Top 5 # Tìm Hiểu Giá Trị Thơ Văn Nguyễn Đình Chiểu Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Sansangdethanhcong.com

Tìm Hiểu Giá Trị Thơ Văn Nguyễn Đình Chiểu

Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho yêu nước nên tình thần đạo đức và nhân nghĩa mang màu sắc Nho giáo. Tuy nhiên nét riêng đó chính là phong cách gần gũi, giản dị, dân dã nên được đông đảo người dân đón nhận. Lí tưởng đạo đức đó là

Trai thời trung hiếu làm đầu Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.

Trung, hiếu, tiết hạnh là những chuẩn mực đạo đức , lễ nghĩa của đạo Nho. Trang nam nhi phải trung với vua, hiếu thảo với cha mẹ, phụ nữ phải có tứ đức. Nhưng sống và sáng tác trong thời đại phong ba bão táo, lại có những tư tưởng gần gũi, gắn bó với nhân dân nên tinh thần nhân nghĩa của ông đậm đà tính nhân dân và truyền thống dân tộc.

Nguyễn Đình Chiểu viết Lục Vân Tiên nhằm truyền đạo đức làm người chân chính qua những tấm gương: lòng thương cha, kính mẹ của Lục Vân Tiên, tình yêu chung thủy của Kiều Nguyệt Nga với Lục Vân Tiên, Hớn Minh, Tử Trực, ông Tiều, ông Ngư.. những con người nhân hậu, thủy chung, dám đấu tranh.

Nguyễn Đình Chiểu sáng tác thơ văn yêu nước ở thời kì đầu chống Pháp xâm lược bảo vệ Tổ quốc. Thơ văn yêu nước của ông là tiếng khóc than cho Tổ quốc buổi đầu gặp thương đau, đồng thời hết lòng ngợi ca những sĩ phu như Trương Định đã một lòng vì nước, vì dân. Ông dựng bức tượng đài bất tử về những người dân ấp, dân lân: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh” (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc). Ngay cả lúc bờ cõi đã chia đất khác, Nguyễn Đình Chiểu vẫn nuôi giữ một niềm tin vào ngày mai: “Một trận mưa nhuần rửa núi sông” (Xúc cảnh), vẫn kiên trì một thái độ bất khuất trước kẻ thù: “Sự đời thà khuất đôi tròng thịt – Lòng đạo xin tròn một tấm gương” (Ngư tiều y thuật vấn đáp)

Lòng yêu nước, thương dân:

Thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu được sáng tác trong hoàn cảnh đất nước đau thương, giặc Pháp xâm lược, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ.

Thơ văn ông ghi lại chân thực một thời đại đau thương của đất nước, khích lệ lòng căm thù giặc và ý chí cứu nước của nhân dân. Đồng thời nhiệt liệt biểu dương những anh hùng nghĩa sĩ đã chiến đấu, hi sinh cho Tổ Quốc:

“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan,Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ”.“Sự đời thà khuất đôi tròng thịt,Lòng đạo xin tròn một tấm gương”.

Ông còn tố cáo tội ác xâm lăng gây bao thảm họa cho nhân dân. Ông khóc than cho đất nước gặp buổi đau thương. Ông căm uất chửi thẳng vào mặt kẻ thù. Ông dựng lên bức tượng đài bất tử về người nông dân nghĩa sĩ.

Như vậy, các tác phẩm đã ghi lại chân thực một thời đau thương của đất nước, khích lệ lòng căm thù giặc và ý chí cứu nước của nhân dân ta, đồng thời nhiệt liệt biểu dương những anh hùng, nghĩa sĩ đã chiến đấu, hi sinh vì Tổ quốc. Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đã đáp ứng xuất sắc những yêu cầu của cuộc sống và chiến đấu đương thời, có tác dụng động viên, khích lệ không nhỏ tình thần và ý chí cứu nước của nhân dân.

Sắc thái Nam Bộ độc đáo trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu:

Thể hiện rõ ở từng nhân vật trong tác phẩm của ông: Lời ăn tiếng nói mộc mạc, bình dị, tâm hồn nồng hậu, chất phác. Họ sống vô tư, phóng khoáng, ít bị ràng buộc bởi những phép tắc, lễ nghi và sẵn sàng xả thân vì nghĩa. Họ nóng nảy, bộc trực nhưng lại rất đằm thắm, ân tình. Đó là những nét rất riêng của người dân Nam Bộ trong vẻ đẹp chung của con người Việt Nam.

Các sáng tác thiên về chất chuyện kể, mang màu sắc diễn xướng rất phổ biến trong văn học dân gian Nam Bộ.

Có nhiều đóng góp, nhất là văn chương trữ tình đạo đức. Bút pháp trữ tình xuất phát từ cõi tâm trong sáng, nhiệt thành, đầy tình yêu thương, nồng đậm hơi thở của cuộc sống.

Bài Học: Tác Giả Nguyễn Đình Chiểu

Nội dung

I. CUỘC ĐỜI Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) nhà Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, sinh tại quê mẹ – làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh). Ông xuất thân trong gia đình nhà nho, cha là Nguyễn Đình Huy, người Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên – Huế), vào Gia Định làm thư lại tại dinh Tổng trấn Lê Văn Duyệt. ở đây, ông lấy bà Trương Thị Thiệt làm vợ thứ, sinh ra Nguyễn Đình Chiểu. Năm 1843, Nguyễn Đình Chiểu đỗ tú tài tại trường thi Gia Định. Năm 1846, ông ra Huế học, chuẩn bị thi tiếp tại quê cha, nhưng lúc sắp vào trường thi thì nhận được tin mẹ mất, phải bỏ thi trở về Nam chịu tang (1849). Dọc đường về, Nguyễn Đình Chiểu bị đau mắt nặng rồi bị mù. Không khuất phục trước số phận oan nghiệt, Nguyễn Đình Chiểu về Gia Định mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân, và tiếng thơ Đồ Chiểu cũng bắt đầu vang khắp miền Lục tỉnh. Khi giặc Pháp đánh vào Gia Định (1859), người trí thức yêu nước Nguyễn Đình Chiểu đã đứng vững trên tuyến đầu của cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, cùng các lãnh tụ nghĩa quân bàn mưu tính kế đánh giặc và sáng tác những vần thơ cháy bỏng căm hờn, sôi sục ý chí chiến đấu. Nam Kì mất, ông ở lại Ba Tri (Bến Tre). Thực dân Pháp tìm mọi cách dụ dỗ, mua chuộc, nhưng ông khảng khái khước từ tất cả, giữ trọn tấm lòng thuỷ chung son sắt với nước với dân cho đến hơi thở cuối cùng. II. SỰ NGHIỆP THƠ VĂN 1. Những tác phẩm chính Nguyễn Đình Chiểu là một trong những nhà thơ đầu tiên ở Nam Kì sáng tác chủ yếu bằng chữ Nôm. Cuộc đời sáng tác của ông chia làm hai giai đoạn, trước và sau khi thực dân Pháp xâm lược. Ở giai đoạn đầu, ông viết hai truyện thơ dài: Truyện Lục Vân Tiên và Dương Từ – Hà Mậu, đều nhằm mục đích truyền bá đạo lí làm người. Đến giai đoạn sau, thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là lá cờ đầu của văn thơ yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX với những tác phẩm xuất sắc về cả nội dung tư tưởng, tình cảm và nghệ thuật như Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trương Định, Thơ điếu Trương Định, Thơ điếu Phan Tòng, Văn tế nghĩa sĩ trận trong Lục tỉnh, Ngư Tiều y thuật vấn đáp (còn gọi là Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca, một truyện thơ dài). Bằng ngòi bút, Nguyễn Đình Chiểu đã suốt đời chiến đấu không mệt mỏi cho đạo đức, chính nghĩa, cho độc lập tự do của dân tộc:

Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà. (Dương Từ – Hà Mậu)

2. Nội dung thơ văn

– Lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa: Nguyễn Đình Chiểu viết Truyện Lục Vân Tiên nhằm mục đích truyền dạy những bài học về đạo làm người chân chính. Đạo lí làm người của Nguyễn Đình Chiểu mang tinh thần nhân nghĩa của đạo Nho, nhưng lại rất đậm đà tính nhân dân và truyền thống dân tộc. Những mẫu người lí tưởng trong tác phẩm là những con người sống nhân hậu, thuỷ chung, biết giữ gìn nhân cách thẳng ngay, cao cả, dám đấu tranh và có đủ sức mạnh để chiến thắng những thế lực bạo tàn, cứu nhân độ thế, như lời của Lục Vân Tiên: “Tôi xin ra sức anh hào – Cứu người cho khỏi lao đao buổi này”. – Lòng yêu nước, thương dân: Khi cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp nổ ra, từ trên đỉnh cao của tư tưởng, tình cảm thời đại là lòng yêu nước thương dân, Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác những tác phẩm đáp ứng xuất sắc yêu cầu của cuộc chiến đấu giữ nước buổi ấy. Thơ văn yêu nước chống Pháp của Nguyễn Đình Chiểu ghi lại chân thực một thời đau thương của đất nước, khích lệ lòng căm thù giặc và ý chí cứu nước của nhân dân ta, đồng thời nhiệt liệt biểu dương những anh hùng nghĩa sĩ đã chiến đấu, hi sinh vì Tồ quốc. Ông tố cáo tội ác giặc xâm lăng gây bao thảm hoạ cho nhân dân (Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ trận trong Lục tỉnh), ông lên án những kẻ sẵn sàng “đổi hình tóc râu” (Ngư Tiều y thuật vấn đáp) để thờ phụng kẻ thù. Ông ngợi ca những sĩ phu yêu nước như Trương Định, Phan Tòng vẫn nặng lòng với hai chữ trung quân nhưng vì đại nghĩa của dân tộc, đã dám chống lại chiếu chỉ nhà vua, phất cao cờ nghĩa, cùng nhân dân chiến đấu đến hơi thở cuối cùng: “Bởi lòng chúng chẳng nghe thiên tủ chiếu, đón ngăn mấy dặm mã tiền; theo bụng dân phải chịu tướng quân phù, gánh vác một vai khổn ngoại” (Văn tế Trương Định). Dưới ngọn cờ đó là đông đảo những người nông dân nghèo khổ, suốt đời “cui cút làm ăn”, bởi “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”, đánh giặc với ý chí: “Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh… Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen…” (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc). Ngay cả trong thất bại, dân tộc này vẫn không bao giờ chịu khom lưng, uốn gối trước kẻ thù. Kì Nhân Sư, người thầy thuốc giỏi trong Ngư Tiều y thuật vấn đáp, dẫu không thể làm gì để cứu vãn tình thế đất nước, vẫn biểu thị tấm lòng kiên trung bất khuất bằng cách tự xông đôi mắt mình cho mù chứ không chịu phụng sự quân giặc để lại cho đời bài học nhân sinh cao cả: “Dù đui mà giữ đạo nhà – Còn hơn có mặt ông cha không thờ”. 3. Nghệ thuật thơ văn Về nghệ thuật, thơ văn Nguyễn Đình Chiểu có nhiều đóng góp quan trọng, nhất là văn chương trữ tình đạo đức. Vẻ đẹp của thơ văn ông không phát lộ rực rỡ ở bề ngoài mà tiềm ẩn trong tầng sâu của cảm xúc, suy ngẫm. Bút pháp trữ tình xuất phát từ cõi tâm trong sáng, nhiệt thành, đầy tình yêu thương con người của nhà thơ, bao giờ cũng nồng đậm hơi thở cuộc sống, tự nó đã tạo nên sức rung động mãnh liệt sâu xa. Đặc biệt, thơ văn Nguyễn Đình Chiểu còn rất đậm đà sắc thái Nam Bộ. Mỗi người dân Nam Bộ đều có thể bắt gặp mình ở các nhân vật của ông, từ lời ăn tiếng nói mộc mạc, bình dị đến tâm hồn nồng nhiệt, chất phác, cách cư xử khoáng đạt, hồn nhiên… Lối thơ thiên về kể trong các truyện của ông cũng mang màu sắc diễn xướng rất phổ biến trong văn học dân gian Nam Bộ. Đó là những yếu tố cơ bản tạo nên giá trị thẩm mĩ đặc sắc của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. Truyện Lục Vân Tiên, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc,… xứng đáng là những tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam cuối thời trung đại. Đã hơn một thế kỉ trôi qua, tiếng thơ Đồ Chiểu vẫn ngân vang giữa cuộc đời. Tên tuổi nhà thơ mù xứ Đồng Nai vẫn rực sáng bầu trời văn nghệ dân tộc bởi nhân cách cao đẹp và những cống hiến lớn lao của ông cho văn học nước nhà. HƯỚNG DẪN HỌC BÀI 1. Nêu những nét chính về cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu. Anh (chị) cảm nhận sâu sắc điều gì qua cuộc đời nhà thơ? 2. Tìm hiểu giá trị thơ văn Nguyễn Đình Chiểu:

– Dựa vào những đoạn trích đã học về Truyện Lục Vân Tiên (ở lớp 9 và lớp 11), hãy cho biết lí tưởng đạo đức của Nguyễn Đình Chiểu được xây dựng chủ yếu trên cơ sở tình cảm nào. – Nêu nội dung trữ tình yêu nước trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu và đánh giá tác động tích cực của những sáng tác đó đối với cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp đương thời. – Theo anh (chị), sắc thái Nam Bộ độc đáo của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu biểu hiện ở những điểm nào? 3*. Với những kiến thức đã học về Nguyễn Trỗi và Nguyễn Đình Chiểu, anh (chị) cảm nhận được điều gì gần gũi về tư tưởng nhân nghĩa giữa hai nhà thơ này? Hãy trình bày ý kiến của mình. GHI NHỚ Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương trong sáng, cao đẹp về nhân cách, nghị lực và ý chí, về lòng yêu nước, thương dân và thái độ kiên trung, bất khuất trước kẻ thù. Thơ văn ông là một bài ca đạo đức, nhân nghĩa, là tiếng nói yêu nước cất lên từ cuộc chiến đấu chống quân xâm lược, là thành tựu nghệ thuật xuất sắc mang đậm sắc thái Nam Bộ. LUYỆN TẬP Căn cứ vào những kiến thức đã học về Nguyễn Đình Chiểu và các tác phẩm của ông anh (chị) suy nghĩ như thế nào về nhận định của nhà thơ Xuân Diệu: “Cái ưu ái đối với người lao động, sự kính mến họ là một đặc điểm của tâm hồn Đồ Chiểu”?

Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) nhà Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, sinh tại quê mẹ – làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh). Ông xuất thân trong gia đình nhà nho, cha là Nguyễn Đình Huy, người Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên – Huế), vào Gia Định làm thư lại tại dinh Tổng trấn Lê Văn Duyệt. ở đây, ông lấy bà Trương Thị Thiệt làm vợ thứ, sinh ra Nguyễn Đình Chiểu. Năm 1843, Nguyễn Đình Chiểu đỗ tú tài tại trường thi Gia Định. Năm 1846, ông ra Huế học, chuẩn bị thi tiếp tại quê cha, nhưng lúc sắp vào trường thi thì nhận được tin mẹ mất, phải bỏ thi trở về Nam chịu tang (1849). Dọc đường về, Nguyễn Đình Chiểu bị đau mắt nặng rồi bị mù. Không khuất phục trước số phận oan nghiệt, Nguyễn Đình Chiểu về Gia Định mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân, và tiếng thơ Đồ Chiểu cũng bắt đầu vang khắp miền Lục tỉnh.Khi giặc Pháp đánh vào Gia Định (1859), người trí thức yêu nước Nguyễn Đình Chiểu đã đứng vững trên tuyến đầu của cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, cùng các lãnh tụ nghĩa quân bàn mưu tính kế đánh giặc và sáng tác những vần thơ cháy bỏng căm hờn, sôi sục ý chí chiến đấu. Nam Kì mất, ông ở lại Ba Tri (Bến Tre). Thực dân Pháp tìm mọi cách dụ dỗ, mua chuộc, nhưng ông khảng khái khước từ tất cả, giữ trọn tấm lòng thuỷ chung son sắt với nước với dân cho đến hơi thở cuối cùng.Nguyễn Đình Chiểu là một trong những nhà thơ đầu tiên ở Nam Kì sáng tác chủ yếu bằng chữ Nôm. Cuộc đời sáng tác của ông chia làm hai giai đoạn, trước và sau khi thực dân Pháp xâm lược. Ở giai đoạn đầu, ông viết hai truyện thơ dài:và, đều nhằm mục đích truyền bá đạo lí làm người. Đến giai đoạn sau, thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là lá cờ đầu của văn thơ yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX với những tác phẩm xuất sắc về cả nội dung tư tưởng, tình cảm và nghệ thuật như(còn gọi lànho y diễn ca, một truyện thơ dài).Bằng ngòi bút, Nguyễn Đình Chiểu đã suốt đời chiến đấu không mệt mỏi cho đạo đức, chính nghĩa, cho độc lập tự do của dân tộc:– Lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa: Nguyễn Đình Chiểu viếtnhằm mục đích truyền dạy những bài học về đạo làm người chân chính. Đạo lí làm người của Nguyễn Đình Chiểu mang tinh thần nhân nghĩa của đạo Nho, nhưng lại rất đậm đà tính nhân dân và truyền thống dân tộc. Những mẫu người lí tưởng trong tác phẩm là những con người sống nhân hậu, thuỷ chung, biết giữ gìn nhân cách thẳng ngay, cao cả, dám đấu tranh và có đủ sức mạnh để chiến thắng những thế lực bạo tàn, cứu nhân độ thế, như lời của Lục Vân Tiên: “Tôi xin ra sức anh hào – Cứu người cho khỏi lao đao buổi này”.– Lòng yêu nước, thương dân: Khi cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp nổ ra, từ trên đỉnh cao của tư tưởng, tình cảm thời đại là lòng yêu nước thương dân, Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác những tác phẩm đáp ứng xuất sắc yêu cầu của cuộc chiến đấu giữ nước buổi ấy. Thơ văn yêu nước chống Pháp của Nguyễn Đình Chiểu ghi lại chân thực một thời đau thương của đất nước, khích lệ lòng căm thù giặc và ý chí cứu nước của nhân dân ta, đồng thời nhiệt liệt biểu dương những anh hùng nghĩa sĩ đã chiến đấu, hi sinh vì Tồ quốc. Ông tố cáo tội ác giặc xâm lăng gây bao thảm hoạ cho nhân dân (), ông lên án những kẻ sẵn sàng “đổi hình tóc râu” () để thờ phụng kẻ thù. Ông ngợi ca những sĩ phu yêu nước như Trương Định, Phan Tòng vẫn nặng lòng với hai chữ trung quân nhưng vì đại nghĩa của dân tộc, đã dám chống lại chiếu chỉ nhà vua, phất cao cờ nghĩa, cùng nhân dân chiến đấu đến hơi thở cuối cùng: “Bởi lòng chúng chẳng nghe thiên tủ chiếu, đón ngăn mấy dặm mã tiền; theo bụng dân phải chịu tướng quân phù, gánh vác một vai khổn ngoại” (). Dưới ngọn cờ đó là đông đảo những người nông dân nghèo khổ, suốt đời “cui cút làm ăn”, bởi “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”, đánh giặc với ý chí: “Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh… Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen…” (). Ngay cả trong thất bại, dân tộc này vẫn không bao giờ chịu khom lưng, uốn gối trước kẻ thù. Kì Nhân Sư, người thầy thuốc giỏi trong Ngư Tiều y thuật vấn đáp, dẫu không thể làm gì để cứu vãn tình thế đất nước, vẫn biểu thị tấm lòng kiên trung bất khuất bằng cách tự xông đôi mắt mình cho mù chứ không chịu phụng sự quân giặc để lại cho đời bài học nhân sinh cao cả: “Dù đui mà giữ đạo nhà – Còn hơn có mặt ông cha không thờ”.Về nghệ thuật, thơ văn Nguyễn Đình Chiểu có nhiều đóng góp quan trọng, nhất là văn chương trữ tình đạo đức. Vẻ đẹp của thơ văn ông không phát lộ rực rỡ ở bề ngoài mà tiềm ẩn trong tầng sâu của cảm xúc, suy ngẫm. Bút pháp trữ tình xuất phát từ cõi tâm trong sáng, nhiệt thành, đầy tình yêu thương con người của nhà thơ, bao giờ cũng nồng đậm hơi thở cuộc sống, tự nó đã tạo nên sức rung động mãnh liệt sâu xa. Đặc biệt, thơ văn Nguyễn Đình Chiểu còn rất đậm đà sắc thái Nam Bộ. Mỗi người dân Nam Bộ đều có thể bắt gặp mình ở các nhân vật của ông, từ lời ăn tiếng nói mộc mạc, bình dị đến tâm hồn nồng nhiệt, chất phác, cách cư xử khoáng đạt, hồn nhiên… Lối thơ thiên về kể trong các truyện của ông cũng mang màu sắc diễn xướng rất phổ biến trong văn học dân gian Nam Bộ.Đó là những yếu tố cơ bản tạo nên giá trị thẩm mĩ đặc sắc của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.,… xứng đáng là những tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam cuối thời trung đại.Đã hơn một thế kỉ trôi qua, tiếng thơ Đồ Chiểu vẫn ngân vang giữa cuộc đời. Tên tuổi nhà thơ mù xứ Đồng Nai vẫn rực sáng bầu trời văn nghệ dân tộc bởi nhân cách cao đẹp và những cống hiến lớn lao của ông cho văn học nước nhà.1. Nêu những nét chính về cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu. Anh (chị) cảm nhận sâu sắc điều gì qua cuộc đời nhà thơ?2. Tìm hiểu giá trị thơ văn Nguyễn Đình Chiểu:– Dựa vào những đoạn trích đã học về(ở lớp 9 và lớp 11), hãy cho biết lí tưởng đạo đức của Nguyễn Đình Chiểu được xây dựng chủ yếu trên cơ sở tình cảm nào.– Nêu nội dung trữ tình yêu nước trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu và đánh giá tác động tích cực của những sáng tác đó đối với cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp đương thời.– Theo anh (chị), sắc thái Nam Bộ độc đáo của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu biểu hiện ở những điểm nào?3*. Với những kiến thức đã học về Nguyễn Trỗi và Nguyễn Đình Chiểu, anh (chị) cảm nhận được điều gì gần gũi về tư tưởng nhân nghĩa giữa hai nhà thơ này? Hãy trình bày ý kiến của mình.Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương trong sáng, cao đẹp về nhân cách, nghị lực và ý chí, về lòng yêu nước, thương dân và thái độ kiên trung, bất khuất trước kẻ thù. Thơ văn ông là một bài ca đạo đức, nhân nghĩa, là tiếng nói yêu nước cất lên từ cuộc chiến đấu chống quân xâm lược, là thành tựu nghệ thuật xuất sắc mang đậm sắc thái Nam Bộ.Căn cứ vào những kiến thức đã học về Nguyễn Đình Chiểu và các tác phẩm của ông anh (chị) suy nghĩ như thế nào về nhận định của nhà thơ Xuân Diệu: “Cái ưu ái đối với người lao động, sự kính mến họ là một đặc điểm của tâm hồn Đồ Chiểu”?

Tìm Hiểu Giá Trị Văn Hóa

Tìm hiểu giá trị Văn hóa – Lịch sử Đồng Nai

Bài tham dự cuộc thi

TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI

1

Tìm hiểu giá trị Văn hóa – Lịch sử Đồng Nai

QUẦN THỂ DI TÍCH

DANH THẮNG BỬU LONG

2

Tìm hiểu giá trị Văn hóa – Lịch sử Đồng Nai

LỜI NÓI ĐẦU Di sản văn hóa nói chung, loại hình di tích lịch sử – văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam là tài sản vô giá được tạo dựng trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước. Giá trị di sản văn hóa, đặc biệt là các di tích lịch sử phản ánh thành quả của các thế hệ cha ông trong quá trình lao động xây dựng, chiến đấu bảo vệ quê hương trên nhiều lĩnh vực và sự đa dạng trong sắc thái văn hóa của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Trên mảnh đất Đồng Nai thuộc miền Đông Nam Bộ của Việt Nam, trải qua các giai đoạn lịch sử, các thế hệ cư dân đã để lại nhiều thành tựu quan trọng trong các lĩnh vực của cuộc sống. Những di tích của tỉnh Đồng Nai được nhà nước xếp hạng là một trong những thành quả, kết tinh truyền thống văn hóa của vùng đất này trong quá trình mở đất phương Nam của đất nước. Vùng đất Biên Hòa hiện nay có hơn 20 di tích được xếp hạng. Di tích Danh thắng Bửu Long – chùa Bửu Phong thuộc phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa là di tích lịch sử – văn hóa, thắng cảnh, kiến trúc khá độc đáo được Bộ Văn hóa – xếp hạng cấp quốc gia vào năm 1990. Trong khu danh thắng này còn có chùa Thiên Hậu/Miếu Tổ sư được Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai xếp hạng năm 2008. Hưởng ứng cuộc thi tìm hiểu về giá văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2012 do Sở Khoa học và Công nghệ Đồng Nai, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai tổ chức, tôi đã đến tham quan nhiều di tích ở Đồng Nai. Quá trình tham quan và nghiên cứu tư liệu về di tích, tôi thấy mình phải có trách nhiệm phải tuyên truyền những giá trị quý giá của hệ thống di tích được xếp hạng của tỉnh Đồng Nai. Trong hệ thống di tích lịch sử – văn hóa của tỉnh Đồng Nai được xếp hạng di tích cấp quốc gia, tâm đắc về di tích Danh thắng Bửu Long đến với mọi người để góp phần trong công tác bảo tồn và phát di sản văn hóa của Đồng Nai nói chung, về loại hình di tích lịch – văn hóa nói riêng, trong đó, đề cập chính về di tích Danh thắng Bửu Long. Để hoàn thành được bài dự thi này tôi xin gởi lời chân thành cảm ơn đến Ban quản lý Di tích-Danh thắng tỉnh, Bảo tàng Đồng Nai, quý nhà chùa Bửu Phong đã cung cấp tư liệu.

3

Tìm hiểu giá trị Văn hóa – Lịch sử Đồng Nai

I. KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT BIÊN HÒA I.1. Vài nét về hành chánh Biên Hòa Biên Hòa là thành phố duy nhất của tỉnh Đồng Nai, tính đến thời điểm năm 2010. Hiện nay, sau khi sáp nhập một số xã của huyện Long Thành, thành phố Biên Hòa có diện tích tự nhiên là 26.407,84 héc ta. Thành phần dân cư của Biên Hòa rất đa dạng với số dân 784.398 người (dân số theo thống kê năm 2009), mật độ dân số là 2.970 người/km2. Biên Hòa nằm phía tây của tỉnh Đồng Nai, phía Bắc giáp huyện Vĩnh Cửu, phía Nam giáp huyện Long Thành, phía Đông giáp huyện Trảng Bom, phía Tây và Tây Bắc giáp huyện Dĩ An, huyện Tân Uyên (tỉnh Bình Dương) và quận 9 (Thành phố Hồ Chí Minh). Trong lịch sử hình thành và phát triển, địa giới hành chánh của Biên Hòa trải qua nhiều lần thay đổi. Hiện nay, về cơ cấu hành chánh, thành phố Biên Hòa có 30 đơn vị hành chánh, gồm 23 phường và 7 xã. Một trong những thay đổi gần đây nhất là Biên Hoà sáp nhập thêm bốn xã của huyện Long Thành; gồm các xã An Hoà, Long Hưng, Phước Tân và Tam Phước theo Nghị quyết số 05/NQ-CP do Thủ tướng Chính phủ ký ngày 05 tháng 02 năm 2010. Sự điều chỉnh, sáp nhập này làm tăng diện tích tự nhiên của Biên Hoà thêm 10.899,27 héc ta và số nhân khẩu là 92.796 người. Các đơn vị hành chánh cấp phường, xã thuộc thành phố Biên Hoà gồm: phường An Bình, phường Bình Đa, phường Bửu Hòa, phường Bửu Long, phường Hòa Bình, phường Hố Nai, phường Long Bình, phường Long Bình Tân, phường Quang Vinh, phường Quyết Thắng, phường Tam Hiệp, phường Tam Hòa, phường Tân Biên, phường Tân Hiệp, phường Tân Tiến, phường Tân Hòa, phường Tân Mai, phường Tân Phong, phường Tân Vạn, phường Thanh Bình, phường Thống Nhất, phường Trảng Dài, phường Trung Dũng. Bảy xã gồm: xã Hoá An, xã Hiệp Hòa, xã Tân Hạnh, xã An Hoà, xã Long Hưng, xã Phước Tân, xã Tam Phước. Thành phố Biên Hòa là tỉnh lỵ, trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội của tỉnh Đồng Nai. Thành phố Biên Hòa được công nhận là đô thị loại II theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 219 – TTg ngày 10 tháng 5 năm 1993. I.2. Vài nét về địa danh Biên Hòa Tên gọi Biên Hoà có từ năm 1808. Khi vua Gia Long đổi tên dinh Trấn Biên thành Biên Hoà. Trấn được hiểu theo nghĩa là gìn giữ, cũng là đơn vị 4

Tìm hiểu giá trị Văn hóa – Lịch sử Đồng Nai hành chánh có tính quân quản cấp tỉnh. Biên: được hiểu theo nghĩa là chỗ giáp giới bờ cõi. Hoà được hiểu theo nghĩa hiệp làm một, thuận một bề. Biên Hoà được đặt tên gọi với mong muốn, hy vọng vùng đất nơi biên cương này được trấn giữ chắc chắn, bình yên, thuận hoà. Biên Hùng là tên gọi của Biên Hoà trong thời kỳ nửa cuối thế kỷ XVIII. Bắt nguồn từ sự kiện thương nhân người Hoa là Lý Tài đem quân chiếm vùng Chiêu Thái (núi Châu Thới – trước thuộc tỉnh Biên Hoà, nay thuộc tỉnh Bình Dương). Năm 1773, Lý Tài cùng Tập Đình đem quân tham gia vào hàng ngũ Tây Sơn và được tin dùng. Sau một thời gian, Tập Đình bỏ trốn, Lý Tài thua trận nhiều nên ra hàng với Tống Phước Hiệp tướng của nhà Nguyễn đóng tại Bình Khang (nay thuộc địa phận tỉnh Khánh Hoà). Ảnh: Bản đồ Biên Hòa xưa Năm 1776, Tống Phước Hiệp kéo quân vào Nam, Đỗ Thành Nhân (gốc người Minh Hương, trước ở Hương Trà thuộc Thừa Thiên – Huế). Năm 1775, theo chúa Nguyễn Phước Thuần vào Gia Định. Đỗ Thành Nhân đến đất Ba Giồng (phía nam Đồng Tháp Mười) chiêu mộ binh sĩ, lấy tên là quân Đông Sơn, xưng là Đông Sơn Thượng tướng quân. Khi thấy quân của Tống Phước Hiệp vào Nam, có Lý Tài, Đỗ Thành Nhân xem thường và hiềm khích. Sau khi Tống Phước Hiệp qua đời, Lý Tài kéo quân về vùng Chiêu Thái trú đóng, không theo nhà Nguyễn. Tại đây, Lý Tài xưng hùng và truyền sửa tên gọi Trấn Biên thành Biên Hùng trấn. Biên Hùng trấn chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn khi Đông Định Vương Nguyễn Lữ (một trong ba anh em nhà Tây Sơn) đánh thắng quân chúa Nguyễn, đổi dinh Trấn Biên thành Biên Trấn. 5

Tìm hiểu giá trị Văn hóa – Lịch sử Đồng Nai I.3. Vài nét về phương Bửu Long Phường Bửu Long được thành lập năm 1994 trên cơ sở xã Tân Bửu. Xã Tân Bửu được thành lập trên cơ sở xã Bửu Long và xã Tân Thành theo quyết định số số 12 – HĐBT ngày 17 tháng 01 năm 1984 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Vị trí địa lý phường Bửu Long được xác định: Phía Đông giáp phường Tân Phong, phường Quang Vinh, phường Hòa Bình, phía Tây và phía Nam giáp sông Đồng Nai, phía Bắc giáp phường Tân Phong và xã Bình Hòa (huyện Vĩnh Cửu). Tổng diện tích tự nhiên: 575,57 héc ta. Dân số có 24.559 người với 08 dân tộc cộng cư. Dân tộc Kinh chiếm số lượng đông đảo, kế đến là người Hoa, Khơ me, Nùng, Tày, Campuchia, Chăm, Ba na. Toàn phường Bửu Long được chia làm 5 khu phố. Địa bàn Bửu Long nguyên là làng Bạch Khôi, Bình Điện thuộc tổng Phước Vinh, huyện Phước Chánh, phủ Phước Long. Tư liệu Địa bạ Nam kỳ (năm 1836) cho biết, phường Bạch Khôi, thôn Bình Điện thuộc tổng Phước Vinh Thượng. Cuối thế kỷ XIX, hai làng Bạch Khôi, Bình Điện sáp nhập thành làng Bửu Long. Thời Pháp chiếm, tổng Phước Vinh Thượng đổi thành tổng Phước Vĩnh Thượng. Năm 1939, làng Bửu Long thuộc tổng Phước Vĩnh Trung, quận Châu Thành – sau là quận Đức Tu (1963), tỉnh Biên Hoà cho đến năm 1975. Về phía chính quyền cách mạng, trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, từ năm 1945 đến năm 1948, Bửu Long thuộc tổng Phước Vĩnh Trung, quận Châu Thành. Từ năm 1948 đến năm 1954, Bửu Long thuộc về huyện Vĩnh Cửu tỉnh Biên Hòa. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, địa phận Bửu Long bây giờ gồm hai xã Tân Thành và xã Bửu Long. Năm 1976, gọi là xã Tân Thành. Năm 1984 gọi là xã Tân Bửu. Trên địa bàn phường Bửu Long có nhiều di tích lịch sử văn hóa, cơ sở tín ngưỡng được xây dựng khá sớm. Một số cơ sở tín ngưỡng tiêu biểu như: chùa Bà Thiên Hậu – vốn là Miếu Tổ sư của những hộ làm nghề khai thác đá Bửu Long. Chùa Bửu Phong được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1990. Trước đây, địa phận Bửu Long được chúa Nguyễn cho xây dựng Văn miếu Trấn Biên vào năm 1715 – văn miếu được xây dựng đầu tiên ở vùng đất Nam Bộ. Văn miếu Trấn Biên bị tàn phá trong thời kỳ Pháp xâm lược lần thứ nhất. Sau này, tỉnh Đồng Nai tôn tạo di tích khá quy mô, nối tiếp truyền thống văn hóa, hiếu học, trở thành một địa điểm văn hóa chung cho cả tỉnh Đồng 6

Tìm hiểu giá trị Văn hóa – Lịch sử Đồng Nai Nai hiện nay. Những người dân sinh sống trên địa bàn Bửu Long còn bảo tồn những nghề thủ công truyền thống: nghề khai thác đá Bửu Long và nghề làm gốm đất nung. Trong đó, làng đá Bửu Long khá nổi tiếng từ xưa đến nay do những người Hoa bang Hẹ đến đây sinh sống và phát triển nghề. Lễ hội chùa Bà Thiên Hậu – Miếu Tổ sư nghề đá là lễ hội với quy mô lớn, nhiều nghi thức độc đáo và thu hút đông đảo người tham dự. II. DI TÍCH DANH THẮNG BỬU LONG – NHỮNG GIÁ TRỊ Danh thắng Bửu Long rộng hơn 84 héc ta, nằm về hướng tây bắc thuộc địa phận phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa. Khu danh thắng nằm phía tả ngạn sông Đồng Nai, cách trung tâm thành phố khoảng 2km, trên đường Huỳnh Văn Nghệ (trước gọi là tỉnh lộ 24). Độ cao trung bình 100 mét so với mực nước biển và quần thể núi non, sông hồ, chùa chiền được bảo vệ, trùng tu, tôn tạo. Toàn bộ khu danh thằng Bửu Long có diện tích 84 ha, gồm có: – Diện tích hồ (hồ Long Ẩn, Long Vân): 24,9 hécta. – Diện tích núi Bình Điện và núi Long Ẩn: 12,4 héc ta (Núi Bình Điện có chùa Bửu Phong, núi Long Ẩn có ngôi chùa Hang/Long Sơn Thạch Động). – Trong phạm vi danh thắng hiện có nhiều hộ dân sống bằng nghề điêu khắc đá nổi tiếng. – Trong phạm vi danh thắng Bửu Long hiện còn có công trình Văn miếu Trấn Biên (tôn tạo năm 1998), khu di tích Mộ dòng họ Võ Biên Hòa với nghệ thuật kiến trúc chạm khắc tiêu biểu. Danh thắng Bửu Long của thành phố Biên Hòa khá độc đáo, bởi đây là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học. II.1. Về lịch sử Danh thắng Bửu Long có những di tích như chùa Bửu Phong, Linh sơn thạch động, Thiên hậu cổ miếu…phản ánh những giai đoạn lịch sử của vùng đất Biên Hòa trong chặng đường phát triển hơn ba thế kỷ qua. Vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai cách đây hơn ba thế kỷ vẫn còn hoang vu, rừng rậm, sình lầy. Trong Phủ Biên tạp lục của Lê Qúi Đôn cho biết: “Ở phủ Gia Định, đất Đồng Nai từ cửa biển Cần Giờ, Soài Rạp, cửa Đại, cửa Tiểu trở vào là rừng rậm hàng ngàn dặm…”. Vùng đất này trở thành địa điểm lý tưởng cho cư dân nơi khác tìm đến sinh sống. Cư dân Việt đến vùng đất 7

Tìm hiểu giá trị Văn hóa – Lịch sử Đồng Nai Biên Hòa khá sớm, có thể từ thế kỷ XV, XVI. Đó là những đợt di dân có tính tự phát của những người dân từ miền Trung vào. Một số tư liệu cho rằng: “Vùng đất miền Đông Nam bộ nói chung, vùng đất Đồng Nai nói riêng vào cuối thế kỷ XVI, về cơ bản vẫn còn là một vùng đất hoang dã, chưa được khai phá. Cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, vùng đất Đồng Nai trở nên sôi động với sự xuất hiện của lớp cư dân Việt từ miền Thuận Quảng di cư vào”1. Cùng với cư dân đã ổn định trước đây, những lớp cư dân sau này hòa chung trong cộng đồng trong cuộc mưu sinh nơi vùng đất này. Trong quá trình khẩn hoang, lập nghiệp trên vùng đất mới, người Việt từng bước khẳng định sự tồn tại của cộng đồng bằng việc ra sức xây dựng một cuộc sống ổn định. Trong đời sống tinh thần, người Việt hình thành những cơ sở tín ngưỡng sinh hoạt cộng đồng để gắn kết cộng đồng, thỏa mãn nhu cầu tâm linh. Một bộ phận người Hoa cũng đến Đồng Nai từ khá sớm, bắt đầu vào thế kỷ thứ XVII. Sự có mặt của nhóm cộng đồng người Hoa được sử sách chép với mốc thời gian định vị rõ ràng. Sách Gia định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức cho biết: “Tháng 4 năm Kỷ Mùi (1679), quan Tổng binh thủy lục trấn thủ các xứ ở Long Môn thuộc Quảng Đông nước Đại Minh là Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tấn, quan Tổng binh trấn thủ các châu Cao, Lôi, Liêm là Trần Thắng Tài, phó tướng Trần An Bình dẫn quân và gia nhân hơn 3.000 người với chiến thuyền hơn 50 chiếc xin được vào Kinh bằng hai cửa Tư Dung và Đà Nẵng (…) họ không thể thần phục nhà Minh nên chạy sang nước Nam nguyện được làm dân mọn (…) Triều đình mới tổ chức khao đãi ân cần, chuẩn y cho giữ nguyên chức hàm, phong cho quan tước rồi lệnh cho tới Nông Nại (Đồng Nai) làm ăn, gắng sức khai phá đất đai (…). Bọn tướng Long Môn họ Dươngđem binh thuyền tiến nhanh vào cửa Xoài Rạp và cửa Đại, cửa Tiểu dừng trú tại xứ Mỹ Tho. Bọn tướng các xứ Cao, Lôi, Liêm họ Trần thì đem binh thuyền vào cửa Cần Giờ Trần Thượng Xuyên theo cửa biển Cần Giờ rồi đồn trú tại xứ Bàn Lân thuộc Đồng Nai” 2 .Bao thế hệ người Hoa từ đoàn di dân đầu tiên đến những đợt di cư do về sau đã lần hồi góp phần xây dựng vùng đất Nam Bộ vốn là nơi “tị nạn” trở thành “quê hương” bao dung đối với họ.

1

Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai. Địa chí Đồng Nai. Tập III – Lịch sử. NXB Tổng hợp Đồng Nai. 2001. 2 Trịnh Hoài Đức. Gia Định thành thông chí. Bản dịch của Lý Việt Dũng. NXB Tổng hợp Đồng Nai, 2005. tr.110

8

Tìm hiểu giá trị Văn hóa – Lịch sử Đồng Nai Sự hội tụ của nhiều luồng dân cư thời khai phá và sự phát triển kinh tế, xã hội lúc bấy giờ là một trong những điều kiện đạo Phật được truyền bá đến Biên Hòa sớm. Một số ý kiến cho rằng, trong những đợt di dân người Việt đến Biên Hòa, có những nhà sư, và chính họ là những hạt nhân khai sơn những ngôi chùa để hoằng hóa và đáp ứng được nhu cầu tâm linh của những cư dân trên vùng đất mới khai phá. Với vị thế của địa đầu Nam Bộ thời khai phá, chắc chắn, Biên Hòa – Đồng Nai là một trong những trung tâm Phật giáo ở Nam Bộ. Đồng Nai là “địa bàn Phật giáo đã được truyền từ xa xưa trong lịch sử và đã từng là một trong những cái nôi của Phật giáo Đàng Trong thời các chúa, các vua nhà Nguyễn, có ảnh hưởng không những đối với Phật giáo ở Nam Bộ mà còn ảnh hưởng cả đến Phật giáo ở miền Trung. Nhiều nhà sư nối tiếp ở Đàng Trong đã từng tu hành, hoằng hóa ở Đồng Nai và có nhiều đệ tử nổi danh khác đi hoằng hóa ở các nơi”3. Những ngôi chùa được xem là cổ xưa ở Biên Hòa được truyền tụng do ba đệ tử nhà sư Nguyên Thiều dòng Lâm tế khai sơn là: Thành Đẳng Minh Lương (chùa Đại Giác/ xã Hiệp Hòa), Thành Nhạc Ẩn Sơn (chùa Long Thiền/ phường Bửu Hòa), Thành Chí Pháp Thông (chùa Bửu Phong/ phường Bửu Long). Thuở ban đầu, cũng như các cơ sở tín ngưỡng thời ở Biên Hòa được xây dựng với các loại vật liệu cây gỗ. Kiến trúc chùa với quy mô nhỏ, vừa phải. Với sự phát triển kinh tế với nhu cầu của cộng đồng dân cư địa phương, các ngôi chùa được sửa chữa, trùng tu mở rộng. Chùa Bửu Phong được xem khai sơn năm 1616, Thiên Hậu cổ miếu của cộng đồng người Hoa bang Hẹ được xây dưng từ khi đến Bửu Long, hình thành nên làng nghề đá nổi tiếng. Cùng với những địa điểm cư dân khác, những nhóm cư dân ở Bửu Long và các thiết chế chùa chiền của người Việt, người Hoa là một trong những cơ sở để chúa Nguyễn thiết lập bộ máy hành chính trên đất Biên Hòa. Sự kiện này được Trịnh Hoài Đức ghi chép trong Gia Định thành thông chí4 “Mùa xuân năm Mậu Dần (1698), đời vua Hiển tông Hiếu Minh hoàng đế, sai Thống suất Chưởng cơ Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh (cũng đọc là Kính) vào kinh lược vùng đất Đồng Nai, đặt vùng đất mới thành phủ Gia Định gồm hai huyện: huyện Phước Long dựng dinh Trấn Biên, huyện Tân Bình dựng dinh Phiên Trấn. Mỗi dinh đặt chức Lưu thủ, Cai bạ và Ký lục để 3

Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai. Địa chí Đồng Nai. Tập V – Văn hóa Xã hội. Nhà xuất bản Tổng hợp Đồng Nai. 2001. 4 Trịnh Hoài Đức. Gia Định thành thông chí. Nxb Đồng Nai, 2005. (Bản dịch và hiệu đính của Lý Việt Dũng, Huỳnh Văn Tới).

9

Tìm hiểu giá trị Văn hóa – Lịch sử Đồng Nai quản trị; nha thuộc có hai ty Xá, Lại để làm việc; quân binh thì có cơ, đội, thuyền, thuỷ bộ tinh binh va thuộc binh để hộ vệ. Đất đai mở rộng 1.000 dặm, dân số hơn 4 vạn hộ. Chiêu mộ những lưu dân từ Bố Chính trở vô Nam đến ở khắp nơi, đặt ra phường, ấp, xã, thôn, chia cắt địa phận, mọi người phân chiếm ruộng đất, chuẩn định thuế đinh, điền và lập bộ tịch đinh điền” và “…con cháu người Tàu ở nơi Trấn Biên thì lập thành xã Thanh Hà, ở Phiên Trấn thì lập thành xã Minh Hương, rồi ghép vào sổ hộ tịch”. Danh thắng Bửu Long với chùa Bửu Phong, Thiên Hậu cổ miếu/còn gọi là Miếu Tổ sư vơi niên đại khai sơn khá sớm đã ghi dấu tích của thế hệ di dân Việt, Hoa buổi ban đầu trong công cuộc khai phá, mở mang và truyền bá Phật giáo vào vùng đất mới Nam Bộ, gắn liền với lịch sử phát triển làng nghề đá Bửu Long danh tiếng. II.2. Về tín ngưỡng, tôn giáo Trong khu danh thắng Bửu Long, hiện nay có nhiều cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo; trong đó, tiêu biểu là chùa Bửu Phong, chùa Long Sơn, chùa Thiên Hậu….trở thành những điểm đến đáp ứng nhu cầu tâm linh của đại bộ phận người dân trong và ngoài địa phương. Hằng năm, tác các chùa này, nhiều tín hữu Phật giáo thực hiện hành hương, lễ bái. – Chùa Bửu Phong tọa lạc trên ngọn núi Bình Điện. Từ dưới chân núi lên đến chùa phải qua một trăm bậc tam cấp. Có ý kiến cho rằng chùa được xây dựng từ năm “Bính Thìn niên”, phía trước đề 1616. Di tích cổ tự đã trải qua nhiều lần trùng tu. Dấu vết hiện tồn được xác định vào năm Kỷ Sửu (1829) được khắc trên cột đá tiền điện. Chùa kiến trúc theo kiểu chữ Ảnh: Chùa Bửu Phong Tam, gồm chánh điện, giảng đường và nơi thờ Tổ. Ngoài ra còn có liêu phòng ni phái và nhà 10

Tìm hiểu giá trị Văn hóa – Lịch sử Đồng Nai dưỡng tăng. Chất liệu xây dựng là gạch thẻ, vôi hợp chất, mái lợp ngói âm dương. Nền lót gạch tàu và gạch bông, bộ khung vì kèo làm bằng gỗ tốt. Chánh điện chia làm ba gian thoáng rộng, trên hai hàng cột đắp rồng ẩn mây sơn son thếp vàng uy nghiêm. Gian chính giữa thờ Tam thế Phật, tả hữu thờ thập điện Minh Vương. Các tượng được tạc rất sống động. Ở nơi thờ Tổ, sự hiện diện của pho tượng Tổ sư Đạt Ma, cùng với hơn chục bài vị sơn son thếp vàng của các sư trụ trì đã viên tịch được bài trí trang trọng trên các bàn hương án. Chùa Bửu Phong hiện lưu giữ xá lợi Phật. Bên tả chùa có đài Tam thế phật. Phía trước phật đài về hướng đông dưới tàn cổ thụ là tượng phật nằm thành đạo, phía trên là tượng Thích ca khổ hạnh ngồi tọa thiền trên tảng đá. Đằng sau phật đài về hướng đông là Long đầu hổ, nhân dân còn gọi là Hàm Hổ, do 3 khối đá tự nhiên to lớn nằm chồng lên nhau, từ xa nhìn tực đầu chúa tể sơn lâm đang há miệng. Bên hữu là ngôi tịnh xá Bửu pháp hình bát giác. Phía sau tịnh xá có Long đầu trạch, nhân dân thường gọi là Hàm Rồng do 2 khối đá khổng lồ nằm chồng lên nhau trông như hàm của con rồng đang phun nước. Cho đến nay thì ngôi chùa cổ Bửu Phong đã trải qua 17 đời trụ trì. – Tổ trụ trì thứ nhất là Hòa Thượng Bửu Phong – Tổ thứ II: Hòa Thượng hiệu Thành Chí, tự Pháp Thông, đời thứ 34 thuộc dòng lâm tế (1691-1769). – Tổ thứ III: Hòa Thượng hiệu Tổ Tông, đời thứ 36, thuộc dòng Lâm Tế. -Tổ thứ IV: Hòa Thượng hiệu Tiên Cần, đời thứ 37, thuộc dòng Lâm Tế. – Tổ thứ V: Hòa Thượng hiệu Tiên Trí, đời thứ 37, thuộc dòng Lâm Tế. – Tổ thứ VI: Hòa Thượng hiệu Tiên Hiện, đời thứ 37, thuộc dòng Lâm Tế. – Tổ thứ VII: Đại sư hiệu Minh Hỷ, đời thứ 38, thuộc dòng Lâm Tế. – Tổ thứ VIII: Hòa Thượng hiệu Pháp Truyền, tự Chơn Ý (1893-1922), đời thứ 39, thuộc dòng Tào Động, ngài là vị Quốc sư của triều đình Huế. – Tổ thứ IX: Đại sư hiệu Như Truyền, đời thứ 39, thuộc dòng Lâm Tế. – Tổ thứ X: Đại sư hiệu Như Thắng, đời thứ 39, thuộc dòng Lâm Tế. – Tổ thứ XI:Đại sư hiệu Hồng Đại, đời thứ 40, thuộc dòng Lâm Tế. – Tổ thứ XII: Đại sư hiệu Nhật Thắng, đời thứ 41, thuộc dòng Lâm Tế. – Tổ thứ XIII: Đại sư hiệu Trừng Tôn, đời thứ 42, thuộc dòng Lâm Tế. – Tổ thứ XIV: Đại sư hiệu Tâm Đô, đời thứ 43, thuộc dòng Lâm Tế. 11

Tìm hiểu giá trị Văn hóa – Lịch sử Đồng Nai – Tổ thứ XV: Đại sư Huệ Quang. – Tổ thứ XVI: Hòa Thượng Thiện Giáo. – Tổ thứ XVII: Đại lão Hòa Thượng hiệu Hồng Tín, tự Huệ Thành (1918-2001), đời thứ 40 thuộc dòng Lâm Tế. – Đến năm 1972, vì nhu cầu cấp thiết, Đại lão Hòa Thượng Huệ Thành đã cử Ni Trưởng Thích Huệ Hương thay mặt Ngài làm giám tự quản lý và trụ trì Tổ Đình Bửu Phong cho đến nay. – Chùa Long Sơn Thạch Động (còn gọi là chùa Hang) vốn là một hang đá tự nhiên ẩn sâu vào lòng một tảng đá khổng lồ. Chánh điện thờ Phật Di Đà, Thích Ca, bên phải thờ Phật chuẩn đề, bên hữu thờ Phật Tổ Đạt Ma. Trước chùa có tượng Quan Âm Bồ Tát. Bên phải là tượng Thích Ca đúc và tượng Di Lặc ngự trên bục đá. Trước tượng Phật Di Lặc. Trong khuôn viên chùa còn có miếu thờ Bà Ngũ Hành, miếu Ảnh: Chùa Long Sơn Thạch Động/ chùa Hang thờ Cửu Thiên Huyền Nữ. – Thiên Hậu cổ miếu/Miếu Tổ sư trong khu danh thắng Bửu Long, thuộc địa bàn tổ 30, khu phố 5. Đây là cơ sở tín ngưỡng của người Hoa bang Hẹ làm nghề đá ở Biên Hòa. Ban đầu, ngôi miếu được xây dựng thấp. Năm 1894, khi trùng tu, người Hẹ đã cơi nới thêm phần vách tường, đồng thời toàn bộ kiến trúc miếu cũng được mở rộng, nâng cao. Kiến trúc hiện tồn của miếu theo lối hình chữ công, xung quanh có tường bao tạo kiểu “nội công ngoại quốc”; mặt tiền hướng về phía sông Đồng Nai. Gian điện chính dùng vào việc thờ phụng, bên trái thờ các vị tiền bối, hai bên phải dùng làm nhà khách và sinh hoạt. Đây là một kiến trúc tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc, chạm trổ đá của người Hoa bang Hẹ ở Biên Hòa. Đối tượng thờ chính tại miếu gồm: Ông Ngũ Đinh – tổ nghề đá; Ông Lỗ Ban – tổ nghề mộc; Ông Quốc Trì – tổ 12

Huỳnh Ngọc Trảng. Đồng Nai danh lam và cổ tích. Kịch bản phim tư liệu. Bảo tàng Đồng Nai. 1995.

13

Tìm hiểu giá trị Văn hóa – Lịch sử Đồng Nai tích tiêu biểu của người Trung Hoa như: Cảnh hát bội, hát tuồng, múa hát cung đình, tập võ, đá cầu, tiên đồng, ngọc nữ, phù điêu mai, lan, trúc, cúc. Các tác phẩm gốm trên bờ nóc mái là sản phẩm gốm men xanh (gốm Cây Mai) sản xuất năm Quang Tự thứ 20 (năm Giáp Ngọ – 1894). Ở mặt tường gần giáp mái, hai bên đầu hồi miếu có trang trí hình dơi ngậm mâm trái cây đắp bằng đá, ở giữa mâm có chữ Phúc, biểu hiện tước lộc, giàu sang. Bên trái phía dưới hai bờ mái trước miếu có tượng ông Nhật và bên phải là tượng bà Nguyệt làm bằng gốm men xanh là đặc điểm mang tính tiêu biểu của nghi dung chùa người Hòa. Kiến trúc chánh điện kiểu nhà ba gian. Không gian chánh điện được bài trí các điện thờ, hoành phi, liễn đối, bao lam. Bộ khung, vì kèo ở chánh điện mang đậm kiến trúc Trung Hoa. Chánh điện bài trí ba gian thờ. Miếu Tổ sư là công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc, thể hiện sự độc đáo, sáng tạo của người Hoa bang Hẹ ở Đồng Nai. Đây là ngôi miếu “độc nhất vô nhị” ở Đồng Nai được làm từ chất liệu đá xanh – vật liệu khai thác tại chỗ, gắn với làng nghề điêu khắc đá truyền thống ở Bửu Long của Biên Hòa – Đồng Nai. Kiến trúc miếu Tổ sư độc đáo bởi hệ thống vì kèo chồng rường giá chiêng với sự kết hợp khéo léo giữa đá và gỗ thật tuyệt vời. Ảnh: Kiến trúc chánh điện chùa Thiên Hậu/Miếu Tổ sư

– Tập thành tượng thờ Những ngôi chùa trong khu danh thắng Bửu Long bảo lưu những hệ thống tượng thờ khá đa dạng, nhiều phong cách, phản ánh tính nghệ thuật, mỹ thuật của những nghệ nhân của vùng đất này qua các thời kỳ. Trong đó, nhiều tượng thờ không chỉ có giá trị về mặt tín ngưỡng, tâm linh mà còn giá trị nghệ thuật cao.

14

Tìm hiểu giá trị Văn hóa – Lịch sử Đồng Nai Chùa Bửu Phong còn lưu giữ tượng đá cổ thể hiện một vị thần ảnh hưởng của Ấn giáo được gắn kết bền vững ở hậu điện. Tương truyền, tượng có từ khi lập chùa – dấu tích của tín ngưỡng xưa trên vùng đất Biên Hòa. Bên cạnh đó, những tượng thờ ở chánh điện bằng chất liệu gỗ, gốm và sau này bổ sung một số tượng thờ bằng chất liệu thạch cao. Tượng Phật A Di Đà được làm bằng gỗ,trong chùa Bửu Phong Ảnh: Tượng thờ chánh điện chùa Bửu Phong có niên đại khá cổ (1829) và là một trong những tượng với phong cách nghệ thuật dân dã hiếm có trên vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai. Chùa Long Sơn Thạch Động ở điện thờ có tượng Phật Di Đà, Thích Ca, bên phải thờ Phật chuẩn đề, bên hữu thờ ông Tổ Đạt Ma. Trước chùa có tượng Quan Âm Bồ Tát, bên phải là tượng Thích Ca và tượng Di Lặc. Trong khuôn viên chùa còn có miếu thờ Bà Ngũ Hành và Cửu Thiên Huyền Nữ. Chùa Thiên Hậu có đối tượng thờ độc đáo được tạo tác từ chất liệu đá: Tượng các vị tổ nghề Ngũ Đinh (tổ nghề đá); Lỗ Ban (tổ nghề mộc), Quốc Trì (tổ nghề sắt) với tư thế ngồi trên ngai. Áo trang trí hoa văn theo kiểu quan võ, bên ngoài khoác xiêm y thêu kim tuyến đính kim sa hình rồng, phượng đủ màu sắc. Các tượng được tạc từ nguyên liệu đá thô Bửu Long, đặt trong khám thờ bằng đá. Xung quanh khám được chạm khắc đề tài rồng chầu mặt trời, dây leo, hoa lá, chim điểu, tùng, cúc, trúc mai… với đường nét tinh xảo. Tượng Thiên Hậu thánh mẫu tư thế ngồi trong ngai, hai nữ hầu đứng hai bên. Tượng được khoác những bộ xiêm y đủ màu sắc lộng lẫy, đầu đội mũ vàng, trang trí hình đuôi công, đính kim tuyến.Tượng Quan Quan Thánh đế quân tư thế ngồi trong ngai, tay phải cầm kiếm dài, tay trái vuốt râu với phong thái vừa đĩnh đạc vừa rất uy nghiêm và các vị hầu cận được tạo tác tư thế đứng, bằng chất liệu xi măng.

15

Tìm hiểu giá trị Văn hóa – Lịch sử Đồng Nai

Trong các di tích này, tập thành tượng thờ bằng các chất liệu khác nhau nhưng chúng có giá trị phản ảnh nghệ thuật của những nghệ nhân đất xứ Biên Hòa. Tượng gốm, gỗ có niên đại khá sớm, thể hiên sự tài tình trong nghệ thuật điêu khắc, nặn tượng khá độc đáo bởi nhưng bàn tay khéo léo của các nghệ nhân nghề gỗ, nghề làm gốm – những nghề truyền thống có từ thuở khai khẩn Biên Hòa. Nhưng tượng Tổ nghề được tạc tác từ chất liệu đá xanh Biên Hòa cho thấy sự tài hoa của những người thợ làng đá Bửu Long. Những tảng đá vô tri qua bàn tay tài hoa của nghệ nhân trở thành những tác phẩm đầy tính mỹ thuật, thể hiện những thần thái trong từng pho tượng. Trên một bình diện riêng, tập thành những tượng thờ trong các di tích ở khu danh thắng Bửu Long phản ánh lịch sử, quá trình phát triển của các làng nghề truyền thống: điêu khắc gỗ, chạm khắc đá, tạc tượng…ở Đồng Nai. – Nghệ thuật điêu khắc, chạm khắc Chùa Bửu Phong có mặt tiền nhìn về hướng đông bắc. Trang trí mặt tiền chùa là những bức phù điêu thể hiện hình ảnh cuốn thư, lân ngậm trái châu, nhật nguyệt, rồng chầu mặt trời, mây dây lá cách điệu… theo lối chạm trổ, ghép sành công phu, tinh vi mang tính nghệ thuật cao. Tất cả các mảng trang trí này làm bằng chất liệu xi măng, bề mặt ghép những mảnh sứ nhiều màu tạo cho toàn cảnh ngôi chùa nét rực rỡ, trang nghiêm, cổ kính. Nội thất chánh điện, nhà thờ tổ được các nghệ nhận tài hoa đắp nổi, chạm khắc… rất khéo léo và tinh vi với cảnh truyền thống rồng chầu mặt trời, dây lá, chim muông thú… Trước tiền sảnh chánh điện có 2 hàng cột đá được các nghệ nhân Ảnh: Mặt tiền chùa Bửu Phong với nghệ thuật ghép sành sứ điêu khắc đá Bửu Long chạm trổ rất công phu hình rồng thời Nguyễn. 16

Tìm hiểu giá trị Văn hóa – Lịch sử Đồng Nai Ở giảng đường và nơi thờ Tổ các tấm liễn, hoành phi, bao lam được chạm khắc công phu, thể hiện nhiều đề tài phong phú được bố trí hài hòa. Chùa Thiên Hậu/Miếu Tổ sư ngoài những quần thể tiểu tượng gốm trên mái, còn có những tác phẩm mang tính nghệ thuật cao như: khám thờ bằng đá. Dưới bờ diềm mái ngói là các tác phẩm điêu khắc gỗ chạm nổi các đề tài: Cúc điểu, sen điểu, bát bửu, nai lân… Đây là những tác phẩm gốm và điêu khắc gỗ rất đẹp, đặc sắc. Hệ thống bao lam, hoành phi, liễn đối được chạm trổ các đề tài phong phú (lưỡng long tranh châu, cửu long tranh châu, long vân trên gỗ và đá) là những mảng điêu khắc sắc sảo. Nhìn chung, các tác phẩm trang trí, đặc biệt các hoành phi, liễn đối trong di tích chùa Bửu Phong, chùa Thiên Hậu/Miếu Tổ sư bằng khắc đá, chạm khắc gỗ, phù điêu hàm chứa tính triết lý nhân sinh sâu sắc, thể hiện những ước vọng, mong muốn hướng đến chân, thiện, mỹ của cư dân Đồng Nai, có sự giao thoa văn hóa Việt Nam – Trung Quốc và phương Đông nói chung. II.4. Về di sản văn hóa phi vật thể (truyện kể, chữ Hán, lễ hội) Gắn với giá trị kiến trúc, di vật của chùa Bửu Phong, chùa Thiên Hậu/Miếu Tổ sư, chùa Long Sơn Sơn Thạch Động còn ẩn chứa những giá trị di sản văn hóa phi vật thể phản ánh lịch sử, văn hóa của vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai. Những sự tích, truyện kể được lưu truyền trong dân gian gắn liền với các di tích, với vùng đất Bửu Long rất phong phú mà lâu nay ít được lưu tâm đến. Nó không chỉ phản ánh lịch sử phát triển của cộng đồng cư dân mà còn là sự sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời của những cộng đồng sinh sống trên mành đất này qua các thời kỳ lịch sử. Ở núi Bửu Long còn lưu truyền về câu chuyện cọp dữ được cảm hóa bởi tiếng chuông chùa. Truyện kể này bổ sung cho kho tàng văn hóa dân gian Đồng Nai thêm phong phú. Trên hết, qua truyện kể này cũng cho chúng ta những nhận thức được về buổi đầu lịch sử của việc khai khẩn đất Đồng Nai trước đây. Vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai một thuở “Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um” đầy khó khăn đối với những con người mới bước chân đến vùng đất mới. Đó là sức sống mãnh liệt của các lớp người đi trước; những phong tục, tập quán của họ trên vùng đất mới. Những điều tưởng chừng như đơn giản, bình thường ấy lại là một cuộc đấu tranh hào hùng chống lại với thế lực thiên nhiên, góp phần cho việc tạo dựng cuộc sống hôm nay từ những bước đi đầu tiên mở cõi. Cái cốt nhân nghĩa, thiện lành trong chuyện kể về loài cọp được cảm hóa cũng gợi lên bao điều mà con người phải suy nghĩ khi 17

Tìm hiểu giá trị Văn hóa – Lịch sử Đồng Nai Hoặc: – Bửu điện nguy nga, lẫm lẫm kim xu nghiêm sắc tướng – Phong sơn nham lĩnh, minh minh thương hải phiếm từ thuyền. Dịch nghĩa: Điện báu nguy nga, chửng chạc thân vàng nghiêm tướng Phật; Đỉnh cao vòi vọi, bát ngát biển xanh ruổi thuyền từ. Tại chùa Thiên Hậu/Miếu Tổ sư có những liễn đối chữ Hán nhắc đến công ơn, tôn vinh Tổ nghề để dạy người trong đạo lý uống nước nhớ nguồn: – Sáng bá nghệ nguyên lưu tượng tâm độc vận, – Thùy thiên thu thằng mặc sư thị hàm tôn. Dịch nghĩa : Tổ sư đã sáng tạo ra trăm nghề là cái nguồn cho những người thợ giỏi. Tổ sư là những người dùng dây búng mực, đào tạo những bậc thầy từ ngàn năm qua, chúng ta phải biết tôn trọng). Hay: – Diệu thủ tu thành kim bửu điện; – Tinh công xảo tạo ngọc long lâu. Dịch nghĩa:

Ảnh: Liễn đối trong di tích chùa Thiên Hậu

Bàn tay khéo léo của Tổ sư đã xây dựng ngôi điện vàng ngọc; Việc làm tinh xảo, xây dựng khéo léo tạo nên ngôi miếu xinh đẹp như con rồng bằng ngọc). Những hoành phi đại tự khen ngợi nhân vật Quan Thánh về long trung trực và răn người khác noi gương: – Thiên cổ nhất nhân (Dịch nghĩa: Từ ngàn năm nay chỉ có một người – Quan Thánh). 19

Tìm Hiểu Văn Bản: Lặng Lẽ Sa Pa – Nguyễn Thành Long

I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả

– Nguyễn Thành Long (1925 – 1991), quê ở huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

– Ông bắt đầu “cầm bút” từ kháng chiến chống Pháp và chọn truyện ngắn cùng bút kí làm sở trường của mình.

– Nguyễn Thành Long là một trong những cây bút có nhiều đóng góp cho nền văn xuôi cách mạng nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung.

– Tác phẩm của ông tập trung vào hai đề tài lớn: cuộc đấu tranh chống Mĩ của nhân dân Liên khu V và công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

– Phong cách sáng tác: Truyện ngắn của Nguyễn Thành Long nhẹ nhàng, tình cảm, thường pha chút chất kí; ngôn ngữ trong sáng, giàu chất thơ; và luôn xây dựng được những nhân vật mang tính hình tượng;…

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

– Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” được sáng tác năm 1970. Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thâm nhập thực tế Lào Cai về đề tài cuộc sống, con người trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

– Tác phẩm được in trong tập “Giữa trong xanh” năm 1972.

b. Ý nghĩa nhan đề Lặng lẽ Sa Pa

+ Lặng lẽ gợi đến một khung cảnh rất êm đềm, thanh tĩnh của Sa Pa.

+ Nhưng “Lặng lẽ” chỉ là cái không khí bên ngoài của cảnh vật. Đằng sau vẻ lặng lẽ ấy là sự miệt mài, nhiệt huyết, hăng say để cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

c. Tóm tắt

Lặng lẽ Sa Pa kể về nhân vật anh thanh niên hai bảy tuổi, sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m quanh năm chỉ có mây mù bao phủ. Công việc chính của anh là công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Trước những trách nhiệm nặng nề của công việc, bốn năm anh chưa về nhà một lần. Anh luôn thèm cảm giác được gặp gỡ và trò chuyện với mọi người. Bởi vậy, anh đã dùng cây chắn ngang đường để mong được tiếp xúc, làm quen với mọi người.

Trong một lần tình cờ, anh có cơ hội được gặp gỡ, trò chuyện với một ông họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ. Anh mời họ lên nhà chơi. Nơi anh ở ngăn nắp, gọn gàng đã tạo được ấn tượng tốt với ông họa sĩ. Anh thanh niên tâm sự, chia sẻ với họ về cuộc sống, niềm đam mê công việc và sở thích đọc sách, nuôi gà, trồng hoa của mình.

Ông họa sỹ đã cảm nhận được vẻ đẹp phẩm chất của anh thanh niên và định vẽ một bức chân dung về anh. Nhưng anh đã từ chối và giới thiệu ông kĩ sư dưới vườn rau Sa Pa, anh cán bộ nghiên cứu bản đồ đất sét, mà theo anh là đáng để vẽ. Cô kĩ sư sau khi trò chuyện với anh đã nhận ra mối tình nhạt nhẽo của mình và yên tâm nhận công tác ở Lai Châu.

Sau ba mươi phút trò chuyện, họ chia tay. Anh thanh niên tiếp tục với công việc của mình. Trước khi tạm biệt, anh không quên biếu hai người một làn trứng gà và tặng cô gái một bó hoa đẹp.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Tình huống cơ bản và hệ thống nhân vật trong truyện

– Tình huống truyện khá đơn giản, đó chỉ là một cuộc gặp gỡ tình cờ giữa một anh thanh niên làm công tác khi tượng trên đỉnh Yên Sơn với bác lái xe và hai hành khách.

– Tác dụng

+ Để cho nhân vật chính là anh thanh niên xuất hiện một cách tự nhiên, khách quan, không đột ngột.

+ Được soi chiếu, đánh giá và cảm nhận một cách khách quan từ những nhân vật khác.

– Hệ thống nhân vật

+ Nhân vật chính là anh thanh niên, hiện lên như một bức chân dung. Song chưa được xây dựng thành một tính cách hoàn chỉnh và hầu như chưa có cá tính.

+ Các nhân vật trong truyện, từ nhân vật chính đến các nhân vật phụ đều không có tên riêng, chỉ được gọi tên qua đặc điểm giới tính, nghề nghiệp, tuổi tác (anh thanh niên, bác lái xe, ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ, ông kĩ sư, anh cán bộ,…).

+ Các nhân vật phụ xuất hiện có vai trò làm nổi bật phẩm chất của nhân vật chính.

2. Bức tranh thiên nhiên của Sa Pa

– Thiên nhiên Sa Pa hiện lên êm đềm, lãng mạn và thật sống động: “Nắng bất ngờ bắt đầu len tới, đốt cháy rừng cây. Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bằng bạc dưới cái nhìn bao che của những cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên những vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe…”

+ Sử dụng biện pháp liệt kê để phô bày tất cả những nét riêng, đặc trưng và độc đáo của thiên nhiên Sa Pa. Vẻ đẹp ấy làm say đắm lòng người và như mời gọi con người hãy đến vùng đất này để khám phá, thưởng thức.

+ Sử dụng biện pháp nhân hóa qua hình ảnh “nắng… đốt cháy rừng cây”, “nắng mạ bạc cả con đèo” gợi không gian như bừng sáng, khiến cảnh vật thêm lung linh, rực rỡ.

– Nghệ thuật nhân hóa “nắng… đốt cháy rừng cây”, “mây bị nắng xua” khiến cho cảnh vật sống động như mang được linh hồn của thiên nhiên Sa Pa.

3. Nhân vật anh thanh niên

a. Một người yêu nghề và có tinh thần trách nhiệm trong công việc

– Một người yêu nghề, dám chấp nhận hi sinh:

+ Chấp nhận sống và làm việc trong một hoàn cảnh, môi trường đặc biệt: Trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m, quanh năm chỉ có cỏ cây và mây mù lạnh lẽo.

+ Coi công việc như một người bạn: “Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được?… Công việc của cháu gian khổ thế đấy chứ cất nó đi, cháu buồn chết mất”.

+ Tìm thấy những ý nghĩa trong công việc: “báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiên đấu”.

+ Tự hào và hạnh phúc bởi anh không chỉ giúp ích cho lao động mà cả trong chiến đấu: Phát hiện một đám mây khô giúp không quân ta hạ được bao nhiêu phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng.

– Có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc:

+ Làm việc một mình trên đỉnh núi cao,không có ai giám sát song anh vẫn luôn tự giác, tận tụy: Mỗi ngày đều bốn lần đi “ốp” để báo về nhà, không ngần ngại những đêm mưa tuyết,…

+ Tác phong làm việc khoa học, nghiêm túc, đúng giờ giấc và chính xác đến từng phút: Anh đếm từng phút trong cuộc gặp gỡ vì sợ hết ba mươi phút.

+ Anh luôn hoàn thành xuất sắc công việc của mình.

b. Một người có tinh thần lạc quan và yêu tha thiết cuộc sống

– Anh biết tạo ra niềm vui trong cuộc sống của mình bằng việc trồng đủ các loài hoa rực rỡ để làm đẹp cho ngôi nhà mình ở; nuôi gà, nuôi ong để làm giàu nguồn lương thực cho mình.

– Luôn tự trau dồi bản thân bằng cách đọc qua sách, để nâng cao hiểu biết và chất lượng cuộc sống.

– Không chỉ sắp xếp, tổ chức công việc một cách khoa học, mà ngay trong cuộc sống anh cũng thật gọn gàng, ngăn nắp: Một căn nhà ba gian sạch sẽ khiến ông họa sĩ phải trầm trồ và bất ngờ.

c. Một con người chân thành, cởi mở và hiếu khách

– Thể hiện ở nỗi thèm người, muốn được nhìn ngắm, trò chuyện với con người. Vì thế, anh đã lấy khúc cây chắn ngang đường để dừng những chuyến xe hiếm hoi.

– Khi gặp được người thì anh mừng đến mức tất tả, cuống cuồng như không kiềm được cảm xúc: “Anh chạy vụt đi, cũng tất tả như khi đến”, “Người con trai nói to những điều đáng lẽ người ta chỉ nghĩ”.

– Anh là một người thân thiện, cởi mở ngay cả với những người mới gặp lần đầu: Niềm nở, hồ hởi không giấu lòng, pha trà, tặng hoa và cả quà ăn đường.

 – Trân trọng từng giây từng phút gặp gỡ: Đếm từng phút vì sợ hết mất ba mươi phút gặp gỡ vô cùng quý báu.

– Anh quan tâm, chu đáo đến cả những người tình cờ gặp gỡ và sẵn sàng yêu thương, sẻ chia: Nghe bác lái xe kể về việc vợ mình bị bệnh, anh đã lặng lẽ đi tìm củ tam thất để bác gái ngâm rượu uống.

d. Một con người khiêm tốn

– Công việc của anh đang làm góp một phần quan trọng cho những bước chuyển mình của đất nước: phụ vụ sản xuất và phụ vụ chiến đấu. Nhưng anh lại cho những đóng góp của mình là vô cùng nhỏ bé so với bao người khác.

– Khi ông hoạ sĩ xin kí hoạ chân dung, anh từ chối, e ngại: “Không, không, đừng vẽ cháu! Để cháu giới thiệu với bác những người khác đáng cho bác vẽ hơn”.

4. Các nhân vật phụ

a. Nhân vật ông họa sĩ

– Tuy không phải là nhân vật chính của truyện, nhưng ông họa sĩ có vị trí quan trọng, mang quan điểm trần thuật của tác giả. Người kể chuyện đã nhập vào cái nhìn và suy nghĩ của nhân vật ông họa sĩ để quan sát, miêu tả từ cảnh thiên nhiên đến nhân vật chính của truyện.

– Trước hết, ông là một nghệ sĩ chân chính, nghiêm túc, say mê đi tìm cái đẹp: “Hơn bao nhiêu người khác, ông biết rất rõ sự bất lực của nghệ thuật, của hội họa trong cuộc hành trình vĩ đại của cuộc đời… Đối với chính nhà họa sĩ, vẽ bao giờ cũng là một việc khó, nặng nhọc, gian nan”.

– Ngay từ những phút đầu gặp anh thanh niên, ông họa sĩ đã xúc động và bối rối. “Vì họa sĩ đã bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ao ước được biết. Ôi! Một nét thôi cũng đủ khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác”.

– Trước chàng trai trẻ đáng yêu, ông họa sĩ bỗng thấy như “nhọc quá” vì những điều người ta suy nghĩ về anh

– Những lời tâm sự anh thanh niên, khiến ông chấp nhận những thử thách của quá trình sáng tác.

b. Nhân vật cô kĩ sư

– Cô kỹ sư là một hình ảnh đẹp đẽ, biểu tượng cho sức sống mãnh liệt của tuổi trẻ: cô vừa tốt nghiệp đã tình nguyện lên miền núi Lai Châu nhận nhiệm vụ.

– Cuộc gặp gỡ bất ngờ với anh thanh niên, được nghe những điều anh tâm sự, chia sẻ về bản thân và những người khác khiến cô “bàng hoàng”.

– Cái “bàng hoàng” như một sự va đập giúp cô bừng dậy những tình cảm và suy nghĩ lớn lao, đẹp đẽ:

+ Cô đánh giá, kiểm điểm đúng hơn mối tình đầu nhạt nhẽo mà cô đã từ bỏ.

+ Vững tin và quyết tâm về quyết định cho chuyến ra đi đầu đời của mình.

– Từ quý mến, khâm phục cô dần dần thấy biết ơn vô cùng anh thanh niên. Không phải chỉ vì bó hoa to mà anh tặng mà còn vì “một bó hoa nào khác nữa, bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên anh cho thêm cô”.

c. Nhân vật bác lái xe

– Là người xuất hiện từ đầu tác phẩm, bác là người dẫn dắt, giới thiệu một cách sơ lược và kích thích sự chú ý về nhân vật chính của tác phẩm  -”người cô độc nhất thế gian”.

– Bác là một người yêu nghề và có trách nhiệm với công việc: Đã có ba mươi năm lái xe và hiểu tường tận Sa Pa.

– Là một con người niềm nở và cởi mở: Trên khuôn mặt hồ hởi, bác giới thiệu về thiên nhiên và cảnh sắc Sa Pa; chia sẻ với ông họa sĩ và cô kĩ sư về anh thanh niên.

– Có một tâm hồn nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên Sa Pa.

– Bác là cầu nối giữa anh thanh niên với cuộc đời: Bác mua sách giúp anh; giới thiệu anh với những người bạn mới;…

d. Những nhân vật được giới thiệu gián tiếp

– Đó là những con người làm việc miệt mài, cống hiến thầm lặng: Anh bạn trên trạm đỉnh Phan-xi-păng cao 3142m; ông kĩ sư vườn rau dưới Sa Pa ngày ngày ngồi im trong vườn su hào rình xem cách ong lấy phấn, thụ phấn cho hoa su hào.

– Dám hi sinh cả tuổi trẻ và hạnh phúc cá nhân: Anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét, luôn trong tư thế sẵn sàng chờ sét, “nửa đêm mưa gió, rét buốt, mặc, cứ nghe sét là choáng choàng chạy ra” và mười một năm chưa ngày nào xa cơ quan.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” khắc họa thành công hình ảnh những con người lao động lặng lẽ, say mê mà tiêu biểu là nhân vật anh thanh niên. Qua đó tác giả đã khẳng định vẻ đẹp của những người lao động trong công cuộc xây dựng xã hội mới.

2. Nghệ thuật

– Lặng lẽ Sa Pa được xây dựng tình huống truyện hợp lí với cách trần thuật tự nhiên.

– Lời văn mượt mà, trau chuốt, giàu chất thơ và chất hội họa.

IV. Một số dạng đề tham khảo

Câu 1. Cảm nhận của anh (chị) về nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của nhà văn Nguyễn Thành Long.

Câu 2. Cảm nhận của anh (chị) về nhân vật ông họa sĩ trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của nhà văn Nguyễn Thanh Long.

Câu 3. Nhận xét về truyện lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long có ý kiến cho rằng: “Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của con người lao động bình thường mà cao cả, những mẫu người của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian khổ và hi sinh nhưng cũng thật trong sáng đẹp đẽ. Từ hình ảnh những con người ấy gợi lên cho ta những suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống của lao động tự giác, về con người và về nghệ thuật”. Qua truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa em hãy làm sáng tỏ nhận xét trên.

Làm chủ kiến thức Ngữ văn 9 – Luyện thi vào 10

Tác giả: Phạm Trung Tình