Top 11 # Vi Sao Toi Theo Dao Phat Ca Si Phi Nhung Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Sansangdethanhcong.com

Ca Sĩ Phi Nhung Chia Sẻ Nhân Duyên Gắn Bó Sâu Sắc Với Đạo Phật

Sinh ra và lớn lên trong chùa, những năm tháng lênh đênh trên đất Mỹ và đã làm việc với nhiều ngôi chùa trong các sự kiện, ca sĩ Phi Nhung gắn bó sâu sắc với Đạo Phật một cách và tin vào lời Phật dạy để sống yêu thương, mạnh mẽ và gieo mầm thiện đẹp đẽ.

Vì sao tôi theo Đạo Phật – Ca sĩ Phi Nhung.

Đọc kinh Phật để sống thực tế và làm điều hơn ngày hôm qua

Ca sĩ Phi Nhung Sinh ngày 10 tháng 4 năm 1972 tại Pleiku, Việt Nam Cộng Hòa, Phi Nhung mang trong người hai dòng máu Mỹ – Việt khi cha cô là người Mỹ và mẹ là người Việt.

Hoàn cảnh gia đình khó khăn, Phi Nhung chỉ được theo học đến hết lớp 6, sau đó chuyển sang làm nghề may mặc để kiếm sống, trong khi mẹ cô lấy chồng và có thêm 5 người con cùng mẹ khác cha với cô. Trước đó Phi Nhung không bao giờ được mẹ cô nhắc đến cha cô, là một quân nhân Hoa Kỳ đồn trú tại Pleiku, trong thời kỳ chiến tranh tại Việt Nam. Từ nhỏ Phi Nhung đã thích nghe những bài cải lương và dân ca, điều này đã thể hiện trong đến những nhạc phẩm cô hát sau này. Lớn lên trong một hoàn cảnh khó khăn, Phi Nhung đã có ước mơ trở thành một ca sĩ từ nhỏ.

Năm 1982, mẹ Phi Nhung qua đời khi cô mới được 10 tuổi. Mồ côi cả cha lẫn mẹ, Phi Nhung phải về ở với ông bà ngoại. Cô phải kiếm tiền và chăm sóc 5 đứa em cùng mẹ khác cha và mấy đứa cháu. Vào tháng 10 năm 1989, Phi Nhung được sang Mỹ theo diện con lai và cư ngụ tại Tampa, tiểu bang Florida. Cô gặp Trizzie Phương Trinh, một nữ ca sĩ nổi tiếng người Việt tại một buổi biểu diễn từ thiện ở một ngôi chùa trên đất Mỹ, khi ấy Trizzie đang lưu diễn ở bang Florida. Nhận thấy tài năng của Phi Nhung, Trizzie đã khuyên Phi Nhung tới California để thực hiện ước mơ của mình.

Cuối năm 1993, cô đã chuyển tới sống ở quận Cam, bang California theo lời khuyên này. Nhiều người bắt đầu yêu mến Phi Nhung sau khi nghe cô thể hiện nhạc phẩm song ca Sông Quê 1 cùng với nam ca sĩ nổi tiếng Thái Châu tại Hollywood Night 15 và sau đó cô đã có một CD đầu tay góp giọng chung với hai ca sĩ lớn là Tuấn Vũ và Mỹ Huyền.

Năm 1998, Phi Nhung là nữ ca sĩ ra nhiều album nhất. Cũng vì thế nên Phi Nhung được người trong giới và khán giả đặt cho nghệ danh nữ hoàng băng dĩa. Từ năm 2005, Phi Nhung chính thức được phép trở về biểu diễn tại Việt Nam và trở thành ca sĩ độc quyền của trung tâm băng nhạc Rạng Đông. Ngoài ca hát Phi Nhung còn tham gia nhiều lĩnh vực khác như diễn viên điện ảnh, nghệ sĩ cải lương, nghệ sĩ kịch nói, nghệ sĩ hài, MC. MC Việt Thảo đã dành cho Phi Nhung nhận xét Phi Nhung tiếng hát gợi tình Giọng ca ôm trọn bóng hình quê hương. Phi Nhung được nhiều trung tâm lớn ở Hải ngoại mời tham gia hợp tác biểu diễn, thu âm như Tình, Thúy Anh, Vân Sơn, Asia và Thúy Nga Paris By Night…

Phi Nhung hợp tác độc quyền với trung tâm băng nhạc Rạng Đông của Việt Nam từ 2005 Phi Nhung tham gia nhiều chương trình đại nhạc hội, giải thưởng âm nhạc trong và ngoài nước như Liên hoan văn hóa Việt – Hoa, Liên hoa văn hóa Việt – Nga, Gala Mai vàng, Bài Hát Yêu Thích, Gala nhạc Việt, Tình khúc vượt thời gian, Những khúc vọng xưa Nam Kỳ lục tỉnh, Giai điệu phương Nam, Festival Huế 2014, Fesival Liên hoan Đờn Ca tài tử 2014, Chín dòng sông hò hẹn, Vầng trăng cổ nhạc, Sol Vàng… lưu diễn nhiều nước trên thế giới và tham dự cùng những suất diễn và đại nhạc hội phục vụ kiều bào tại hải ngoại.

Phi Nhung cũng có tour lưu diễn từ nhiều nước như Hoa Kỳ, Nga, Úc, Đài Loan, Trung Quốc, Canada và các nước châu Âu. Phi Nhung cũng tham gia chương trình âm nhạc Tình Ca Việt trên THVL1, các chương trình âm nhạc từ thiện, xuất hiện trên các chương trình âm nhạc cấp quốc gia…

Từ bi hỷ xả mới đúng là con nhà Phật

Ca sĩ hải ngoại Phi Nhung tất bật với 2 nhà hàng chay do cô làm chủ. Đó là những gì cô muốn làm để dành cho 23 thiên thần con nuôi của mình có tiền ăn học nên người và giúp đỡ cho nhiều hoàn cảnh cơ nhỡ khác.

Phi Nhung kinh doanh nhà hàng chay để kiếm tiền nuôi các trẻ em mồ côi mà cô nhận làm con nuôi.

Với tình yêu thương Phi Nhung lặng lẽ nuôi nấng các bé như con ruột do chính mình đẻ ra. Chị còn nhờ chính quyền làm các thủ tục giấy tờ để các bé có thể mang họ Phạm của mình.

Làm mẹ của 1 đứa trẻ đã khó, 23 đứa trẻ lại càng khó hơn. Thế nhưng Phi Nhung vẫn rất vui vì làm được việc nghĩa. Bởi cuộc sống của chúng bây giờ chính là hình ảnh những năm tháng xưa của chị và các em.

Xin gửi đến độc giả những hình ảnh đầy cảm động về Phi Nhung để thấy giới nghệ sĩ không phải chỉ có scandal, xa hoa mà luôn sát cánh vì cộng đồng và luôn có cái tâm hướng thiện.

Minh Tuệ (tổng hợp)

Mối Liên Hệ Giữa Ca Dao Và Dân Ca

Tục Ngữ – Ca Dao – Mối liên hệ giữa Ca Dao và Dân Ca Ðịnh Nghĩa Tục Ngữ – Ca Dao (bài do Julia Nguyễn cung cấp)

Ngâm Kiều: Trăm năm trong cõi người ta Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau… vân vân…Ru Con: Cái ngủ mày ngủ y y y cho à lâu Mẹ mày đi cấy ý y a ruộng sâu Chưa à về …

Hò Làm Việc Bước tiến thứ hai là từ dân ca của lúc ngồi hay lúc nằm trong nhà tiến tới dân ca dùng trong công việc hàng ngày (tức là loại hò làm việc) như “hò dô ta”, “hò đẩy xe”, “hò chèo thuyền”, “hò cấy lúa”, “hò đạp nước”, “hò giã gạo” , “hò nện” v.v… Ở đây, dân ca không còn là bài hát tâm tình mà trở thành bài hát trợ sức làm việc, người hò (hò = hô to lên) bắt buộc phải tạo ra nhịp điệu (tiết tấu) của công việc. Dân ca không còn tính chất cá nhân mà mang tính chất tập thể, có giọng chính, giọng phụ, có hò cái, hò con. Ví dụ :

Hò Dô Ta: Giọng chính (Hò cái) : Ta dô ta Giọng phụ (Hò con) : Dô Giọng chính (Hò cái) : Ta kéo gỗ Giọng phụ (Hò con) : Dô Giọng chính (Hò cái) : Gỗ làm đình Giọng phụ (Hò con) : Dô v.v…Hò Nện (công việc nện đất làm nền xây nhà) Hò cái : Mời bạn hò khoan này Hò con : Hụ là khoan Hò cái : A lá khoan hò khoan là Hò con : Hụ là khoan Hò cái : Biết răng chừ Hò con : Hụ là khoan Hò cái : Cho tới tháng hai Hò con : Hụ là khoan Hò cái : Con gái làm ruộng Hò con : Hụ là khoan Hò cái : Con trai be bờ Hò con : Hụ là khoan Hò cái : A lá khoan hò khoan là Hò con : Hụ là khoan… v.v…

Hò Nghỉ Ngơi Hò của người Việt Nam khi xưa không hẳn chỉ là “hò làm việc” (work song) mà còn là “hò nghỉ ngơi” (rest song) nữa. Làm việc đầu tắt mặt tối đến mấy thì cũng có lúc phải ngưng tay chứ. Ðây là lúc trai gái trao tình với nhau, và khi trao đổi câu hát như thế thì họ cũng gọi luôn là hò. Và chúng ta có “hò giao duyên”, “hát huê tình”, “hò chơi”, “hò đối đáp” v.v…

Hò Giao Duyên: Gặp nhau đây mới đầu trăng gió Hỏi một lời : đã có chồng chưa ?

mang tính chất địa phương và huê tình thì có : Hò Chơi Ghe anh nhỏ mũi trảng lườn Ở trên Gia Ðịnh xuống vườn thăm em…

(Xin chú ý: Hò Nghỉ Ngơi không giàu tiết tấu bằng Hò Làm Việc).

Hò Hội hay Hát Hội Sau giai đoạn hát tâm tình, hát làm việc, hát nghỉ ngơi… dân ca Việt Nam bước tới giai đoạn hát đám, hát hội. Người dân đem nhau ra trước công chúng để thi hát với nhau trong những hội hè đình đám. Trước tiên là hình thức “hát soan” (túc là hát trong hội mùa xuân), “hát đúm” (túc là hát đám), “hát ví” v.v… Rồi có bàn tay nghệ sĩ (nghệ nhân) nhúng vào một loại hát cần phải phong phú hơn các loại chỉ có tính cách tự phát của người dân. Phải có tổ chức trong Hát Hội, ví dụ : “hát trống quân” cần cái trống đất để đệm cho người hát. Và tổ chức cao nhất của hát hội phải là “hát quan họ” vì người ta cần phải phát minh ra rất nhiều lối hát, điệu hát khác nhau.

Trong Dân Ca Cổ Việt Nam, tổ chức Hát Quan Họ được coi là hình thức nghệ thuật cao nhất của lớp nông dân, phát sinh từ vùng Bắc Ninh, Bắc Việt. Nó không còn là loại ca hát giản dị hằng ngày dành riêng cho từng người mà trở thành trò tiêu khiển của đám đông và luôn luôn cần có bàn tay nghệ thuật làm cho nó thêm phong phú.

Hát Ví (trong Hát Quan Họ) Cô cả cô hai đó ơi ! Ở nhà tôi mới tới đây Lạ thung lạ thổ tôi nay lạ nhà Ba cô tôi lạ cả ba Bốn cô lạ bốn biết là quen ai? Ðến đây lạ cả bạn trai Lạ cả bạn gái biết ai mà chào Bây giờ biết nói làm sao Biết ai quen thuộc mà vào trình thưa Cô cả cô hai đó ơi !

Hát Trống Quân : Trên trời (mà) có đám mây xanh Dưới đất (thì) mây trắng Chung quanh mây vàng Thình thùng thình… Ước gì (mà) anh lấy được nàng Thì anh mua gạch Bát Tràng đem về xây Thình thùng thình..

.

Hát Quan Họ Mở đầu cuộc hát thi là những câu hát giản dị như bài Hát Mời Trầu : Mời cô sơi miếng trầu nầy Dù mặn dù nhạt dù cay dù nồng Dù chẳng nên đạo vợ chồng Ăn dăm ba miếng cho lòng anh vui

Rồi cuộc thi hát trở nên phứt tạp hơn với những bài hát có rất nhiều tính chất nghệ thuật như Ngồi Tựa Mạn Thuyền hay là Se Chỉ Luồn Kim…

Hát Thờ Dân ca có mặt trong đời sống tình cảm, đời sống xã hội và có mặt luôn trong đời sống tâm linh của người dân nữa. Do đó ta có “Hát Chầu Văn”, “Hát Bóng”… là loại hát thờ. Không cần nói thì ta cũng thấy về phần nhạc thuật, người đàn, hát (cung văn), người đánh trống phải làm sao để người hầu bóng có thể bị thôi miên và lên đồng được.

Giọng Cờn (Hát Bóng Cô) : Ðằng vân giá võ về nơi Thủy Tề Các quan vui trên ngàn dưới địa Vui đền thờ qúy địa danh lam Quần thần văn võ bá quan Công đồng yến ẩm thạch bàn còn ghi…

Hát Rong Dân Ca khi xưa còn là những tờ báo truyền miệng, đem chuyện vùng này tới vùng kia qua hình thức hát rong với lối “hát vè”, “hát xẩm”…

Vè Kể Chuyện Con Gái Mê Hát Bội Nghe giống trống kỳ Rủ nhau ra đi Ðến làm chật chỗ Lúc này không ngộ (hay) Mới đánh đầu tuồng Chạy thẳng vô buồng Thấy hai chú tướng Tướng này không sướng Không bằng tướng kia Ai về thì về Tôi coi tới sáng..

Tục ngữ là câu nói có ý nghĩa, dễ nhớ vì có vần có điệu, lưu hành bằng cách truyền khẩu Ca dao là dân ca tước bỏ đi những tiếng đệm, tiếng láy. Dân ca là ca dao đã trở thành câu hát, bài hát, điệu hát.

Trích “Khái Quát về Dân Nhạc Dân Ca Việt Nam” – tác giả Phạm Duy

Phân Biệt Ca Dao, Tục Ngữ, Thành Ngữ

2. Ca dao và dân ca: – Ca dao là một thuật ngữ Hán Việt. Đứng về mặt văn học mà nhận định, khi chúng ta tước bỏ những tiếng đệm, những tiếng láy, những câu láy ở một bài dân ca, thì chúng ta thấy bài dân ca ấy chẳng khác nào một bài ca dao. Có thể nói, ranh giới giữ ca dao vàdân ca không rõ. Ca dao của ta có thể ngâm được nguyên câu. Còn dùng một bài ca dao để hát, thì bài ca dao sẽ biến thành dân ca. Vì hát yêu cầu phải có khúc điệu, và như vậy phải có thêm tiếng đệm. Vậy có thể nói, ca dao là một loại thơ dân gian có thể ngâm được, như các loại thơ khác và có thể xây dựng thành các điệu ca dao. Còn dân ca là câu hát đã thành khúc điệu. Dân ca là những bài hát có nhạc điệu nhất định, nó ngả về nhạc nhiều ở mặt hình thức, nó là nhạc do tiếng của con người đưa ra từ cổ họng. Xét về nguồn gốc phát sinh thì dân ca khác với ca dao ở chỗ nó được hát lên trong những hoàn cảnh nhất định, hay ở những địa phương nhất định. Dân ca thường mang tính chất địa phương, còn ca dao thì ngược lại, dù nội dung của bài ca dao có nói về một địa phương cụ thể nào, thì nó vẫn đươc phổ biến rộng rãi

“Đồng đăng có phố Kỳ Lừa Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh”

Hay:

Đường vô xứ Nghệ quanh quanh non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ

thì nhân dân nhiều nơi đều biết ngâm nga. Còn dân ca thì nhiều khi chỉ có dân địa phương mới biết, và mới hát được.. Nội dung của dân ca cũng nhue nội dung của ca dao, chủ yếu là trữ tình, tức biểu hiện cái nội tâm của tác giả trước ngoại cảnh. Cũng như tục ngữ, ca dao – dân ca là những bài văn vần do nhân dân sáng tác tập thể, được lưu truyền bằng miệng và / được phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Trong tất cả những tính chất chung của văn học dân gian (trong đó có tục ngữ – ca dao – dân ca) :

tính nhân dân, tính hiện thực, tính lãng mãn, tính phổ biến, tính khuyết danh, tính truyền miệng, tính tập thể ….thì tính tập thể là tính chất cơ bản nhất

B. Thời kỳ xuất hiện: So với thần thoại và truyền thuyết thì ca dao có một hình thức văn nghệ tưởng như mới hơn. Nhưng theo kết quả nghiên cứu, tục ngữ, ca dao cũng xuất hiện cùng thời với thần thoại và truyền thuyết. Trong quá trình lao động, xuất hiện những câu hò, kiểu như “Dô ta”, như vậy ca hát đã có từ rất sớm, nó xuất hiện trong lao động từ thời cổ sơ, và được sửa đổi qua các thế hệ của loài người. Xét nội dung những câu ” Năm cha, ba mẹ“, hay ” Sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông“, ” Con dại, cái mang”, “con mống, sống mang“.. ta có thể biết được thời điểm xuất hiện câu đó, đólà thời kỳ tạp giao, hay tình trạng chồng chung vợ chạ, hoặc tóm tắt quá trình tạp giao từ chế độ mẫu hệ, rồi đến Phụ hệ… Ca dao, tục ngữ cũng mang ý nghĩa lịch sử vì nó gắn liền và phản ánh đời sống kinh tế, xã hội qua từng thời kỳ.

C. Nội dung và hình thức của tục ngữ – ca dao – dân ca:

1. Nội dung của tục ngữ: Tục ngữ được cấu tạo trên cơ sở thực tế, do lý trí nhiều hơn là do xúc cảm. tư tưởng biểu hiện trong tục ngữ là tư tưởng đanh thép, sắc bén, rút ở cuộc đời. Ở tục ngữ, tính chất phản phong là mạnh hơn cả. Về nội dung, tục ngữ là những nhận định sau kinh nghiệm của con người về lao động, sản xuất, về cuộc sống trong gia đình, xã hội. Nội dung ấy vừa phong phú, vừa vững chắc, vì nó đã được đúc kết qua nhiều thế hệ của con người. VD:

Quá mù ra mưa Đông sao thì nắng, vắng sao thì mưa Vỏ quýt dày có móng tay nhọn Cái sảy nảy cái ung Cõng rắn cắn gà nhà …

2. Hình thức của tục ngữ: Tục ngữ ban đầu chỉ là những câu nói xuôi ta, hợp lý, sau dần mới trở thành những câu đối có vần vè, gọn gàng hơn

Làm phúc phải tội Gà què ăn quẩn cối xay Có ở trong chăn, mới biết chăn có rận Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm …

Tục ngữ không nhất thiết, nhưng phần lớn đều có vần vè, hay có đối

No nên bụt, đói nên ma Bút sa, gà chết Có tật giật mình

Còn có những câu vần cách, cách hai chữ, ba chữ

May tay hơn hay thuốc Đi chợ ăn quà, về nhà đánh con Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão Gà cựa dài thịt rắn, gà cựa ngắn thịt mềm

Hoặc thể lục bát

Cá tươi thì xem lấy mang Người khôn xem lấy hai hàng tóc mai

Tóm lại xét về sự phong phú cả về mặt nội dung cũng như hình thức, ta có thể thấy tục ngữ đã phát triển trước ca da rất nhiều. Còn nữa, ca dao thiên về tình cảm, biểu lộ tính tình của con người…nên chỉ có thể phát triển khi mà đời sống xã hội đã phức tạp.

3. Nội dung của ca dao: Có thể nói muốn hiểu biết về tình cảm của con người Việt Nam xem dồi dào, thắ m thiết và sâu sắc đến cỡ nào…thì không thể nào không nghiên cứu ca dao mà hiểu được.

Ca dao Việt nam là những bài tình tứ, là khuôn thước cho lối thơ trữ tình của ta.

Ca dao thể hiện tình yêu: tình yêu đôi lứa, gia đình, quê hương, đất nước, lao động, giai cấp, thiên nhiên, hoà bình…

Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương Nhớ ai dãi nắng dầm sương Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao

Đường vô xứ Nghệ quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ

Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ , canh gà Thọ Xương Tuyệt mù khói toả ngàn sương Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ…

Ca dao còn thể hiện tư tưởng đấu tranh của con người với thiên nhiên, với xã hội. Có thể nói nội dung của ca dao chủ yếu là trữ tình. Tìm hiểu được cái tình trong ca dao chúng ta sẽ thấy được tính chiến đấu, tính phản phong, tính nhân đạo chủ nghĩa chứa đựng trong ca dao.

4. Hình thức nghệ thuật của ca dao: Ca dao thường là những bài ngắn, hai, bốn, sáu, hoặc tám câu., âm điệu lưu loát và phong phú. Đặc điểm của ca dao về phần hình thức là vần vừa sát lại vừa thanh thoát, không gò ép, lại giản dị, và tươi tắn. Nghe có vẻ như lời nói thường mà lại nhẹ nhàng, gọn gàng, chải chuốt, miêu tả được những tình cảm sâu sắc. Có thể nói về mặt tả cảnh , tả tình không có một hình thức văn chương nào ăn đứt được hình thức diễn tả của ca dao. Ca dao dùng hình ảnh để nói lên những cái đẹp, những cái tốt, nhưng cũng có khi để nói về những cái xấu, nhưng không nói thẳng. Nhờ phương pháp hình tượng hoá, nên lời của ca dao tuy giản dị, mà rất hàm súc. Người con gái không được chủ động trong việc hôn nhân, đã ví mình như hạt mưa:

Thân em như hạt mưa rào Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa

Hay để tả một tình yêu trong trắng mới chớm nở của đôi lứa, ca dao noi:

Đôi ta như lửa mới nhen Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu

Đến như tả hạng người ngu đần, ca dao cũng đã đưa ra những hình ảnh táo bạo:

Mặt nạc đóm dày Mo nang trôi sấp biết ngày nào khôn[/cente] Ca dao ngoài nghệ thuật cụ thể hoá, còn có nghệ thuật nhân cách hoá, dùng vật vô tri để gán cho những tâm tư, tình cảm con người.

Thuyền ơi có nhớ bến chăng Bến thời một dạ khăng khăng đợi thuyền

Một số thể cổ điển của ca dao: Thể phú: Là trình bày, diễn tả…

Đường lên xứ lạng bao xa Cách một trái núi với ba quãng đồng Ai ơi đứng lại mà trông Kìa núi thành Lạng, kìa sông Tam Cờ Em chớ thấy anh lắm bạn mà ngờ Bụng anh vẫn phẳng như tờ giấy phong…

Thể tỉ: là so sánh, người ta thường mượn một cái khác để ngụ ý, so sánh, hay gửi gắm tâm sự của mình. Đây là phương pháp nghệ thuật chủ yếu trong sự diễn đạt tư tưởng và tình cảm. So sánh cũng là một lối cụ thể hoá những cái trừu tượng, làm cho lời thêm ý nhị, tình tứ và thắm thiết. So sánh trực tiếp:

Gối mền, gối chiếu không êm Gối lụa không mềm bằng gối tay em

Lối tỉ gián tiếp, tức nghệ thuật ẩn dụ, một phương pháp nghệ thuật tế nhị hơn:

Trăm năm đành lỗi hẹn hò Cây đa, bến cũ, con đò khác đưa

…. Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng – Tre non đủ lá đan sàng nên chăng? – Đan sàng thiếp cũng xin vâng Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng? ………. Ca dao còn một phương pháp nghệ thuật độc đáo nữa là cách biểu lộ cảm xúc đối với ngoại cảnh, mở đầu cho sự biểu lộ tâm tình. Hứng là do cảm xúc mà nảy nở tình cảm, có thể là vui, cũng có thể là buồn [center] Cơm trắng ăn với chả chim Chồng đẹp vợ đẹp, những nhìn mà no

Trên trời có đám mây vàng Bên sông nước chảy có nàng quay tơ Nàng buồn nàng bỏ quay tơ Chàng buồn chàng bỏ thi thơ học hành

MỘT SỐ LÀN ĐIỆU DÂN CA NGHỆ TĨNH

Tiếng giặm có nghĩa là ghép vào, điền vào, đan vào một chỗ thiếu….xuất hiện ở Nghệ Tĩnh cách đây khoảng ba , bốn trăm năm. Về nội dung, có nhiều bài hát giặm rất tình tứ, cũng có nhiều bài có tính chất chống giai cấp phong kiến. Về hình thức, phần nhiều các bài hát dặm đều gồm những câu năm chữ và cước vận, tức vần ở cuối câu: cứ hai câu cuối mỗi đoạn lại lấy một ý, điệp cả về ý, lẫn lời: vd:Tôi lấy chân khoả lại Tôi lấy bàn khoả lại hay:Thấy những lời kêu trách Nghe những lời kêu trách Bài hát có bao nhiêu đoạn thì có bấy nhiêu lần điệp lại như vậy, nghe đọc thì thấy vướng, nhưng khi hát, nólàm nổi ý của câu hát, của cả bài. Hát giặm cũng có ba lối trình diễn: nam nữ đối đáp, có lối vài ba người hát kể lên một giai thoại, hay một sự việc vừa xảy ra, lại có lối kể một sự tích gì có tình tiết nội dung, và hình thức đều được trau chuốt. Hát giặm Nghệ Tĩnh không hoàn toàn do dân sáng tác, có khi do một số nho sĩ sáng tác, được nhân dân ưa thích và phổ biến rộng rãi VD:Trai: Tiết thanh nhàn thong thả Muốn thăm hỏi vài câu Cuốc thánh thót kêu sầu Gió phảng phất mùa sâu Nhớ trong sách đã lâu: Chuyện “Tư mã phượng cầu” Thương thì mũi tìm trâu Trâu đâu tìm chạc mũi Gái: Trời mở rộng phong quang Giã ơn trời mở rộng phong quang Em đánh tiếng đua sang Đêm tàn canh vò võ Tay em cầm con bấc đỏ Mong bỏ đĩa dầu đầy Mời bạn ở lại đây Đôi ta giở lời rày Tình đó với nghĩa đây Trai: Giống như đọi nác đầy Bưng nhẩn nhẩn trên tay Không khuy sơ một hột Gió nỏ triềng một hột Công đôi ta thề thốt Kể đã mấy niên rồi Lòng đã quyết lứa đôi Ngãi đã quyết thề bồi Nhất ngôn nói hẳn lời Đừng bốn chốn ba nơi Đừng trăn gió chào mời Trăng nhiều trăng rạng rỡ Trăn nhiều đèn rạng rỡ Gái: Em đã có chồng rồi Em đã có lứa rồi Vung úp đã vừa nồi Đũa ghép đã thành đôi Bạn đừng có ỡm ờ với tôi! Tôi lấy chân khoả lại Tôi lấy bàn khoả lại Trai: Têm một quả trầu không Bỏ vô hộp con rồng Đi băng nội băng đồng Qua năm bảy khúc sông Qua chín mười đỗi đồng Nghe tin em đã có chồng Anh quăng lắc vô bụi Bạn gạt tùa vô bụi.

Anh thương em một tháng hai kỳ Dồn đi tính lại, cũng như mười ngày Năm rộn mà chầy Có hai mươi bốn miện (Miện = kỳ) Xuân qua rồi hè /đến Thu đã muộn, đông rồi Nhớ bạn cũ chưa nguôi, Sang lập xuân vũ thuỷ Đêm em nằm em nghĩ Nghĩ kinh trập, xuân phân, Lòng tưởng sự ái ân Sang thanh minh, cốc vũ Đêm dêm nằm nỏ ngủ Nhớ bạn mãi thường thường Tiết lập hạ nhớ thương Bước sang tuần tiểu mãn Trông ra ngoài chán chán Tiết mang hiện lại gần Người đập đất, gánh phân Để mùa màng gặt hái Anh thương em mãi mãi Sang hạ chí tiết hè Em nghe tiếng sầu ve Em buồn trong gia sự Bạn buồn trong gia sự *** Tiết tiểu thử, đại thử Trời nắng sốt lắm thay! Ra ngồi tựa cột cây Anh với em than thở Bạn với mình than thở *** Tiết lập thu, xử thử Ai diều sáo mặc ai Vàng lác đác giếng tây Ta thương người bạn cộ (Cộ = cũ) Nhớ mãi người bạn cộ *** Vừa đến tiết bạch lộ Bầy chim trắng bay sang Cây heo hắt lá vàng Sang thu phân hàn lộ. *** Đêm em nằm, em chộ (chộ = thấy) Tiết sương giáng lại kề Trông bạn cũ ta về Sang lập đông giá rét Tiết tiểu tuyết, đại tuyết Trời giá rét lắm thay Sang đông chí cấy cày Dạ bồi hồi nhớ bạn Tiết tiểu hàn chưa dạn Đã bước sang đại hàn Dạ tưởng nhớ người ngoan Vừa năm cùng tháng tận Vừa cuối mùa cuối tận. *** Phận lại ngồi trách phận Phận nỏ giám trách phận Anh thương em từ tháng giêng đến tháng chạp

6. Hát ví Nghệ Tĩnh: Hát Ví Nghệ Tĩnh là những loại dân ca xuất hiện trong nghề nông và nghề thủ công. Có nhiều điệu hát ví như: hát phường vải, hát phường cấy, hát đò đưa, hát phường buôn…. Trong những điệu hát này, hát phường vải và hát phường cấy có tổ chức và phổ biến hơn cả.

1. Hát phường vải:Giai đoạn 1: Những câu hát phường vải là những câu biểu lộ tâm tình của hai bên trai gái, hoặc là những ước mơ về yêu đương, hoặc là những lời oán trách kẻ chia rẽ tình duyên, và bao giờ cũng lạc quan, tin tưởng. Hat phường vải gồm có bốn giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất: hát dạo, hát mừng, hát chào và hát hỏi. Giai đoạn thứ hai: hát đố và hát đối. Giai đoạn thứ ba: hát mời và hát xe kết. Giai đoạn thứ tư: hát tiễn.

Hát dạo

Bấy lâu thức nhắp mơ màng Bên rèm tiếng gió, đầu giường bóng trăng * Bấy lâu nghe hết tiếng nàng Bên anh nức tiếng đồn vang đã lừng Nghe tin anh cũng vội mừng Vậy nên chẳng quản suối rừng anh sang * Bấy lâu anh mức chi nhà Để em dệt gấm thêu hoa thêm sầu * Đồn rằng cá uốn thân vây Đồn em hay hát, hát hay anh tìm * Chốn này vui vẻ, tưng bừng Hạc nghe tiếng phượng xa chừng tới nơi * Đêm khuya trời tạnh sương im Tai nghe tiếng nhạc, chàng Kim tới gần. * Dừng xa, khoan kéo, ơi phường! Hình như có khách viễn phương tới nhà * Đi qua nghe tiếng em reo, Nghe xa em kéo, muốn đeo em về. * Đi ngang trước cửa nàng Kiều, Dừng chân đứng lại, dặt dìu đôi câu * Đi ngang thấy búp hoa đa`o Muốn vào mà bẻ, sợ bờ rào lắm gai * Đồn đây là chốn Đao` Nguyên Trăng thanh gió mát, cắm thuyền dạo chơi * Lạ lùng anh mới tới đây, Thấy hoa liền hái, biết cây ai trồng * Đến đây vàng cũng như son Ai ai thời cũng như con một nhà

Khi nháy mắt, khi nhện sa Khi chuột rích trong nhà Khi khách kêu ngoài ngõ Tay em đưa go đủng đỉnh Tay em chìa khoá động đào Bước năm lần cửa, ra chào bạn quen * Mừng rằng bạn đến chơi nhà Cam lòng thục nữ gọi là trao tay

Hát hỏi

Em có chồng rồi, em nói rằng chưa Tội riêng em đó, nỏ lừa được anh * Em chưa có chồng, em mới đến đây Chồng rồi chiếu trải, màn vây ở nhà Anh về chẻ lạt bó tro Rán sành ra mỡ, em cho làm chồng. Em về đục núi lòn qua, Vắt cổ chày ra nước, thì ta làm chồng * Trai thanh xuân ngồi hàng thuốc bắc, Gái đông sàng cảm bệnh lầu tây Hai ta tình nặng nghĩa dày, Đối ra đáp được, lúc này tính sao? * – Đến đây hỏi khác tương phùng Chim chi một cánh bay cùng nước non? -Tương phùng nhắn với tương tri, Lá buồm một cánh bay đi khắp trời * – Lá gì không nhánh, không ngành? Lá gì chỉ có tay mình trao tay? – Lá thư không nhánh, không ngành, Lá thư chỉ có tay mình trao tay. * – Nghe tin anh hoc có tài Cha thầy Mạnh Tử là ai rứa chàng? – Thầy Mạnh, cụ Mạnh sinh ra Đù mẹ con hát, tổ cha thằng bày! * – Người Kim Mã cưỡi co ngựa vàng Đất Phù Long rồng nổi, thì chàng đối chi? – Người Thanh Thuỷ gặp khách nước trong Hoành sơn ngang núi, đã thoả lòng em chưa? * Nghe anh bôn tẩu bấy lâu Nghệ An có mấy chiếc cầu hỡi anh? – Nghệ An có ba mươi sáu chiếc cầu Phồn hoa đi lại bốn cầu mà thôi Cầu danh, cầu lợi, cầu tài Cầu cho đây đó làm hai giao hoà * Nhớ em nhất nhật một ngày Đêm tơ tưởng dạ, làng rày nhớ trông – Chờ em nửa tháng ni rồi Ôm đờn bán nguyệt, dựa ngồi cung trăng * – Nghe tin anh giỏi, anh tài Đào tiên một cõi Thiên Thai ai trồng? – Thiên thai là của nàng Kiều Riêng chàng Kim Trọng sớm chiều vào ra

Lê Thị Thu Hoài @ 12:57 03/03/2012 Số lượt xem: 20816

Vì Sao Phi Kim Vi Điểm Ngày Càng Có Sức Hút?

Nói đến phi kim vi điểm chắc hẳn ai cũng biết đây là phương pháp giúp hồi phục tổn thương, tăng sinh collagen giúp “tái sinh” khỏe mạnh. Tuy trên thị trường có rất nhiều phương pháp làm đẹp tương tự thế nhưng phi kim vi điểm vẫn được rất nhiều người tin tưởng lựa chọn.

Thế nào là phi kim vi điểm?

Phi kim vi điểm trị mụn là phương pháp sử dụng thiết bị chuyên dụng có gắn đầu kim siêu nhỏ. Dưới tác dụng của dòng điện, những điểm kim này sẽ di chuyển lên xuống liên tục giúp tạo ra những vết thương giả trên làn da nhằm kích thích cơ chế tự chữa lành của làn da một cách nhanh hơn, mang lại hiểu quả cao chỉ sau 1 liệu trình duy nhất.

Việc kết hợp các tinh chất được chiết xuất kì công từ thiên nhiên sau khi thực hiện phi kim vi điểm cũng vô cùng quan trọng trong quá trình trị liệu da. Thông qua đường dẫn là các vệt thương, tinh chất sẽ dễ thẩm thấu vào làn da hơn, cung cấp đầy đủ các dưỡng chất giúp da luôn khỏe đẹp và đầy đủ độ ẩm.

Phi kim vi điểm tốt như thế nào?

Phi kim vi điểm tuy không yêu cầu, đòi hỏi cầu kì về mặt kĩ thuật như các phương pháp trị liệu da khác nhưng mang lại hiệu quả không hề thua kém chút nào.

Việc phi kim vi điểm giúp làn da trẻ hóa và căng mịn đã được giới y khoa công nhận là phương pháp làm đẹp hữu hiệu, có thể dùng để điều trị hiệu quả các bệnh lý về da. Phương pháp này không những không kén đối tượng mà ngay cả những ai có làn da đẹp sẵn thì hiệu quả cũng không vì thế mà giảm đi.

Phi kim vi điểm có gây đau không?

Phi km vi điểm trên da không gây đau đớn, da phục hồi rất nhanh và đặc biệt các đầu kim siêu nhỏ không hề gây ra quá nhiều cảm giác khó chịu lên làn da của chúng ta như các phương pháp lăn kim thông thườn. Do đó, trong khi thực hiện dịch vụ chắc chắn bạn sẽ hoàn toàn thoải mái và cảm nhận từng thay đổi trên làn da của mình.

Điều trị phi kim sau bao lâu mới có hiệu quả?

Để có hiệu quả rõ ràng bạn nên kiên trì chăm sóc làn da từ 3-6 tháng điều trị phi kim vi điểm. Kết quả đầu tiên có thể nhìn thấy sau 1-2 tháng, ví dụ như độ sáng của da. Nhưng đối với những vết sẹo lớn, bạn phải thật sự kiên nhẫn. Chúng ta phải dành thời gian cho làn da đổi mới, phục hồi và tái sinh thật mạnh mẽ theo cơ chế riêng của nó.

Địa điểm phim kim vi điểm an toàn và hiệu quả

Một điều đáng lo ngại khi sử dụng phương pháp phi kim vi điểm chính là, cơ sở thẩm mỹ không đáp ứng đúng quy trình vệ sinh vô trùng. Điều này sẽ để lại hậu quả rất khủng khiếp cho làn da người thực hiện như: viêm nhiễm, nhiễm trùng và thậm chí gây hoại tử cho da.