Top 6 # Tại Sao Gọi Là Gà Ác Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Sansangdethanhcong.com

Gà Ác Là Gà Gì? Tìm Hiểu Những Thông Tin Về Gà Ác

Gà ác còn có một số tên gọi khác như: gà đen, gà ngũ trảo, gà chân chì, ô cốt kê… tên tiếng Anh của gà ác là Gallus gallus domesticus brisson.

Một đặc điểm khác khá thú vị là chân gà ác có 5 ngón trong khi chân gà bình thường có 4 ngón.

Giống gà ác lông đen

Gà ác có trọng lượng nhỏ, thông thường chỉ từ 200 đến 300g. Thịt gà ác ngon nhất là gà 4 – 5 tuần tuổi. Có nuôi thêm thì trọng lượng cũng không tăng.

Quê hương của gà ác ở đồng bằng sông Cửu Long, được nuôi tự nhiên và thả rông. Nhưng hiện tại gà ác đã được nuôi ở nhiều vùng miền, được chế biến và xuất khẩu sang cả nước ngoài.

Giống gà ác lông trắng

Cần tránh nhầm lẫn gà ác với một số loại gà khác như gà tre, gà đen của đồng bào H’Mông. Trên thị trường hiện nay, tại một số chợ ở phía Bắc có bày bán khá nhiều loại gà nặng từ 600 đến 700g – được giới thiệu được gà ác Trung Quốc. Tuy nhiên, gà ác Trung Quốc với thương hiệu gà Tây Hoa hay còn gọi là gà ô kê – là một loại gà đặc sản thường được làm quà biếu cho các chính khách ngoại giao nên thật khó để tin rằng chúng lại xuất hiện tại các chợ.

Loại gà Tây Hoa này lại lớn có trọng lượng từ 1,8 cho đến 2kg nên những loại gà có trọng lượng từ 600 đến 700g xuất hiện tại các chợ rất có khả năng là gà ác lậu có nguồn gốc không rõ ràng.

Thành phần dinh dưỡng của gà ác

Thịt gà ác được cho là chứa nhiều thành phần dinh dưỡng hơn gà thường. Đặc biệt có chất carnosine – chất này có tác dụng giúp cho hệ miễn dịch của con người chống lại sự xâm nhập của nhiều loại bệnh. Thịt gà ác chứa nhiều protein, ít lipid, ít chất béo và hàm lượng cholesterol thấp. Lượng protein trong gà ác từ 21,9 đến 24,6%, hàm lượng mỡ từ 0,6 cho đến 2%.

Gà ác không dùng để chế biến thành các món ăn thông dụng trong bữa cơm gia đình mà thường được dùng để nấu thành các món ăn với mục đích tẩm bổ. Món thông dụng nhất từ gà ác là món gà ác Tần hay còn gọi là gà tiềm thuốc bắc. Thời xưa, món ăn này chỉ có vua chúa mới được dùng.

Gà tần thuốc bắc có khá nhiều công dụng đối với sức khỏe như: giảm tiểu đường trong máu, chống lão hóa, chống loãng xương, giảm khả năng suy thận và tăng cường khí huyết. Do đó rất tốt cho người mới ốm dậy, đặc biệt là phụ nữ có thai và sau khi sinh.

Theo đông y gà ác có vị ngọt, mặn, tính bình, hơi ấm, vị thơm, không có độc, có tác dụng bổ gan thận, bổ huyết, điều kinh hoạt huyết, chữa rong huyết… nên còn được gọi là ” gà thuốc“.

https://www.tienphong.vn/am-thuc/giong-ga-ac-gia-52-trieu-dongcon-645606.tpo

https://vi.wikipedia.org/wiki/G%C3%A0_%C3%A1c

>> Cách làm gà ác tiềm thuốc bắc cho bà bầu mềm ngọt bổ dưỡng

Tại Sao Lại Gọi Là Răng Khôn?

Tại sao lại gọi là răng khôn?

Răng khôn là răng như thế nào?

Răng khôn là răng mọc cuối cùng. Thường mọc ở độ tuổi từ 17 – 25 tuổi, là lứa tuổi trưởng thành về mặt trí tuệ nên được gọi là răng khôn chứ không phải nhờ răng này mà khôn hơn, thông minh hơn.

Biểu hiện của răng khôn

– Cơn đau dữ dội tỏa ra về phía mắt, tai hoặc đầu.

– Đau nhói nướu răng ở trong cùng. 

– Đau hàm hoặc đau ở mặt sau miệng. 

– Nướu bị sưng hoặc viêm. 

– Đau đầu dai dẳng hoặc đau tai.

Ngoài ra chúng cũng thường gây sưng, viêm, hơi thở hôi rất khó chịu.

Các thực phẩm nên và không nên ăn khi đau răng khôn

Khi mọc loại răng này, bạn nên tiêu thụ những loại thực phẩm mềm, dễ tiêu. Và nếu đau răng thì cần phải lựa chọn kĩ hơn. Bạn có thể dùng súp, cháo để thay thế cho cơm và bổ sung thêm chất dinh dưỡng, vitamin thông qua sữa chua, sinh tố, nước ép…

Uống nhiều nước và hạn chế nhai mạnh, cử động miệng nhiều để không ảnh hưởng đến vết thương. Bên cạnh đó, cần tránh thực phẩm cay nóng, thực phẩm chứa nhiều đường để không làm tình trạng viêm nhiễm nghiêm trọng hơn.

Vậy có nên nhổ răng khôn hay không?

Hiện nay, loại răng này còn gây nhiều tranh cãi bởi chức năng của nó không rõ ràng nhưng những phiền toái do nó mang lại thì rất phổ biến. Thông thường khi mọc răng khôn hàm dưới hay có nhiều biến chứng hơn mọc hàm trên. Do mọc sau cùng, phía trước có răng số 7, phía sau có cành lên xương hàm dưới nên răng khôn hàm dưới có thể bị thiếu chỗ dẫn đến mọc lệch, mọc ngầm, không được ngay ngắn. Khi mọc răng khôn, nếu có dấu hiệu bất thường, gây phiền toái, bạn nên đến cơ sở nha khoa để được tư vấn và chữa trị. Hiện nay, chưa có thống nhất chính thức về việc nên hay không nên nhổ răng này.

Ung Thư Là Gì? Tại Sao Bệnh Được Gọi Là K?

Cụ thể, các tế bào trong cơ thể con người lớn lên và phân chia để hình thành tế bào mới. Đây là cách thức mà cơ thể trưởng thành và phát triển. Thông qua cơ chế này, các tế bào cũ sẽ “chết theo chương trình” (Apoptosis) và được thay thế bằng tế bào mới. (Apoptosis – Vốn là cách cơ thể đào thải những tế bào không cần thiết)

Tuy nhiên, khi tế bào ung thư xuất hiện thì quy tắc trong quá trình tự nhiên này bị phá vỡ. Các tế bào dần trở nên bất thường, không dần chết đi mà tiếp tục sản sinh các tế bào bị lỗi khác, với việc nhân lên không thể kiểm soát nó sẽ tạo thành khối u bất thường. Đồng thời, các khối u này cũng được chia ra thành 2 loại đó là ác tính và lành tính.

Vậy khối u ác tính và lành tính khác nhau ở đâu?

Khối u của ung thư có tính ác tính, nghĩa là nó có thể xâm lấn ra xung quanh, gọi là di căn. Thông qua hệ thống tuần hoàn trong cơ thể. Các tế bào của bệnh có thể di chuyển và hình thành nên một khối u mới tách biệt với khối u ban đầu.

Các khối u lành tính không có tính xâm lấn giống ác tính, mặc dù có thể kích thước nó rất lớn. Đặc biệt ta có thể điều trị bệnh bằng cách cắt bỏ khối u này với tỷ lệ tái phát cực kỳ thấp. So với trường hợp u ác tính, u lành tính không phải lúc nào cũng vô hại. Điển hình là u não lành tính có thể đe dọa đến tính mạng của người mắc phải bệnh này.

Đây là một số trường hợp mô tế bào thay đổi nhưng không phải do ung thư gây nên :

– Tăng sản: Về mặt giải phẫu của bệnh, tổ chức mô và tế bào vẫn bình thường. Việc này xảy ra khi các tế bào trong mô phân chia nhanh hơn. Nên tăng sản có nhiều nguyên nhân, điều kiện gây nên và bao gồm một số kích thích mãn tính.

– Loạn sản: Tình trạng này có tính chất nghiêm trọng hơn so với tăng sản. Các mô và tế bào trở nên bất thường và tăng nhanh nên khả năng ung thư là rất cao. Ví dụ: nốt ruồi bất thường trên da (loạn sản hắc tố).

– Carcinoma in situ: Về bản chất, đây không phải là bệnh ung thư như mọi người vẫn thường nói. Bởi vì những tế bào này sẽ không xâm lấn khỏi mô khởi đầu như thông thường. Dù vậy nhưng Carcinoma-in-situ dễ tiến triển thành bệnh nên cần được phát hiện và điều trị kịp thời.

Tại sao gọi tắt bệnh là K?

K là viết tắt hoặc nói tắt về căn bệnh khó điều trị nhất hiện nay là ung thư. Trong tiếng anh bệnh được viết là “Cancer” – dịch sang tiếng Việt là ung thư. Phiên âm của từ này là /ˈkansər/, âm K đứng đầu trong cách phát âm thay vì âm C. Do đó hầu hết mọi người sẽ gọi ung thư là K thay cho cách gọi thông thường.

Bạn có thắc mắc rằng sao không gọi như bình thường mà phải là K?

Sở dĩ gọi là K, vì bác sĩ không muốn ảnh hưởng đến sức khỏe, tinh thần của bệnh nhân ngày càng đi xuống. Do đó, để việc điều trị thuận lợi nhất thì bác sĩ phải đảm bảo bí mật của bệnh và gọi tắt là K.

Tại Việt Nam có một hệ thống bệnh viện K chuyên khoa về điều trị ung thư, ung bướu,.. Do đó, hầu hết mọi người cũng thường quen với cách gọi bệnh là K.

Hiv Là Gì? Tại Sao Lại Gọi Là Căn Bệnh Thế Kỷ?

HIV là gì?

Virus nhiễm HIV.

HIV là viết tắt của “Human immunodeficiency virus”, một loại virus tấn công hệ miễn dịch, đặc biệt là tế bào bạch cầu CD4 hay tế bào T. Virus này truyền từ người sang người qua các dịch cơ thể như máu, tinh trùng, dịch âm đạo… Trong lịch sử, HIV chủ yếu lây lan qua quan hệ tình dục không an toàn, dùng chung kim tiêm và từ mẹ sang con.

Theo thời gian, HIV phá hủy nhiều tế bào CD4 đến mức cơ thể không thể chống lại viêm nhiễm và bệnh tật, dẫn tới giai đoạn nặng nhất của bệnh: Hội chứng suy giảm miễn dịch hay AIDS. Người mắc AIDS thường không có khả năng chống chọi với các loại bệnh và có thể tử vong vì bệnh viêm nhiễm thông thường như viêm phổi. Nhiễm virus HIV là một hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người, khiến người bệnh trở nên dễ mắc ung thư và nhiễm trùng nghiêm trọng, gây tử vong dễ dàng.

Điều khiến HIV đáng sợ là chúng có khả năng tiến hóa liên tục, khiến việc tìm ra vắc-xin phòng chống loại virus này gần như là không thể.

HIV lây qua những con đường nào?

HIV chủ yếu được truyền qua các con đường:

Truyền máu trực tiếp từ người bị bệnh HIV sang người bình thường chính là đường lây lan HIV nhanh nhất. Tuy nhiên, trường hợp này rất hiếm gặp bởi trước khi lấy máu phải qua quá trình xét nghiệm xem có đủ điều kiện truyền hay không. Thông thường, HIV lây truyền qua sử dụng chung bơm kim tiêm bị nhiễm virus không được diệt trùng đúng cách, đặc biệt ở người nghiện chích ma túy. Virus HIV có trong máu của bệnh nhân, khi tiêm chích làm kim tiêm có chứa máu nhiễm HIV. Sau đó kim này không được vệ sinh sạch sẽ lại dùng tiêm cho người khác, dẫn đến lây virus.

Quan hệ tình dục: Đây là phương thức lây phổ biến nhất trên thế giới. Người mang virus HIV khi quan hệ tình dục sẽ lây truyền cho bạn tình. Tỷ lệ lây nhiễm HIV cho mỗi lần quan hệ không bảo vệ ước tính 0,1% đến 1%. Tỷ lệ này sẽ gia tăng theo tần suất quan hệ. Quan hệ tình dục có bảo vệ bằng bao cao su vẫn có nguy cơ lây nhiễm HIV nhưng tỷ lệ thấp hơn. Bao cao su làm tăng độ an toàn lên đến 90-95% nếu thực hành đúng cách. Quan hệ bằng miệng ít có khả năng lan truyền bệnh hơn. Tuy nhiên, trong miệng có lở xước hay chảy máu răng mà không biết thì HIV vẫn có khả năng lây bệnh.

Truyền từ mẹ sang con: Mẹ nhiễm virus HIV sinh con có 30% khả nǎng lây nhiễm do nhận dinh dưỡng qua nhau thai, qua máu… Nên thực hiện xét nghiệm khi trẻ 6-12 tháng tuổi sau sinh, lúc này trong máu của bé không còn giữ những kháng thể của mẹ. Tuổi đời của trẻ dương tính với virus HIV chỉ kéo dài đến khoảng 3 năm.

Tuy nhiên, HIV không lây qua các con đường:

Dấu hiệu chứng tỏ bạn đã nhiễm HIV

Giai đoạn đầu tiên (hay giai đoạn cửa sổ) là nhiễm trùng cấp tính, thường từ 2-6 tuần sau khi tiếp xúc hoặc bị lây nhiễm. Lúc này, người bệnh có một vài triệu chứng sớm để nhận biết.

Giai đoạn thứ 2, người bệnh không xuất hiện bất cứ triệu chứng nào. Giai đoạn này kéo dài, thậm chí nhiều năm. Ở giai đoạn cuối, người bệnh chuyển sang AIDS với nền tảng suy giảm miễn dịch nặng, với rất nhiều bệnh nhiễm trùng cơ hội.

Sốt: Dấu hiệu đầu tiên của giai đoạn cửa sổ có thể là sốt nhẹ, khoảng 38,8 độ C. Khi sốt thường đi kèm các triệu chứng khác như mệt mỏi, đau họng. Lúc này, virus đi vào mạch máu và bắt đầu nhân lên với số lượng lớn nên gây ra phản ứng kích thích ở hệ miễn dịch.

Mệt mỏi: Đây là dấu hiệu sớm hoặc muộn của HIV. Phản ứng của hệ miễn dịch cũng có thể khiến người bệnh cảm thấy mệt khác thường và buồn ngủ.

Đau nhức người: Người bệnh thường cảm thấy đau cơ, khớp, sưng hạch bạch huyết. Giai đoạn cửa sổ thường bị nhầm với cúm hoặc các nhiễm trùng khác.

Đau họng, đau đầu: Đây cũng là hai dấu hiệu thường gặp ở giai đoạn cửa sổ. Nếu người bệnh có các hành vi khiến việc lây nhiễm có thể xảy ra, nên xét nghiệm HIV lúc này bởi đây là giai đoạn virus dễ lây lan nhất. Lúc này cơ thể chưa tạo ra kháng thể chống lại HIV, vì thế xét nghiệm kháng thể có thể không thấy. Người bệnh nên chọn cách phát hiện ARN virus, nhất là trong vòng 9 ngày sau khi nhiễm.

Buồn nôn, tiêu chảy: Khoảng 30-60% người bệnh có buồn nôn, nôn hoặc tiêu chảy ngắn hạn trong giai đoạn sớm của bệnh HIV. Theo khuyến cáo của bác sĩ, để biết kết quả chính xác nhất một người có bị HIV hay không, cách duy nhất là xét nghiệm. Trường hợp chắc chắn có nguy cơ phơi nhiễm, người bệnh ngay lập tức nên uống thuốc chống phơi nhiễm, trước khi dương tính với HIV.

Tại sao lại gọi là căn bệnh thế kỷ

HIV/AIDS căn bệnh không trừ một quốc gia.

Ca nhiễm HIV đầu tiên được xác định vào năm 1959, từ mẫu máu của một người đàn ông ở vùng hiện tại là Kinshasa ở Cộng hòa Congo. Mẫu máu được phân tích và phát hiện ra virus HIV. Trước đó, nhiều trường hợp đã tử vong vì những bệnh bình thường cho thấy có thể HIV là nguyên nhân, nhưng đây là lần đầu tiên mẫu máu khẳng định bệnh nhân nhiễm loại virus này.

Theo số liệu của Quỹ Toàn cầu chống AIDS, lao và sốt rét, hiện 37,9 triệu người vẫn sống chung với HIV/AIDS và số ca mắc mới vẫn gia tăng ở khoảng 50 quốc gia. Gần 1.000 trẻ em gái và phụ nữ bị nhiễm HIV mỗi ngày. Các chuyên gia cảnh báo nếu không ngăn chặn tình trạng này nó sẽ lây nhiễm nhiều hơn nữa đặc biệt ở độ tuổi thanh thiếu niên.

Việc thiếu hụt nguồn lực cho công tác phòng chống HIV nên độ bao phủ của các dịch vụ còn thấp, đặc biệt là đối với các nhóm nguy cơ cao thì hiện nay độ bao phủ dịch vụ đối với họ mới hơn 35%. Số bệnh nhân cần được điều trị đặt mục tiêu 90% thì hiện nay chúng ta mới đạt hơn 50%…

Một yếu tố nữa khiến công tác phòng chống HIV/AIDS còn nhiều khó khăn là ngành y tế hiện đang sáp nhập hệ thống các cơ sở y tế tuyến huyện, tuyến tỉnh. Sự sáp nhập này làm thay đổi tổ chức hệ thống ở các tuyến, cũng làm ảnh hưởng đến kết quả phòng chống dịch.

Chung tay vì đại dịch thế kỷ.

Để thực hiện tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, hướng tới mục tiêu kết thúc đại dịch AIDS vào năm 2030, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến yêu cầu Giám đốc Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tăng cường công tác phòng, chống HIV/AIDS.

Các chính sách hỗ trợ.

Các đơn vị cần đẩy mạnh hoạt động dự phòng lây nhiễm HIV, đặc biệt là phân phát bơm kim tiêm và bao cao su cho các nhóm nguy cơ cao; tiếp tục duy trì và tích cực mở rộng điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế Methadone.

Bên cạnh đó, ngành y tế và các địa phương cần đẩy mạnh truyền thông, chống kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS; tăng cường phối hợp liên ngành và huy động xã hội tham gia vào công tác phòng, chống HIV/AIDS.

Sự kỳ thị phân biệt đối xử làm cho những người nhiễm HIV, đặc biệt là những đối tượng có hành vi nguy cơ cao như nghiện ma túy, mại dâm sẽ khiến họ lẩn tránh, không thể tiếp cận với các dịch vụ làm cho dịch bệnh càng tiểm ẩn, lây lan và khó kiểm soát.

Liệu đã có cách để chống lại căn bệnh thế kỷ này

Một nhóm nhà khoa học đa quốc gia đã tìm ra một phát hiện đầy sửng sốt, có thể thay đổi cuộc đời của hàng chục triệu người nhiễm virus HIV.

Thông báo của trường Đại học bang South Ural cho hay phát hiện trên có thể mở ra đường cho một loạt thuốc kháng virus mới, có khả năng chống lại nhiều loại bệnh nguy hiểm, trong đó có HIV. Thống kê cho thấy, có 37,9 triệu người nhiễm AIDS trên toàn thế giới năm 2018. Khoảng 23,3 triệu người được điều trị bằng liệu pháp kháng virus. Số ca mắc HIV mới đã giảm 40% kể từ trận đại dịch năm 1997.

Theo đó, cơ chế tiêu diệt HIV về cơ bản là tách nguyên tử kẽm khỏi các phân tử virus HIV, khiến chúng không thể hoạt động nữa. Qua nghiên cứu, nhóm nhà khoa học đã phát hiện ra các loại thuốc có tiềm năng chống virus mạnh mà không “đầu độc” các tế bào gốc khỏe mạnh, làm giảm tác động xấu đến sức khỏe của bệnh nhân.