đẹp hơn. Nhà vua hân hoan thưởng thức cảnh tiên và du dương với âm thanh ánh sáng huyền diệu cùng các nàng tiên tha thướt trong những xiêm y đủ màu xinh tươi múa hát.

Trong giờ phút tuyệt vời ấy nhà vua quên cả trời gần sáng. Đạo sĩ phải nhắc, nhà vua mới ra về nhưng trong lòng vẫn bàng hoàng luyến tiếc.

Về tới hoàng cung, nhà vua còn vấn vương cảnh tiên nên đã cho chế ra Khúc Nghê Thường Vũ Y và cứ đến đêm rằm tháng 8 lại ra lệnh cho dân gian tổ chức rước đèn và bày tiệc ăn mừng trong khi nhà vua cùng với Dương Quí Phi uống rượu dưới trăng ngắm đoàn cung nữ múa hát để kỷ niệm lần du nguyệt điện kỳ diệu của mình.

Kể từ đó, việc tổ chức rước đèn và bày tiệc trong ngày rằm tháng tám đã trở thành phong tục của dân gian.

Cũng có người cho rằng tục treo đèn bày cỗ trong ngày rằm tháng tám âm lịch là do ở điển tích ngày sinh nhật của vua Đường Minh Hoàng. Vì ngày rằm tháng 8 là ngày sinh nhật của vua Đường Minh Hoàng nên triều đình nhà Đường đã ra lệnh cho dân chúng khắp nơi trong nước treo đèn và bày tiệc ăn mừng.

Từ đó, việc treo đèn bày cỗ trong ngày rằm tháng tám trở thành tục lệ. Người Hoa và người Việt đều làm bánh Trung thu để cúng, ăn, biếu thân bằng quyến thuộc, và đãi khách. Người Hoa và người Việt đều tổ chức rước đèn trong đêm Trung thu.

Ý nghĩa Tết Trung thu

Tết Trung thu của người Việt có nhiều điểm đặc biệt khác với Tết Trung thu của người Hoa.

Theo phong tục người Việt, bố mẹ bày cỗ cho các con để mừng trung thu, mua và làm đủ thứ lồng đèn thắp bằng nến để treo trong nhà và để các con rước đèn.

Cỗ mừng Trung thu gồm bánh Trung thu, kẹo, mía, bưởi, và các thứ hoa quả khác nữa. Đây là dịp để con cái hiểu được sự săn sóc quí mến của cha mẹ đối với mình một cách cụ thể. Vì thế, tình yêu gia đình lại càng khăng khít thêm.

Cũng trong dịp này người ta mua bánh trung thu, trà, rượu để cúng tổ tiên, biếu ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè, họ hàng, và các ân nhân khác.

Thật là dịp tốt để con cháu tỏ lòng biết ơn ông bà cha mẹ và để người đời tỏ lòng săn sóc lẫn nhau.

Người Hoa hay tổ chức múa lân trong dịp Tết Nguyên Đán. Người Việt lại đặc biệt tổ chức múa sư tử hay múa lân trong dịp Tết Trung thu.

Con Lân tượng trưng cho điềm lành. Người Trung Hoa không có những phong tục này.

Thời xưa, người Việt còn tổ chức hát Trống Quân trong dịp Tết Trung thu. Điệu hát Trống Quân theo nhịp ba “thình, thùng, thình.”

Ngày xưa trai gái dùng điệu hát Trống Quân để hát trong những đêm trăng rằm, nhất là vào rằm tháng tám.

Trai gái hát đối đáp với nhau vừa để vui chơi vừa để kén chọn bạn trăm năm. Người ta dùng những bài thơ làm theo thể thơ lục bát hay lục bát biến thể để hát.

Tết Trung thu mới đầu là tết của người lớn để thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên, ăn bánh, và uống trà ngắm trăng rằm vào giữa tiết Thu. Dần dần Tết Trung thu trở thành Tết trẻ em, nhưng người lớn cũng dự phần trong đó.

Các em có dịp vui chơi rước đèn, ca hát, phá cỗ do cha mẹ anh chị bày cho và nhất là có dịp ăn bánh kẹo thả cửa mà không sợ bị trách mắng.

Tết Trung thu là một phong tục rất có ý nghĩa. Đó là ý nghĩa của chăm sóc, của báo hiếu, của biết ơn, của tình thân hữu, của đoàn tụ, và của thương yêu.

Trong dịp này, các gia đình có dịp đoàn tụ để cùng ăn bánh và cùng thưởng thức ánh trăng nên Tết Trung thu còn có tên gọi khác là Tết đoàn viên.

Tại Sao Tết Trung Thu Lại Có Múa Lân?

Nguồn gốc của tục múa lân?

Phong tục múa lân bắt nguồn từ Trung Quốc. Hình ảnh con lân đã được người Trung Quốc thờ trong Thái Miếu ngay từ thời Khổng Tử và xếp vào bộ tứ linh là Long – Lân – Quy – Phụng.

Theo truyền thuyết của nước này, vào thuở khai thiên lập địa có một con thú ăn thịt người năm nào cũng đến rằm tháng Tám là xuất hiện, tác oai tác quái, làm cho dân làng hoảng sợ. Bỗng, ngày nọ có một nhà sư đến giúp dân trừ ác thú. Nhà sư cho một đệ tử bụng to, mặc bộ đồ đỏ rực, tay cầm chiếc quạt thần phất liên tục để xua ác thú và một số đệ tử khác thì gióng trống khua chiêng dồn dập, làm con ác thú khiếp đảm bỏ chạy.

Từ truyền thuyết đó, người Trung Quốc cải biên nhiều lần, cuối cùng đã biến con ác thú trở thành con lân, đệ tử bụng to trở thành ông địa và số đệ tử gióng trống khua chiêng trở thành những người đánh trống, đánh xập xèng trong một đội múa lân. Ngày rằm tháng Tám hãi hùng trong truyền thuyết trở thành ngày Tết Trung thu của trẻ em. Tết Trung thu kéo dài nhiều ngày vào thời điểm giữa tháng Tám âm lịch hàng năm và múa lân là hoạt động chính trong dịp tết này.

Dần dần, phong tục múa lân và Tết Trung thu phát triển sang nhiều nước khác. Kiểu múa cổ nhất là múa kỳ lân. Đầu kỳ lân có 3 dạng chính: miêu hình, hổ hình và hổ báo hình. Độ to nhỏ của đầu lân và mình lân tuỳ theo kích thước của người múa lân. Còn quy mô thiết kế, chất liệu, thẩm mỹ thì phụ thuộc vào khả năng tài chính của những người tổ chức.

Ý nghĩa của phong tục múa lân vào Tết trung thu

Múa lân trung thu không chỉ là phong tục, là ý nghĩa nghệ thuật mà còn là sự tranh tài giữa các đội lân với nhau. Tùy theo không gian rộng hẹp, các dịp lễ mà lân có những bài biểu diễn khác nhau. Người ta có thể kết hợp nhiều lân, rồng với nhau để tạo hình múa lân ấn tượng, bắt mắt.

Thường múa Lân sẽ được tổ chức vào đêm 14 và đêm 15. Đội múa Lân gồm có một người đội chiếc đầu lân và chỉ huy cả đội múa những điệu bộ của con vật này theo nhịp trống. Con Lân tượng trưng cho điềm lành vì vậy múa Lân đêm trung thu là ước mong cho những điềm lành đến với mọi nhà.

Cách thức múa lân hiện nay

Xưa kia, lân chỉ múa trên mặt đất, ngày nay lân còn múa trên các giàn sắt cao với nhiều động tác cực kỳ ngoạn mục. Từ múa lân, nhiều nơi còn tạo dựng thành múa sư tử, múa rồng. Ở nước ta những năm gần đây, Hội thi múa lân trong dịp rằm tháng tám được tổ chức rất tưng bừng tại nhiều địa phương, cơ quan, đơn vị. Những con lân được trang trí rất đẹp mắt, nhảy múa theo kịch bản với sự luyện tập hết sức công phu khó nhọc.

Hiện nay người ta thường múa lân (miền Bắc gọi là múa sư tử) vào trước tết Trung Thu nhưng nhộn nhịp nhất là hai đêm 14 và 15. Múa sư tử thì khác múa lân, người múa núp kín thân mình trong bụng sư tử giả và sư tử thì không có sừng. Một tiết mục múa sư của người Hoa gồm 4 người: 2 người múa, 1 người đánh trống, 1 người cầm quả cầu. Trống trong múa sư được đánh theo nhịp khác với múa lân, người ta gọi nhịp trống trong múa sư là nhịp trống Bắc Kinh.

Trong quá trình biểu diễn múa lân, tiếng trống giữ vai trò chủ đạo. Khi lân múa: nhịp trống nhanh, lân quỳ: nhịp trống chậm lại, lân ngủ: nhịp trống thưa và nhẹ, lân thức dậy: nhịp trống rộn ràng, lân vượt chướng ngại hay ngoạm cờ, ngoạm tiền vào miệng: tiếng trống nhanh, mạnh, liên hồi… Ông địa có vai trò hết sức quan trọng và dễ gây ấn tượng với những động tác như địa chào, địa làm hề, địa dắt lân… Có những ông địa nói lời chào hay, khiến gia chủ rất vui. Chẳng hạn: “Nay lân vào đuổi tà ma/Cho cửa nhà lộc đỏ, cho trái hoa chín vàng/Chúc cho gia chủ bình an/Học hành đỗ đạt, mùa màng bội thu”.

Tết Trung Thu Ở Việt Nam Là Gì ?

Trung thu là giữa mùa thu, Tết Trung Thu như tên gọi đến với chúng ta vào đúng giữa mùa thu tức là vào rằm (ngày 15) tháng Tám âm lịch. Tết Trung Thu tại Việt Nam không biết có tự bao giờ, không có sử liệu nào nói rõ về gốc tích của ngày lễ rằm tháng Tám. Nhiều người cho rằng đây là một nét văn hóa du nhập từ Trung Quốc trong thời gian Việt Nam bị phương Bắc đô hộ. Nhà văn Toan Ánh trong quyển “Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam Quyển Hạ” cho rằng: Theo sách cổ thì Tết Trung Thu bắt đầu từ đời nhà Ðường, thời vua Duệ Tôn, niên hiệu Văn Minh.

Năm ấy vào đêm khuya rằm tháng tám, gió mát, trăng tròn thật đẹp, trong khi ngự chơi ngoài thành, nhà vua gặp một vị tiên giáng thế trong lốt một ông lão đầu bạc phơ như tuyết. Vị tiên hóa phép tạo một chiếc cầu vồng, một đầu giáp cung trăng, một đầu chám mặt đất, và nhà vua trèo lên cầu vồng đi đến cung trăng và dạo chơi nơi cung Quảng. Trở về trần thế, vua luyến tiếc cảnh cung trăng đầy thơ mộng, nhà vua đặt ra tết Trung Thu. Trong ngày tết này, lúc đầu chỉ uống rượu trông trăng nên còn gọi là Tết Trông Trăng.

Cúng trăng (Tế nguyệt)

Tết trung thu

Trong đêm 15 tháng 8 âm lịch hằng năm, khi trăng rằm tỏa sáng, lễ tế thần mặt trăng bắt đầu. Trên bàn thờ có hoa quả, có bánh hình mặt trăng còn gọi là bánh “đoàn viên”, bởi lẽ, trong dịp này, cả gia đình có dịp đoàn tụ để cùng ăn bánh và cùng thưởng thức ánh trăng thu trong trẻo và bầu không khí ấm áp của đêm rằm đến với mọi nhà.

Ngắm trăng (Thưởng nguyệt)

Còn thưởng trăng vốn bắt nguồn từ việc cúng trăng. Đến đời Đường, thú ngắm trăng dịp Trung thu trở nên thịnh hành, thể hiện nhiều trong thơ ca thời này. Nhưng đến đời Tống, lễ hội ngắm trăng mới chính thức trở thành Tết Trung thu. Tục lệ ăn bánh hình mặt trăng (bánh nướng, bánh dẻo) trong dịp Tết Trung thu cũng bắt đầu từ thời này.

Rước đèn tết trung thu

Tết Trung Thu là tết của trẻ em. Ngay từ đầu tháng, Tết đã được sửa soạn với những cỗ đèn muôn mầu sắc, muôn hình thù, với những bánh dẻo, bánh nướng mà ta gọi gồm là bánh trung thu, với những đồ chơi của trẻ em muôn hình vạn trạng, trong số đó đáng kể nhất của thời xưa là ông Tiến sĩ giấy.

Trẻ em đón tết có đèn xếp, đèn lồng, đèn ông sao, đèn con giống… sặc sỡ thắp sáng kéo nhau đi từng đoàn ca hát vui vẻ, tối tối cùng nhau đi nhởn nhơ ngoài đường, ngoài ngõ. Và khi rằm tới, có những đám múa sư tử với tiếng trống, tiếng thanh la thật náo nhiệt. Trong dịp này, để thưởng trăng có rất nhiều cuộc vui được bày ra. Người lớn có cuộc vui của người lớn, trẻ em có cuộc vui của trẻ em.

Thi cỗ và thi đèn

Trong ngày Tết Trung Thu người ta bày cỗ với bánh trái hình mặt trăng, treo đèn kết hoa, nhảy múa ca hát, múa lân rất tưng bừng. Nhiều nơi có những cuộc thi cỗ, thi làm bánh của các bà các cô. Trẻ em có những cuộc rước đèn và nhiều nơi có mở cuộc thi đèn. Nhiều gia đình bày cỗ riêng cho trẻ em và trong mâm cỗ xưa thường có ông tiến sĩ giấy đặt ở nơi cao đẹp nhất, xung quanh là bánh trái hoa quả. Sau khi chơi cỗ trông trăng, các em cùng nhau phá cỗ, tức là ăn mâm cỗ lúc đã khuya.

Hát Trống quân

Tết Trung Thu ở miền Bắc còn có tục hát trống quân. Ðôi bên nam nữ vừa hát đối đáp với nhau, vừa đánh nhịp vào một sợi dây gai hoặc dây thép căng trên một chiếc thùng rỗng, bật ra những tiếng “thình thùng thình” làm nhịp cho câu hát. Những câu hát vận (hát theo vần, theo ý) hoặc hát đố có khi có sẵn, có khi lúc hát mới ứng khẩu đặt ra. Cuộc đối đáp trong những buổi hát trống quân rất vui và nhiều khi gay go vì những câu đố hiểm hóc. Trai gái dùng điệu hát trống quân để hát trong những đêm trăng rằm, nhất là vào rằm tháng tám. Trai gái hát đối đáp với nhau vừa để vui chơi vừa để kén chọn bạn trăm năm. Người ta dùng những bài thơ làm theo thể thơ lục bát hay lục bát biến thể để hát. Tục hát trống quân, theo truyền thuyết, có từ thời vua Lạc Long Quân đời Hồng Bàng. Tết Trung Thu của người Hoa không có phong tục này.

Múa Sư tử (múa lân)

Vào dịp Tết Trung Thu có tục múa Sư tử còn gọi là múa Lân. Người Hoa hay tổ chức múa lân trong dịp Tết Nguyên Đán. Người Việt lại đặc biệt tổ chức múa Sư Tử hay Múa Lân trong dịp Tết Trung Thu. Con Lân tượng trưng cho điềm lành. Người Trung Hoa không có những phong tục này. Người ta thường múa Lân vào hai đêm 14 và 15. Ðám múa Lân thường gồm có một người đội chiếc đầu lân bằng giấy và múa những điệu bộ của con vật này theo nhịp trống. Ðầu lân có một đuôi dài bằng vải màu do một người cầm phất phất theo nhịp múa của lân. Ngoài ra còn có thanh la, não bạt, đèn màu, cờ ngũ sắc, có người cầm côn đi hộ vệ đầu lân… Ðám múa Lân đi trước, người lớn trẻ con đi theo sau. Trong những ngày này, tại các tư gia thường có treo giải thưởng bằng tiền ở trên cao cho con lân leo lên lấy.

Trẻ em thì thường rủ nhau múa Lân sớm hơn, ngay từ mùng 7 mùng 8 và để mua vui chứ không có mục đích lĩnh giải. Tuy nhiên có người yêu mến vẫn gọi các em thưởng cho tiền. Ngoài ý nghĩa vui chơi cho trẻ em và người lớn, Tết Trung Thu còn là dịp để người ta ngắm trăng tiên đoán mùa màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng thì năm đó sẽ trúng mùa tằm tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có thiên tai, và nếu trăng thu màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị v.v. Người Trung Hoa không có phong tục này.

Sự Khác Nhau Giữa Tết Trung Thu Trung Quốc Và Việt Nam

Tết Trung Thu hay còn gọi là Tết Nguyên Tiêu. Không chỉ diễn ra ở Việt Nam mà cái tết này diễn ra nhiều nước ở Châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản hay Hàn Quốc…với nhiều nghi lễ khác biệt nhau.

Tết Trung Thu hay còn gọi là Tết Nguyên Tiêu. Không chỉ diễn ra ở Việt Nam mà cái tết này diễn ra nhiều nước ở Châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản hay Hàn Quốc…với nhiều nghi lễ khác biệt nhau.

Tương truyền, tết trung thu có nguồn gốc từ Trung Quốc sau đó du nhập vào Việt Nam. Chuyện kể rằng, từ thời vua Đường Minh Hoàng (713-741 Tây Lịch) đi dạo chơi vườn Ngự Uyển vào đêm rằm tháng 8 âm lịch. Ngày rằm trăng tròn vành vạnh, sáng trong, tiết trời mát mẻ. Đang thưởng thức cảnh đẹp bất ngờ nhà vua gặp đạo sĩ La Công Viễn còn được gọi là Diệp Pháp Thiện. Đạo sĩ đã hóa phép đưa nhà vua lên cung trăng. Ở đấy, cảnh còn đẹp hơn cả trần thế, nhà vùa vui chơi hưởng lạc cùng các nàng tiên xinh đẹp múa hát đến lúc quên cả về. Sau khi trở lại dân gian thì vua vẫn còn luyến tiếc.

Sau đó, để nhớ đến ngày được lên cung trăng, nhà vua lệnh cho ra đời Khúc Nghê Thường Vũ Y và cứ đến đêm rằm tháng 8 hàng năm khắp mọi nơi lại tổ chức rước đèn và bày tiệc ăn mừng trong khi nhà vua cùng với Dương Quí Phi uống rượu dưới trăng ngắm đoàn cung nữ múa hát để kỷ niệm.

Bất đầu từ đây thì tết trung thu hay tết nguyên tiêu ra đời và được tổ chức hàng ngày vào ngày 15.8 (Âm lịch). Trong tiếng Trung, “Nguyên” có nghĩa là đầu tiên, “Tiêu” có nghĩa là mặt trăng, “tết Nguyên Tiêu” nghĩa là đêm rằm đầu tiên của năm mới.

Trung thu Trung Quốc và Việt Nam đều là lễ hội lớn và có tổ chức rước đèn trong đêm rằm.

Ý nghĩa tết trung thu Trung Quốc và Việt Nam

Ngày hội tết trung thu Trung Quốc

Dù bất cứ truyền thuyết nào đi chăng nữa thì ở Trung Quốc từ “trung thu” được xuất hiện lần đầu tiên trong nghi thức của người Chu tức Chu Nguyên Chương (1328-1398). Trong những ngày lễ hội các gia đình sẽ bày tiệc ngắm trăng, trẻ em được tham gia chơi nhiều trò chơi như rước đèn cá chép, đèn kéo quân, múa lân, người lớn coi đêm Rằm tháng Tám là đêm của thơ ca, hẹn hò đôi lứa.

Tết trung thu Trung Quốc vào đêm rằm có nhiều hoạt động sôi nổi như:

Người Trung Quốc cổ đại luôn tin rằng, có một sự liên kết mật thiết giữa Mặt trăng và nước. Vốn từ trong một truyền thuyết của người Choang ở Trung Quốc, Mặt trăng và Mặt trời được xem là cặp vợ chồng và các ngôi sao là con cái. Người ta liên tưởng rằng, lúc trăng tròn nhất là lúc mặt trăng đang mang thai, sau khi sinh con xong, Mặt trăng sẽ bị khuyết đi và có hình lưỡi liềm. Và điều đặc biệt từ câu chuyện này mà khiến người Choang tin rằng, phụ nữ có vị trí hết sức quan trọng và phải được tôn vinh vào ngày Rằm tháng 8 – khi Mặt trăng tròn và sáng nhất trong năm.

Vào đêm rằm mọi người thường đi ngắm trăng bởi trong năm ngày rằm tháng 8 trăng tròn vành vạnh, sáng và đẹp nhất.

Người dân Trung Quốc có tục lệ ăn bánh trung thu. Ban đầu những chiếc bánh tạo ra để làm vật cúng tế thần mặt trăng, sau này chúng trở thành một món ăn không thể thiếu trong ngày tết này. Bánh để ăn, biếu người thân trong gia đình, đãi khách….Cũng chính vì thể mà tết trung thu còn gọi tên khác nữa là “tết đoàn viên”.

Đêm rằm những cô nàng thiếu nữ sẽ có lễ cúng trăng với mong muốn mình có vẻ đẹp thanh cao, thuần khiết như Hằng Nga, trắng sáng lung linh vĩnh cửu tựa như mặt trăng tròn.

Đây là một trong những hoạt động ý nghĩa mà được mọi người mong chờ đặc biệt là thiếu nữ với em nhỏ. Những chiếc đèn hoa đăng lung linh được thả trôi ra ngoài sông được làm từ giấy dầu thiết kế hình hoa sen hay chiếc thuyền…thắp nến ở giữa. Chiếc thuyền trôi ra xa mang theo bao ước nguyện tâm linh, ai cũng mong muốn chiếc đèn của mình bay xa để những điều ước trở thành hiện thực.

Vào lễ tết trung trung thu mọi người còn đi rước đèn, giải câu đố vô cùng thú vị, không khí nô nước, náo nhiệt từ người gia cho tới em nhỏ.

Ngày hội tết trung thu Việt Nam

Có nguồn gốc từ Trung Quốc sau được du nhập vào Việt Nam, không những vậy văn hóa nước ta cũng chịu nhiều ảnh hưởng của Trung Quốc vì thế rằm trung thu khá giống nhau, diễn ra vào ngày 15.8 (Âm Lịch) không khí vui tươi, náo nhiệt trên khắp cả nước.

Theo truyền thuyết kể lại rằng, tết trung thu có từ thời nhà Lý, ban đầu chỉ tổ chức ở kinh thành Thăng Long với hội đua thuyền, múa rối nước và rước đèn. Người Việt tâm niệm cứ đến ngày này là lúc những người nông dân tạ ơn Rồng đã mang mưa tới cho mùa màng bội thu.

Các hoạt động diễn ra

Khi tết trung thu đến mọi người sẽ làm bánh, biếu người thân những hộp bánh ngon, trẻ em được tổ chức những trò chơi vui rước đèn, bày cỗ, phá cỗ…dưới ánh trăng sáng trong. Người lớn thi nhau bày những mâm cỗ đẹp nhất bày tỏ lòng thành kính dâng lên trời đất.

Lễ rước đèn là hoạt động được yêu thích nhất. Trẻ em sẽ cầm trên tay những chiếc đèn lồng xinh xắn làm từ tre và giấy gió hay bọc vải lụa cùng với những họa tiết như hoa đào, hoa mai, công phượng… dưới thời nhà Lý. Đèn lồng là sự biểu hiện của ấm no, hạnh phúc và tình cảm gia đình ấm áp, quây quần bên nhau.

Tết trung thu Trung Quốc và Việt Nam khá giống nhau nhưng mỗi nơi đều có giá trị khác nhau phù hợp với thuần phong mỹ tục của đất nước, hướng tới những điều tốt đẹp. Bài viết phần nào giúp mọi người có cái nhìn cơ bản về sự khác nhau giữa tết trung thu ở Trung Quốc và ở Việt Nam.