Top 8 # Vì Sao Việt Nam Đánh Thắng Mỹ Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 5/2023 # Top Trend | Sansangdethanhcong.com

Tại Sao Việt Nam Đánh Thắng B

Cuốn sách Tại sao Việt Nam đánh thắng B-52: Những chuyện bây giờ mới kể của trung tướng, phó giáo sư, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Phan Thu do NXB Trẻ xuất bản chào mừng kỷ niệm 76 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12-1944 – 22-12-2020) giúp bạn đọc hiểu thêm về tinh thần chiến đấu trí tuệ, anh dũng và sáng tạo của binh chủng Phòng không – không quân. 

* Thêm lý giải góc độ khoa học

Tính từ thời điểm cuối tháng 12-1972, khi Bộ đội Phòng không – Không quân Việt Nam chiến đấu dũng cảm, đánh bại cuộc tập kích đường không chiến lược bằng máy bay B-52 vào Hà Nội và một số địa phương miền Bắc, làm nên chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ trên không đến nay, thấm thoắt đã trải qua gần nửa thế kỷ. Suốt từ đó đến nay, theo trung tướng Lâm Quang Đại – Chính ủy Quân chủng Phòng không – không quân Việt Nam, thì “đã có rất nhiều câu hỏi được đặt ra là bằng cách nào và làm thế nào mà lực lượng Phòng không – không quân miền Bắc Việt Nam, chỉ trang bị các loại súng, pháo, tên lửa SAM-2 và máy bay MIG-21, lại có thể bắn trúng, bắn rơi tại chỗ nhiều máy bay ném bom chiến lược B-52 của Mỹ – loại được mệnh danh là “Siêu pháo đài bay bất khả xâm phạm”.

Trung tướng Phan Thu (sinh năm 1931) là tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, quân hàm trung tướng, phó giáo sư.

– Năm 1947, ông là đoàn viên thanh niên cứu quốc, phụ trách công tác thiếu nhi và tham gia dạy bình dân học vụ. Năm 1950, ông nhập ngũ và và theo học Trường Lục quân. Năm 1972, ông là Trưởng phòng Nghiên cứu khoa học kỹ thuật Cục Kỹ thuật quân chủng Phòng không – không quân. Sáng kiến chống nhiễu của Quân chủng Phòng không – không quân từ năm 1968-1972 có sự đóng góp lớn của trung tướng Phan Thu và các đồng chí trong Tiểu đoàn Nhiễu đã được Đảng, Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học kỹ thuật.

– Nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Chủ nhiệm Tổng cục Công nghiệp quốc phòng và kinh tế, Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật Bộ Quốc phòng, Viện trưởng Viện Kỹ thuật quân sự, Cục trưởng Cục Kỹ thuật quân chủng phòng không.

– Nguyên Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI (dự khuyết) và khóa VII, nguyên Đại biểu Quốc hội khóa VIII và IX. Ông là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

– Sách đã xuất bản: Cuộc đối đầu không cân sức (năm 2014, tái bản năm 2020), Tại sao Việt Nam đánh thắng B-52: Những chuyện bây giờ mới kể (năm 2020).

* Mọi người đều góp công

Rất nhiều chính khách, nhà nghiên cứu lịch sử, nhà quân sự lẫn học giả trên thế giới và Việt Nam đã tập trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá về chiến dịch, về nghệ thuật tác chiến phòng không. “Trong dư luận, đã có những câu hỏi được đặt ra như: Tại sao Việt Nam đánh thắng được B-52?; Tại sao B-52 bị bắn hạ ở Việt Nam trong khi trên toàn thế giới, chưa một nước nào làm được việc đó?” – tác giả, trung tướng Phan Thu cho biết.

Và người anh hùng từng chứng kiến, tham gia vào chiến dịch đánh thắng B-52 năm xưa lý giải: “Để đánh thắng B-52, ta đã dốc sức và tích cực chuẩn bị trên các mặt trận, từ cấp chiến lược đến cấp chiến dịch và cấp chiến thuật. Mọi người trong Quân chủng đều đóng góp phần của mình, từ người lãnh đạo chỉ huy, đến người chiến binh ngồi trên mâm pháo, bên giàn tên lửa, trên máy bay chiến đấu, trong trạm xưởng, trong phòng thí nghiệm khoa học kỹ thuật…”.

Trung tướng Lâm Quang Đại bày tỏ hy vọng “những thông tin do cuốn sách cung cấp sẽ giúp độc giả hiểu thêm về những năm tháng hào hùng của bộ đội Phòng không – không quân, về các chiến công và những con người đã làm nên chiến thắng vĩ đại ấy, đồng thời góp phần khơi dậy lòng tự hào và trọng trách của các thế hệ sau trong sự nghiệp bảo vệ vững chắc bầu trời, chủ quyền lãnh thổ và biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc”.

* Một dân tộc bất khuất

Cuốn sách có những tư liệu quý do tác giả có được “từ việc sâu sát, thâm nhập, cùng các cộng sự tham gia chiến đấu với bộ đội”, bao gồm những thông tin về nhiễu, những thủ đoạn sử dụng tên lửa Shrike của địch, những đánh giá từ hai phía, những bản vẽ, ảnh chụp các dạng nhiễu của địch trên màn hiện sóng các loại radar của ta, những hình ảnh về máy bay, bom đạn, các khí tài gây nhiễu của địch do tác giả chụp lại từ các tạp chí quân sự nước ngoài kể từ năm 1967… Từ đó, trung tướng Phan Thu đưa ra những phân tích dưới góc độ khoa học kỹ thuật trong “chiến dịch Điện Biên Phủ trên không” hết sức sâu sắc, có giá trị chuyên môn cao. Một số uẩn khúc từ chiến dịch cách đây gần 50 năm cũng được tác giả cố gắng làm sáng tỏ như “không có việc nối tầng đánh B-52”, “tên lửa SAM-3 lỡ hẹn đánh B-52”, cùng những bài học rút ra sau chiến thắng…

Nhà quân sự nhiều kinh nghiệm như trung tướng Phan Thu cũng bộc bạch những trăn trở về tương lai với độc giả sách Tại sao Việt Nam đánh thắng B-52: Những chuyện bây giờ mới kể: “Nếu có cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc khác thì tác chiến phòng không trong nhiễu đương nhiên là mạnh hơn những gì ta đã gặp, thủ đoạn sử dụng tên lửa chống radar sẽ phổ biến hơn và lắt léo hơn. Không những thế, chúng ta còn phải tiến hành tác chiến phòng không trong điều kiện tàng hình với các loại máy bay không người lái và nhiều loại phương tiện kỹ thuật hiện đại, vũ khí điều khiển qua internet, điều khiển bằng tia lazer với công nghệ cao… Chiến tranh trong tương lai còn là chiến tranh mạng, xảy ra ngay trong thời bình lẫn thời chiến mà chúng ta không thể coi thường”.

Dù vậy, trung tướng Phan Thu khẳng định mạnh mẽ: “Một dân tộc đã có hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Bao nhiêu xương máu và mồ hôi nước mắt của cha ông nhiều thế hệ đã đổ ra để có và giữ được mảnh đất này. Một dân tộc như vậy, vạn người như một, triệu người như một, sẽ không có kẻ xâm lược nào có thể khuất phục được”.

Lời tâm huyết của vị tướng

Trung tướng Phan Thu bày tỏ niềm tự hào về ý chí và trí tuệ Việt Nam đã bắn rơi B-52. Ảnh tư liệu: Tổng cục Công nghiệp quốc phòng

Lịch sử ghi nhận trận Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không là một trong những trận chiến vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.

Thắng lợi Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không, góp phần cho việc ký kết Hiệp định Paris, để sau đó 2 năm dẫn đến đại thắng mùa xuân năm 1975. Đất nước giành được độc lập hoàn toàn và thống nhất, đưa giang sơn gấm vóc của tổ tiên về một mối.

Chiến tranh đã kết thúc, có 3 vấn đề còn nợ mà chúng ta phải nghiên cứu tiếp để chủ động chuẩn bị nếu có cuộc chiến tranh khác xảy ra. Đó là:

1. Nhiễu SAM-3 sẽ xảy ra như thế nào, nếu chiến tranh vẫn tiếp tục?

2. Đánh những loại máy bay ném bom như B-52 đối với các yếu địa ven biển như Hải Phòng, Đà Nẵng, Cam Ranh… sẽ phải giải quyết thế nào để khắc phục khó khăn của ta như B-52 đã vào đánh Hải Phòng ngày 16-4-1972? Việc không cho máy bay và hạm tàu gây nhiễu ngoài đội hình vào gần là điều tối quan trọng để tên lửa phòng không đánh các loại máy bay ném bom kiểu đó.

3. Loại máy gây nhiễu mới khi máy bay chiến thuật đóng giả B-52 là loại gì? Là ALQ-87 hay ALQ-101? Có phải địch lại gây nhiễu rãnh đạn đợt mới đã được cải tiến, khiến 36 quả đạn của các trung đoàn 257 và 261 đều bị tự hủy hay không? Nhiễu rãnh đạn còn nguy hiểm hơn rãnh mục tiêu nhiễu. Rãnh mục tiêu bị nhiễu, ta còn có cách đánh 3 điểm, cần đánh giá chính xác sự nguy hiểm của nhiễu rãnh đạn so với nhiễu rãnh mục tiêu mà nghiên cứu cải tiến rãnh đạn tên lửa hiệu quả hơn nữa. Cần đặt những vấn đề trên để tiếp tục giải quyết.

Trung tướng PHAN THU

Yến Thanh

Phát huy triệt để ý chí và trí tuệ Việt Nam

Trả lời phỏng vấn Đồng Nai cuối tuần nhân kỷ niệm 76 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12-1944 – 22-12-2020), Trung tướng Phan Thu chia sẻ nhiều điều tâm đắc:

“Suốt gần 50 năm qua, ở nhiều lần kỷ niệm chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”, chúng ta đều nói về các nguyên nhân của thắng lợi. Mỗi người đều nói về những khía cạnh mà mình cảm thấy thích thú. Lần này, tôi cũng vậy. Có những nét đặc biệt làm nên chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ trên không mà tôi đề cập trong cuốn sách mới của mình là:

1- Nguyên nhân tổng hợp, đó là: cả về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật, kỹ thuật, Việt Nam đều chủ động, không bị bất ngờ, chủ động chuẩn bị, hạn chế những điểm mạnh, khoét sâu các điểm yếu của B-52, phát huy những điểm mạnh của ta, khiến ta mạnh hơn và đánh thắng đối phương.

2- Nguyên nhân về khoa học kỹ thuật. Đối phương dùng khoa học kỹ thuật để chế áp ta. Ta cũng sử dụng khoa học kỹ thuật để đánh thắng lại.

3- Ta đã có một cách đánh B-52 thông minh, sáng tạo vừa đánh thắng địch vừa bảo vệ mình. Ta đã chọn cự ly thích hợp để phát sóng làm sao vừa bắt được mục tiêu chọn được cách đánh vượt nửa góc là phương pháp bắn chính xác nhất của SAM-2, vừa hạn chế tên lửa Shrike của đối phương; đã phát huy cách đánh 3 điểm, một phương pháp thụ động “gậy ông đập lưng ông” rất hiệu quả. Chúng ta đã xử lý nhanh, thành thạo và chính xác cách thay đổi phương pháp bắn ngay trong quá trình điều khiển đạn. Tóm lại quân ta đã có cách đánh tổng hợp, phát huy triệt để ý chí và trí tuệ Việt Nam.

4- Tác chiến điện tử và chống tên lửa bám theo cánh sóng radar giữa ta và đối phương diễn ra giằng co, kéo dài suốt cuộc chiến tranh ở miền Bắc theo hướng một chiều: Mỹ tập trung gây nhiễu và sử dụng tên lửa Shrike, ta thì chủ yếu là chống nhiễu (vạch nhiễu tìm thù) và hạn chế tên lửa Shrike mà thôi. Nhiều lúc đối phương gây cho ta nhiều khó khăn như khi nghiên cứu cách đánh bằng phương pháp 3 điểm, chống nhiễu rãnh đạn, cải tiến kỹ thuật chống nhiễu và chống Shrike… Ta phải tác chiến trong một cuộc chiến tranh không cân sức, nhưng rồi chúng ta cũng vượt qua, vượt trên, mạnh hơn đối phương và chiến thắng.

* Trong sách, trung tướng có nói mình “lược viết những điều thấm thía”, đó là…?

– Điều mà tôi gửi gắm ở quyển sách là niềm tự hào về ý chí và trí tuệ Việt Nam đã bắn rơi B-52 mà trên thế giới cho đến nay vẫn chưa một nước nào làm được việc ấy. Tôi vô cùng vui sướng và thích thú khi được viết trong quyển sách của mình: “Chúng ta đã giành thắng lợi bằng chính thực lực của mình, bằng sức mạnh của mình mà không hề có sự may rủi nào!”. Hoặc câu: “Ta đã mạnh hơn địch, quật đổ thần tượng B-52 theo nghĩa bóng và xuống bùn đen ở hồ Ngọc Hà theo nghĩa đen”.

* Xin Trung tướng cho biết vai trò của việc nắm bắt công nghệ, khoa học kỹ thuật hiện đại trong quân chủng quốc phòng ngày nay?

– Việt Nam chúng ta nhận thức đúng đắn về mối quan hệ giữa con người và vũ khí. Coi trọng vai trò của con người trong chiến tranh, nhưng không bao giờ coi nhẹ vũ khí trang bị, khoa học kỹ thuật quân sự. Ngày nay, trong sự phát triển của khoa học và công nghệ, trên thế giới, chúng ta phải từng bước hiện đại hóa quân đội, thậm chí ở một số ngành đòi hỏi phải hiện đại hóa nhanh để đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng.

* Xin chân thành cảm ơn trung tướng và kính chúc ông thật nhiều sức khỏe.

Y.Thanh (thực hiện)

Tại Sao Mỹ Đánh Việt Nam?

Dưới thời Tổng thống Harry S. Truman, Hoa Kỳ đã thiết lập một học thuyết đối ngoại gọi là “ngăn chặn” chủ nghĩa cộng sản.

Được khởi nguồn bởi George Kennan, Dean Acheson, cùng với các nhà ngoại giao và cố vấn chính sách khác, học thuyết Truman bắt đầu bằng bài diễn văn của Tổng thống Mỹ Truman vào ngày 12 tháng 3 năm 1946. Quốc hội Mỹ bỏ phiếu cho chính sách này vào ngày 8 tháng 5, Thượng viện Mỹ thông qua vào ngày 22 tháng 5.

Mục đích của chính sách “ngăn chặn” không phải để chống lại Liên Xô bằng một cuộc chiến tranh, mà là giới hạn chủ nghĩa cộng sản và Liên Xô trong ranh giới hiện có tại thời điểm đó.

Học thuyết Truman dựa trên một số tiền đề:

– Thế giới phân 2 cực = Đế chế Mỹ + Đế chế Liên Xô.

– Không có quốc gia nào đứng giữa = Hoặc thuộc đế chế Mỹ + Hoặc thuộc đế chế Liên Xô.

– Liên Xô là kẻ bành trướng = Áp đặt thẩm quyền tuyệt đối của mình lên phần còn lại của thế giới.

– Mỹ công nhận có chủ nghĩa cộng sản = Học thuyết “ngăn chặn” sẽ tránh cuộc chiến tranh toàn diện với Liên Xô, càng tránh cuộc chiến tranh toàn diện với chủ nghĩa cộng sản; nhưng Mỹ sẽ thực hiện các bước ngăn chặn bất kì một chính phủ cộng sản nào có dấu hiệu mở rộng.

Với lí do Hoa Kỳ sẽ ngăn chặn mọi quốc gia cộng sản nào có dấu hiệu mở rộng, học thuyết Truman đã trực tiếp dẫn đến cuộc chiến dai dẳng và mất mát khủng khiếp nhất tại Việt Nam, kéo dài hơn ba thập kỉ.

Vào năm 1956, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Nikita Krushchev, trong cuộc tranh luận với Richard Nixon ở Moscow, đã đe dọa “We will bury you – Chúng tôi sẽ chôn cất bạn!”

Sở hữu kho vũ khí hạt nhân và khả năng quân sự, cùng với những tuyên bố, Liên Xô đã trở thành kẻ thù tiềm năng của Mỹ. Hoa Kỳ mặc định, không có một quốc gia cộng sản nào mà không phải là một phần của Liên Xô. ngoại trừ Trung Quốc cũng là quốc gia cộng sản từ năm 1948, nhưng nền văn hóa giữa hai quốc gia quá khác biệt tạo nên mối thù hận làm cho Trung Quốc và Nga không thể vượt qua đường biên giới chung.

Và thế giới phân cực: phần còn lại bắt buộc phải liên minh với Mỹ!

Việt Nam là một đất nước rất xinh đẹp, với rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu, thiên nhiên ưu đãi cho khí hậu 4 mùa ở miền Bắc và mưa thuận gió hòa khắp dải đất hình chữ S. Địa lí Việt Nam đóng vai trò cực kì quan trọng giữa Trung Quốc và thế giới: là cửa ngõ cả trên đất liền và trên biển, đặc biệt với lợi thế đồi núi xen kẽ đồng bằng và hệ thống sông ngòi rất phù hợp với chiến thuật quân sự phòng thủ phản công, chiến thuật ấy còn đặc biệt hơn ngay cả trên biển với 2 quần đảo chiến lược là Hoàng Sa và Trường Sa, cùng với những cảng biển nước sâu như Cam Ranh và bờ biển kéo dài 3260 km án ngữ cả lối ra vào của toàn bộ cửa biển Thái Bình Dương.

Đó là lí do tại sao Việt Nam có lịch sử đấu tranh giành độc lập rất dài.

Trong hàng ngàn năm, Việt Nam phải đã vật lộn chiến đấu để bảo tồn ngôn ngữ và bản sắc văn hóa riêng biệt, đẩy lùi những cuộc xâm lược kéo dài của Trung Quốc, 3 lần chiến thắng quân Mông Nguyên, sau đó là Nhật Bản và Pháp, cuối cùng là cuộc chiến tranh tổng lực với Mỹ.

Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp từ nửa cuối thế kỉ 19.

Đến WW2, Hồ Chí Minh trở thành nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa dân tộc, ông chủ trương lãnh đạo toàn dân làm cuộc khởi nghĩa cướp chính quyền, bắt buộc thực dân Pháp phải rút quân, giành lại độc lập cho Việt Nam sau gần trăm năm đô hộ.

Xuất thân từ gia đình nho giáo, nhưng Hồ Chí Minh lại sớm tiếp cận với nền văn minh phương Tây là Pháp, sau đó là Liên Xô. Ông là người cộng sản, nhưng cũng là người đặt niềm tin vào nền dân chủ phương Tây mà đại diện là Pháp, cùng với thể chế tự do kiểu Mỹ. Hồ Chí Minh là nhà cải cách ruộng đất, ông muốn mang lại cuộc sống ấm no cho dân nghèo, giải phóng dân tộc khỏi chế độ áp bức của thực dân, xây dựng một thể chế tự do dân chủ, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc.

Hồ Chí Minh có ý thức mạnh mẽ về quốc gia và dân tộc!

Trong WW2, sau khi Pháp bị hất cẳng khỏi Việt Nam, Hồ Chí Minh chấp nhận để quân đồng minh Nhật tạm thời chiếm đóng thay vì đội quân của Tưởng Giới Thạch, bởi Hồ Chí Minh hiểu hơn ai hết một khi phiên bản của Trung Quốc bám rễ sẽ rất khó để nhân dân Việt Nam trục xuất được đội quân ấy ra khỏi đất nước.

Hồ Chí Minh là người cộng sản, nhưng xuyên suốt, ông lại là nhà chính trị theo chủ nghĩa dân tộc, rất thực tế, quan tâm đến những gì tốt nhất cho Việt Nam, ông có xu hướng theo nền tự do dân chủ kiểu Mỹ hơn là theo Liên Xô như một đồng minh.

Trong WW2, Charles De Gaulle là người đã làm sống dậy bóng ma của chủ nghĩa thực dân. Từ năm 1945 đến 1954, De Gaulle đã mang vinh quang trở lại cho nước Pháp thông qua cuộc chiến chống phát xít, khôi phục lại thuộc địa trong đó có Việt Nam.

Nhưng thật oái oăm: Đảng Cộng sản Pháp lại quá mạnh!

Truman là người chống cộng cực đoan, ông dễ bị tổn thương và cực kì nhạy cảm với 2 chữ “cộng sản”. Một mặt Truman rất lo lắng phong trào cộng sản do Hồ Chí Minh lãnh đạo sẽ lan tỏa ra khắp Đông Nam Á rồi đến châu Á, mặt khác lo sợ Đảng Cộng sản Pháp sẽ chiến thắng De Gaulle để giành được thực quyền.

Thiện chí của Hồ Chí Minh với Mỹ đã bị lờ đi vì 2 lí do này.

Nhưng người Pháp đã làm rất tệ!

Hồ Chí Minh đã biết cách lãnh đạo một đội quân nhỏ bé là Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, ban đầu chỉ có 34 chiến sĩ chủ yếu làm công việc tuyên truyền, nhưng vẫn đủ sức đánh bại đội quân viễn chinh oai hùng Pháp có sự hậu thuẫn cực kì mạnh mẽ của Mỹ. Với chiến thắng chấn động địa cầu mang tên Điện Biên Phủ, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên toàn thế giới đã được truyền cảm hứng từ chính Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, chủ nghĩa thực dân đã sụp đổ hoàn toàn bởi hiệu ứng domino không thể cưỡng lại được.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ đúng 1 ngày, Hiệp định Geneve được tổ chức ở Thụy Sĩ, bắt đầu từ ngày 8 tháng 5 năm 1954 chính thức bàn về việc khôi phục lại hòa bình ở Đông Dương. Hội nghị có sự tham gia dàn xếp của 4 cường quốc số một thế giới gồm Liên Xô, Mỹ, Anh và Pháp. Liên Xô muốn kéo thêm vào bàn đàm phán một quốc gia cộng sản làm đồng minh, đó là Trung Quốc, nhưng ý tưởng không thành vì Trung Quốc chưa có vai trò chính thức ở Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Sau khi đàm phán, Pháp đồng ý rút quân khỏi Đông Dương, Việt Nam tạm thời phân chia làm 2 nửa, ranh giới phân chia là vĩ tuyến 17 và sẽ tổng tuyển cử trong vòng 2 năm theo hình thức bỏ phiếu tự do dân chủ để thống nhất đất nước.

Nhưng chẳng bao giờ có cuộc tổng tuyển cử!

Năm 1955, được Mỹ hậu thuẫn, Quốc gia Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào đã tổ chức cuộc trưng cầu dân ý phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, chính quyền Việt Nam Cộng hòa thân Mỹ được thành lập, Ngô Đình Diệm được đề cử làm Tổng thống. Thay vì thực hiện bỏ phiếu tự do thống nhất giữa 2 miền Nam Bắc, thì Ngô Đình Diệm tuyên bố chống cộng, ông đề nghị Mỹ chi viện để chống lại Hồ Chí Minh.

Để ngăn chặn Liên Xô và Trung Quốc, chống lại Hồ Chí Minh, chống lại phong trào cộng sản trên toàn thế giới, Hoa Kỳ đã cung cấp toàn bộ quân sự, súng, đạn dược, đô la, thuốc men, cố vấn quân sự…v.v. cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa.

Ngô Đình Diệm là người Công giáo, ông theo chủ nghĩa dân tộc, thực hiện chế độ gia đình trị. Chính phủ của ông nhanh chóng bộc lộ những bất ổn. Ngay sau khi lên làm Tổng thống, Ngô Đình Diệm cho thiết kế các biện pháp tấn công cộng sản, thông qua các hình thức tố cộng, diệt cộng, đỉnh điểm là việc ban hành Luật 10/59 với công cụ là chiếc máy chém đầu. Nhưng nguyên nhân chính dẫn tới sự sụp đổ của chế độ Ngô Đình Diệm, là sự kì thị tôn giáo, đàn áp đạo Phật. Ngô Đình Diệm chỉ công nhận Kito giáo, không chấp nhận các tôn giáo khác, cố gắng bằng mọi cách loại bỏ Phật giáo ra khỏi đời sống xã hội.

Năm 1961, Tổng thống Mỹ John F. Kennedy đã tăng cường đầu tư cho chính quyền Ngô Đình Diệm, cả về tiền bạc lẫn vũ khí, điều thêm 15 ngàn quân đến tham chiến tại Việt Nam.

Một trong những lí do để Kennedy đưa quân vào Việt Nam theo lời đề nghị của Ngô Đình Diệm, đó là hội nghị Camp David 1959, Hoa Kỳ biết được qua Khrushchev rằng cộng sản Trung Quốc đang nghiên cứu sản xuất vũ khí hạt nhân. Nhưng vào thời điểm đó, Hoa Kỳ vẫn hoài nghi về khả năng sản xuất bom hạt nhân của Trung Quốc, nhưng có điều chắc chắn Hoa Kỳ biết, đó là mối quan hệ Xô – Trung là 2 quốc gia cộng sản đồng sàng dị mộng.

Hơn 15 ngàn lính Mỹ được Kennedy đưa đến Việt Nam, ban đầu họ tin rằng đang thực hiện một sứ mệnh rất cao cả, là đến một đất nước xa xôi để cứu người dân khỏi bị cộng sản dìm xuống nước, hay nướng trên ngọn lửa. Nhưng rồi họ sớm phát hiện ra người dân địa phương không coi họ là những vị cứu tinh, mà ngược lại là sự thù địch, khiến nhiều lính Mỹ khá bối rối và tức giận.

Ngày 11 tháng 6 năm 1963, hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại Sài Gòn, Mỹ chính thức loại bỏ Ngô Đình Diệm vào ngày mùng 2 tháng 11 năm 1963. Sau cái chết của Ngô Đình Diệm, Kennedy đã nhận ra sự nguy hiểm của tình hình và dự thảo kế hoạch rút khỏi Việt Nam, nhưng quốc hội Mỹ không thông qua.

Ngày 22 tháng 11 Kennedy bị ám sát.

Lyndon Johnson, Tổng thống mới của Hoa Kỳ đã nhanh chóng củng cố vị thế chính trị bằng chiến thuật bàn tay sắt với cộng sản. Là người chống cộng lâu năm và có nhiều kinh nghiệm, một lần nữa Johnson đẩy mạnh học thuyết “ngăn chặn” với lập luận bổ sung bằng “học thuyết domino”. Theo đó, học thuyết domino chỉ ra rằng nếu một quốc gia như Việt Nam rơi vào tay cộng sản, thì các quốc gia khác trong khu vực cũng sẽ lần lượt rơi vào tay cộng sản. Cách lập luận đó không hề có cơ sở, nhưng nó là lí thuyết tạo nên xương sống cho học thuyết “ngăn chặn” và một lần nữa được Johnson đẩy lên đỉnh điểm.

Người Mỹ đã bị cuốn vào học thuyết “ngăn chặn”, họ tin rằng với sức mạnh vượt trội về công nghệ, vũ khí tối tân, kinh tế hùng cường; chiến tranh ở Việt Nam có sự can thiệp của Mỹ sẽ nhanh chóng được kết thúc theo cách dễ dàng nhất.

Một nhà báo Mỹ đi thăm hàng không mẫu hạm Ranger đã viết: “Chỉ cần đưa con tàu này cho Việt Cộng thì chắc chắn họ sẽ bỏ chạy – They just ought to show this ship to the Viet Cong, that would make them give up”. Bản thân Johnson còn gọi Việt Nam là “đất nước hạng tư rách rưới – ragged ass little fourth rate country”, cùng với chiến dịch truyền thông vô cùng dữ dội về sức mạnh hủy diệt của nước Mỹ, đã làm cho không một người Mỹ nào có thể tin một quốc gia bé nhỏ, nghèo nàn, lạc hậu như Việt Nam lại có thể đánh bại được quân đội Mỹ.

Nhưng Johnson và người Mỹ đã nhầm!

Vũ khí của Mỹ sản xuất theo mẫu hình chiến trận của WW2, cho dù nó vô cùng tối tân và hiện đại, nhưng chỉ triển khai tham chiến trên Đại Bình nguyên châu Âu. Đó là những cuộc chiến trên diện rộng, chiến đấu nhanh chóng, hiệp đồng tác chiến chặt chẽ và đầy đủ, hỏa lực cực mạnh để giảm thiểu hi sinh cho binh lính. Ngược lại, chiến trường Việt Nam với núi đồi, sông ngòi, rừng sâu, nên người Việt đã xây dựng một lượng lớn hầm ngầm, địa đạo, giao thông hào để kéo kẻ thù phải chui xuống lòng đất, phải lặn trong nước, phải luồn trong rừng. Quân đội Mỹ có thể thắng trên tất cả các mặt trận, nhưng ở chiến trường Việt Nam, Johnson chắc chắn thất bại.

Năm 1964: Johnson tìm kiếm lí do để đánh Việt Nam!

Ngày 2 tháng 8 năm 1964, Hải Quân Hoa Kỳ đưa 2 tàu khu trục C Turner Joy và USS Maddox ra thăm Vịnh Bắc Bộ, nhưng lại cố tình xâm phạm lãnh hải, liền bị các tàu phóng lôi của Hải quân Bắc Việt tấn công. Chừng đó chưa đủ sức thuyết phục để tạo cớ, Mỹ đã dựng lên cuộc tấn công không có thật lần thứ 2, vào ngày 4 tháng 8.

Ngày 5 tháng 8 năm 1964, Mỹ sử dụng 2 biên đội tàu sân bay Constellation và Ticonderoga, gồm 40 máy bay tiêm kích và cường kích hiện đại nhất, bất ngờ đánh thẳng vào các căn cứ Hải quân Bắc Việt ở Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An và Quảng Bình.

Kể từ đó Mỹ lên tục leo thang.

Riêng năm 1967, Mỹ đã thực hiện ném một lượng bom khổng lồ, bằng tổng số bom sử dụng trong WW2. Với 500 ngàn quân Mỹ đồn trú, mỗi tháng tiêu tốn 2 tỉ đô la, thương vong cho phía Bắc Việt ước tính 1000 người mỗi tuần.

Có một sự thật trong chiến tranh Việt nam, lính Mỹ không bao giờ coi đối phương là con người, lí do không phải sự thù hận, mà là khoảng cách văn hóa, sự giàu có, công nghệ giữa Mỹ và Bắc Việt quá xa nhau, giống như ở 2 thế giới đối lập hoàn toàn. Sự khinh bỉ và phân biệt chủng tộc là nét đặc trưng của quân đội Mỹ. Một nhà báo đặt câu hỏi, liệu các vụ ném bom có giết chết thường dân hay không, một trung sĩ đã cười và trả lời: “Có vấn đề gì đâu? Tất cả đều là người Việt Nam – “What does it matter? They’re all Vietnamese.” Theo quy luật ngón tay cái, nếu người chết nói tiếng Việt, thì đó là Việt Cộng, tất cả được thống kê thành con số ấn tượng để báo cáo về Washington!

Chất độc màu da cam làm rụng lá và bom lửa Napalm, đó là 2 thứ vũ khí nổi tiếng của quân đội Mỹ sử dụng ở Việt Nam, nó phát quang cả dãy Trường Sơn. Trên thân mỗi chiếc máy bay chở 2 loại vũ khí này luôn treo một khẩu hiểu: “Chỉ có chúng ta mới ngăn cản được rừng – Only We Can Prevent Forests”.

Không có bằng chứng nào cho thấy Bắc Việt suy yếu vì bom Mỹ!

Các vụ đánh bom, hầu hết chỉ phá hoại đồng ruộng, hoa màu và nhà cửa. Những vụ tấn công và đốt, lính Mỹ chỉ biết nhắm vào dân thường, làm cho người Việt càng trở nên căm thù. Những ngọn giáo mác, những bẫy chông, hầm mìn giăng ở mọi nơi, bỗng chốc trở thành nỗi khiếp đảm.

Những con đường lớn bị bom Mỹ phá hủy, thì người Việt sử dụng con đường mòn, đường hầm, họ cần mẫn vận tải vào ban đêm, bằng những đội dân công, thanh niên xung phong, hay sự tự nguyện của mỗi người dân nghèo với quyết tâm cao độ sẽ đánh tan giặc Mỹ xâm lược.

Tướng William Westmorland cho rằng: “Mạng sống của con người là rẻ mạt đối với người châu Á. Họ không cảm nhận thấy giống như cái chết mà chúng ta làm – Human life is cheap to the Asian. They don’t feel the same way about death that we do”. Câu nói này được sử dụng trong bộ phim phản chiến nổi tiếng “Trái tim và Khối óc – Hearts and Minds”, nó ngược lại với hỉnh ảnh trong phim một người vợ đang vật vã khóc lóc tuyệt vọng bên mộ chồng.

Chiến tranh Việt Nam thực sự là nỗi ám ảnh khủng khiếp với lính Mỹ!

Những người lính luôn đặt câu hỏi: tại sao họ phải ở đây? Trên cánh đồng, trong làn nước, trong khu rừng, hay ở những ngôi làng toàn túp lều cỏ, họ chẳng thể tìm thấy Việt Cộng, nhưng chỗ nào cũng không an toàn, hầm chông hay bắn tỉa, cảm giác Việt Cộng ở khắp mọi nơi nhưng lại không thể nhìn thấy.

Tháng 3 năm 1968, một đơn vị Mỹ đã chịu tổn thất do Việt Cộng tấn công trước đó, nên tổ chức đi càn ở ngôi làng Mỹ Lai thuộc miền Trung Việt Nam. Thất vọng vì không thể tìm thấy Việt Cộng và lo lắng bị trả thù, lính Mỹ đã vây bắt đàn bà, trẻ em và người già không vũ trang, cưỡng hiếp phụ nữ, sau đó nổ súng thảm sát hơn 300 thường dân.

Dưới sự chỉ huy của Trung úy William Calley, những người lính của Đại đội Charlie nghỉ trưa, sau đó quay lại Mỹ Lai tiếp tục giết chóc và đốt cháy ngôi làng. Calley chỉ dừng tay, khi hai lính Mỹ thuộc sư đoàn trực thăng trên không đã chặn lại, họ tuyên bố sẽ quay súng bắn lại nếu Calley tiếp tục ra lệnh giết thêm phụ nữ hoặc trẻ em khác.

Quân đội Mỹ đã tìm mọi cách che đậy vụ việc. Hai người lính Mỹ ngăn chặn vụ thảm sát đã bị đe dọa, tờ báo Úc đăng tải câu chuyện vụ thảm sát đã bị kiện. Cuối cùng, nhờ những nỗ lực của nhà báo Seymour Hersch, câu chuyện đã công khai sáng tỏ, Calley đã bị đưa ra tòa án quốc gia và bị kết án ba năm.

Năm 1968, Bắc Việt đã phát động cuộc tổng tiến công và nổi dậy vào Tết Nguyên Đán, mệnh lệnh ban ra là “đánh vào đêm 30 tết Mậu Thân”. Nhưng do lịch âm Trung Quốc và lịch âm Việt Nam năm đó chênh nhau 1 ngày, miền Bắc ăn tết sớm và miền Nam ăn tết muộn theo lịch Trung Quốc, vì thế mà rất có thể đã xuất hiện 2 cách hiểu khác nhau, dẫn đến việc lệch thời gian tác chiến.

Cụ thể, chiến trường thuộc các tỉnh từ Quảng Nam đến Khánh Hoà nổ súng vào đúng đêm giao thừa miền Nam. Còn chiến trường Quảng Trị – Thừa Thiên Huế, Nam Trung Bộ, Nam Bộ lại đánh muộn hơn 1 ngày, tức là đêm 1 tết của miền Nam. Nếu nổ súng cùng lúc, có lẽ, Việt Nam đã hoàn toàn giải phóng từ năm 1968.

Tuy vậy, cuộc tổng tiến công đã gây choáng váng cho người Mỹ, hầu hết Sài Gòn và cả Đại Sứ quán Hoa Kỳ đều bị chiếm giữ. Nhưng do lệch giờ, Mỹ đã kịp sốc lại đội hình, chủ động phòng thủ, tổ chức phản công đẩy lùi được Việt Cộng và giành lại những vùng lãnh thổ đã bị chiếm mất.

Sau tết Mậu Thân: dư luận Mỹ bắt đầu lên án chiến tranh!

Nhiệm kì của Tổng thống Lyndon Johnson bị phá hỏng, các cuộc biểu tình khốc liệt diễn ra khắp nước Mỹ, Johnson phải từ chối tranh cử lần 2. Những người lính trở về từ Việt Nam, thay vì được chào đón như những vị anh hùng giống lúc học ra đi, thì lại bị công chúng phản đối như kẻ thù, thậm chí người biểu tình nhổ nước bọt.

Chiến tranh Việt Nam đã chia rẽ nội bộ nước Mỹ!

Richard Nixon, người được bầu vào vị trí tổng thống mới năm 1968, ông tuyên bố đã xây dựng một kế hoạch bí mật để chấm dứt xung đột. Thực tế Nixon chẳng có kế hoạch nào cả, ông gia tăng chiến tranh, đánh sang cả Campuchia đề phòng Bắc Việt chọn đó là hướng tấn công. Hành động của Nixon đã dấy lên phong trào biểu tình, một trong số những cuộc biểu tình tại Đại học Quốc gia Kent ở Ohio, quân đội Vệ binh Quốc gia Ohio đã nổ súng, 4 sinh viên bị bắn chết tại chỗ.

Cả nước Mỹ rúng động, bắt buộc Nixon phải rút quân bằng kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh”, quân đội Hoa Kỳ đã giảm từ 540 ngàn binh lính vào năm 1968 xuống còn 60 ngàn vào năm 1972. Hòa đàm Paris bắt đầu từ ngày 10 tháng 5 năm 1968, nhưng giẫm chân tại chỗ, vì Bắc Việt yêu cầu Mỹ phải ngừng oanh tạc miền Bắc đồng thời loại bỏ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, nhưng Mỹ chỉ đồng ý ngừng bắn.

Cuối năm 1972, công chúng Mỹ phản đối chiến tranh Việt Nam dưới mọi hình thức. Nixon và cố vấn an ninh quốc gia Kissinger đã cố gắng cứu vớt “hòa bình với danh dự – peace with honor”, tìm mọi cách ép Bắc Việt ngồi vào bàn đàm phán, nhưng Hà Nội không nhượng bộ và chỉ muốn chiến thắng. Vào tháng 12 năm 1972, Nixon đã ra lệnh “ném bom Giáng sinh”, B52 rải thảm 12 ngày đêm xuống Hà Nội và các thành phố khác, nhưng đã bị phòng không Bắc Việt đánh trả, Mỹ thất bại thảm hại trên bầu trời. Nixon bắt buộc phải dừng vụ đánh bom, Hiệp địn Paris được kí vào ngày 27 tháng 1 năm 1973, Mỹ chấp nhận rút quân vô điều kiện.

Trong chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ có 58.148 lính bị thiệt mạng, với độ tuổi trung bình 23,1 tuổi, trong đó 61% dưới 21 tuổi và 11.465 binh lính dưới 20 tuổi; rất nhiều lính Mỹ là phế binh khi trở về vẫn chưa đủ tuổi vào tiệm mua mưa rượu với tư cách hợp pháp.

Cuộc chiến cũng tiêu tốn của Mỹ 140 tỉ đô la.

Hơn 2 năm sau, những ngày cuối tháng 4 năm 1975, quân đội chính quy Bắc Việt như từ dưới đất chui lên với đầy đủ súng đạn, đại bác và xe tăng; chế độ Việt Nam Cộng hòa nhanh chóng sụp đổ. Những người Mỹ còn sót lại, họ phải di tản trong cay đắng, phương tiện là những chiếc trực thăng hay máy bay chở hàng.

Những người miền Nam giàu có, họ lo sợ lịch sử sẽ lặp lại, đó là những cuộc trả thù như cải cách ruộng đất, nên họ tuyệt vọng tìm mọi cách để trốn thoát. Bất cứ ai kết hôn với một người Mỹ, hoặc đã giúp đỡ các lực lượng Mỹ trước đó, cũng đều tìm cách trốn đi.

Đất nước thống nhất, nhưng chẳng xảy ra hiệu ứng domino nào cả, việc người Mỹ với học thuyết “ngăn chặn” tạo nên cuộc chiến tranh ở Việt Nam là một sai lầm phải trả giá băng xương máu vô cùng tồi tệ. Chiến tranh cũng đã dạy cho người Mỹ bài học về sự kiêu ngạo ẩn sau nỗi ám ảnh và sự sợ hãi của các nhà lãnh đạo Mỹ trước “chủ nghĩa cộng sản”.

Năm 1995, Hoa Kỳ và Việt Nam tuyên bố bình thường hóa quan hệ. Văn hóa Việt cùng với thực phẩm và đủ các loại hàng hóa trở nên phổ biến ở Mỹ, chiều ngược lại cũng vậy. Đến hôm nay, Việt Nam đã thực sự trở thành mảnh đất màu mỡ cho các nhà tư bản Hoa Kỳ đầu tư, đúng như lời hứa hẹn của Hồ Chí Minh từ những năm 1950.

Bs Trần Văn Phúc

#ngannua

Vì Sao Mỹ Thua Trận Trong Chiến Tranh Việt Nam?

Lịch sử không có “giá như” nhưng lịch sử là bài học cho sự phát triển hướng đến tương lai tốt đẹp.

Chiến tranh Việt Nam khi có Mỹ trực tiếp tham gia từ 1954-1975 là một trong 11 cuộc chiến tranh lớn nhất của thế giới hiện đại mà sự kết thúc của nó để lại rất nhiều dấu ấn thời đại.

Những cái “nhất” của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam

Một, đây là một cuộc chiến tranh có quy mô lớn nhất trong lịch sử 200 năm nước Mỹ.

Về thời gian. Thời gian Mỹ tham gia thế chiến 1, thế chiến 2 và chiến tranh Triều Tiên cộng lại cũng chưa được một nửa thời gian Mỹ sa vào cuộc chiến tranh Việt Nam.

Về huy động lực lượng. Cuộc chiến này Mỹ huy động sức người, sức của cao nhất của nước Mỹ:

Năm đời Tổng thống với những bộ óc trí tuệ như Macnamara, Henry Kissinger, Brzezinski thực hiện đủ 3 chiến lược chiến tranh: “Chiến tranh đặc biệt” “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh”.

Có đến 77% lục quân, 66% thủy quân lục chiến và không quân, 40% hải quân, 6,5 triệu lượt binh sĩ, 22.000 xí nghiệp của nước Mỹ đã được huy động để phục vụ chiến tranh đưa tổng số lính tham chiến lên 550.000 quân cùng với 70.000 quân chư hầu (Úc, Nam Hàn và Philipin, Thailand).

Theo thống kê chưa đầy đủ, Mỹ đã chi 920 tỷ USD (thời giá lúc đó) cho chiến tranh Việt Nam so với 341 tỷ trong thế chiến 2 và 54 tỷ trong chiến tranh với Triều Tiên. Nếu tính theo thời giá hiện nay thì đây là một khoản chi phí khổng lồ.

Về bom đạn. Mỹ dội xuống Việt Nam hơn 7,8 triệu tấn bom đạn nhiều hơn mỹ đã dùng trong thế chiến 2. Tại miền Bắc Việt Nam cứ 1 km vuông chịu 6 tấn và 1 người chịu 45,5kg bom (trong thế chiến 2 Đức tương ứng là 5,4 tân và 27 kg). Đây là một con số khủng khiếp chưa từng có trên thế giới.

Từ 1961-1971, Mỹ đã trút xuống miền Nam Việt Nam 20 triệu gallon=75,6 triệu lít chất độc da cam, thuốc diệt cỏ chứa dioxin. (Hậu quả khủng khiếp còn đến tận bây giờ và các thế hệ tiếp).

Hai, đây là một thất bại lớn nhất trong lịch sử chiến tranh 200 năm của nước Mỹ. Hơn 58.000 quân Mỹ thiệt mạng, khoảng 304.000 người lính khác vĩnh viễn bị thương tật, tàn phế. Nhưng Mỹ vẫn không không ngăn nổi Việt Nam thống nhất Tổ quốc, thu giang sơn về một mối.

Tại sao Mỹ sai và thua trận?

Rất nhiều sách vở, phát biểu, đánh giá, các công trình nghiên cứu…nói về nguyên nhân thắng trận của Việt Nam…nhưng ở góc nhìn của Mỹ thì điều gì khiến Mỹ thua trận sẽ khiến chúng ta quan tâm nhiều hơn.

Trước hết Mỹ thua là do nhận thức sai về tính chất chiến tranh Việt Nam. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân…

Mỹ cho rằng Việt Nam chống Mỹ là một cuộc chiến tranh ủy nhiệm bởi Trung Quốc và Liên Xô nhưng thật ra không phải như vậy.

Mỹ đã quên mất chuyện Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Tổng thống Mỹ vào năm 1945 như thế nào nên đã xác định sai lầm tính chất cuộc chiến. Mỹ nên hiểu, Việt Nam coi quyền lợi dân tộc, quốc gia là trên hết. Việt Nam muốn độc lập, giang sơn thu về một mối và sẽ chiến đấu với bất kỳ kẻ thù nào vì mục tiêu đó.

Sai lầm tệ hại nhất của Mỹ là Mỹ đã “bất chấp” hay “vô tình” đối đầu với một dân tộc có truyền thống chống giặc ngoại xâm quật cường, anh dũng “thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc” “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”.

Mỹ nhảy vào Việt Nam là để ngăn chặn CNCS…nhưng nhân dân Việt Nam chỉ biết rằng, Mỹ là kẻ xâm lược và chiến đấu với Mỹ như bao kẻ xâm lược khác.Người Việt Nam đánh Mỹ để bảo vệ quê hương, ruộng đồng, để không phải làm kiếp nô lệ như thời thuộc Pháp, đánh Mỹ để thống nhất Bắc-Nam thu giang sơn về một mối, cho nên, bất kỳ đàn ông hay đàn bà, người già hay người trẻ, hễ là người Việt Nam thì họ đều đứng lên chống giặc ngoại xâm…Chính tư tưởng, tinh thần đó là nguồn gốc khiến một dân tộc yêu hòa bình, yêu tự do độc lập trở nên anh hùng và tất yếu sẽ tạo ra một quân đội anh hùng.

Cuối cùng là Mỹ chẳng hiểu biết gì về lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam trong 4000 năm qua. Đó chính là nghệ thuật quân sự, chiến tranh nhân dân được tôi luyện trong 4000 năm qua đã trở nên “bất khả chiến bại”. Lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh là sở trường giành chiến thắng của một dân tộc Việt có đất không rộng, người không đông.

Chiến thắng trong cuộc chiến tranh chống xâm lược Mỹ, một cường quốc quân sự kinh tế hùng mạnh bậc nhất thế giới lúc bấy giờ là bài học quý giá cho hiện tại. Việt Nam ngày nay đã lớn mạnh, đã hội nhập thế giới và để bảo vệ tổ quốc thì sẵn có truyền thống chống giặc ngoại xâm quật cường, anh dũng “thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc” “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”.

Nguồn: Báo Đất Việt

Vì Sao Giới Khoa Học Mỹ Phản Đối Tấn Công Hạt Nhân Ở Việt Nam?

Hai em bé Việt Nam nhìn chằm chằm vào một lính dù Mỹ cầm khẩu súng phóng lựu M79 (ảnh chụp trong ngày đầu tiên của năm 1966, tại một con mương cách Sài Gòn 20km). Ảnh: Horst Fass

H ồi giữa thập niên 60, khi chiến tranh Việt Nam đang khốc liệt, Bộ Quốc phòng Mỹ bắt đầu một nghiên cứu để xác định tính khả thi và thích đáng của việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Việt Nam, nhằm phong tỏa đường mòn Hồ Chí Minh, phá hủy các căn cứ quân sự, cảng biển, hoặc tàn sát một lượng lớn quân đối phương…

Bản nghiên cứu năm 1967 có tựa đề “Vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Đông Nam Á” và được giải mật nhiều năm sau đó. Điểm mấu chốt của nghiên cứu này là việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam sẽ không đem lại cho Mỹ lợi thế quân sự mang tính quyết định mà lại gây hậu quả nghiêm trọng đối với binh sĩ Mỹ trên chiến trường và lợi ích của Mỹ trên khắp thế giới.

Bản nghiên cứu do bốn nhà vật lý thực hiện. Họ cộng tác với Phòng vị Jason của Viện Nghiên cứu Quốc phòng Mỹ – nơi một nhóm nhà khoa học thường xuyên gặp gỡ để cung cấp những lời khuyên bí mật cho các quan chức quốc phòng. Kết luận của bản nghiên cứu được trình lên Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ lúc ấy là ông Robert McNamara.

“Tác động chính trị của việc Mỹ lần đầu sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Việt Nam sẽ rất xấu và có thể rất thảm khốc”, các nhà khoa học Mỹ viết.

Họ cảnh báo rằng, việc Mỹ sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật lần đầu tiên có thể dẫn tới tình trạng Liên Xô hoặc Trung Quốc cung cấp vũ khí tương tự cho Việt Cộng (Quân Giải phóng miền Nam) và miền bắc Việt Nam. Điều đó làm tăng nguy cơ các lực lượng của Mỹ ở Việt Nam “sẽ bị hủy diệt tận gốc” trong các đợt phản công trả đũa của quân du kích được trang bị vũ khí hạt nhân.

Các nhà khoa học Mỹ viết rằng, nếu điều đó xảy ra, “các nhóm nổi dậy khắp nơi trên thế giới sẽ ghi nhớ và tìm mọi cách để có được vũ khí hạt nhân chiến thuật”.

Họ cảnh báo: “Việc lần đầu sử dụng vũ khí hạt nhân ở Đông Nam Á có thể dẫn tới việc tăng đáng kể nguy cơ dài hạn của các chiến dịch du kích hạt nhân ở những nơi khác trên thế giới”, như tấn công vào kênh đào Panama, kho chứa và đường ống dẫn dầu ở Venezuela, thủ đô Tel Aviv của Israel… “An ninh của Mỹ sẽ bị đe dọa nghiêm trọng nếu việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật của các lực lượng du kích trở nên phổ biến”, các nhà khoa học Mỹ kết luận.

Không quân Mỹ từng muốn dùng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam và Lào

Không quân Mỹ từng muốn sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam năm 1959 và 1968 và ở Lào năm 1961, để xóa sổ quân du kích, theo các tài liệu của Không quân Mỹ được giải mật gần đây.

Năm 1959, Tham mưu trưởng Không quân Mỹ, “tướng Thomas White muốn làm tê liệt quân nổi dậy và các tuyến đường tiếp tế của họ bằng cách tấn công một số mục tiêu ở miền bắc Việt Nam bằng vũ khí thông thường hoặc vũ khí hạt nhân”, một tài liệu viết.

Tuy nhiên, tham mưu trưởng của các binh chủng khác không tán thành tấn công Việt Nam bằng vũ khí hạt nhân. Bảy tháng sau đó, đề xuất của tướng White được rút lại. Tập tài liệu mật dài 400 trang có tựa đề “Không quân Mỹ ở Đông Nam Á: Cuộc chiến ở Bắc Lào giai đoạn 1954-1973”.

Theo báo cáo giải mật, tướng White “yêu cầu Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân bật đèn xanh cho việc gửi một phi đội máy bay ném bom B-47 của Bộ chỉ huy không quân chiến lược tới căn cứ không quân Clark ở Philippines” để chuẩn bị cho đợt tấn công Việt Nam.

Đề xuất sử dụng vũ khí hạt nhân của tướng White có thể bắt nguồn từ một công trình nghiên cứu của Không quân Mỹ có tựa đề “Vũ khí nguyên tử trong các cuộc chiến tranh hạn chế ở Đông Nam Á”, báo cáo giải mật viết.

Nghiên cứu đó tập trung vào việc sử dụng vũ khí nguyên tử để kiểm soát tình hình trong rừng rậm, tuyến tiếp tế vùng thung lũng, khu vực đá vôi, hẻm núi, nhằm ngăn địch di chuyển và khai quang những chỗ địch trú ẩn.

Một năm sau đó, trong giai đoạn từ tháng 12/1960 đến tháng 1/1961 diễn ra chiến dịch cầu hàng không của Liên Xô nhằm cung cấp “lương thực, nhiên liệu và thiết bị quân sự” cho các lực lượng thân Mátxcơva ở Lào, thông qua Hà Nội, tài liệu giải mật của Không quân Mỹ viết. Tháng 3/1961, Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ “bác bỏ một kế hoạch huy động tới 60.000 quân với sự hỗ trợ của không quân và vũ khí hạt nhân”.

Năm 1968, ngay trước cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, các lực lượng bắc Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam tấn công quân Mỹ ở khu vực chia cắt hai miền. Để đáp trả, tướng William Westmoreland, chỉ huy các lực lượng Mỹ ở miền nam Việt Nam, giơ tay với lấy nút bấm hạt nhân.

“Cuối tháng 1, tướng Westmoreland cảnh báo rằng, nếu tình hình gần khu phi quân sự và tại Khe Sanh xấu đi một cách trầm trọng, có thể sẽ phải sử dụng vũ khí hạt nhân hoặc vũ khí hóa học”, một tài liệu tuyệt mật khác (dài 106 trang) viết.

Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch và bài học về Việt Nam

Robert McNamara là Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ từ tháng 1/1961 tới tháng 2/1968, giai đoạn mà sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Việt Nam tăng vọt từ vài trăm quân nhân và “cố vấn” CIA lên hơn 500.000 binh sĩ với sự hỗ trợ của hàng trăm máy bay chiến đấu, đội tàu hải quân ngoài khơi và nguồn quân nhu khổng lồ xuyên Thái Bình Dương, từ Úc tới Philippines và Nhật Bản.

Lúc đỉnh điểm, gần 600.000 quân Mỹ được triển khai ở Việt Nam. Con số này gấp 4 lần toàn bộ quân thường trực của Mỹ năm 1940. Vì chiến tranh kéo dài và chính sách định kỳ luân chuyển quân, nên số người Mỹ phục vụ ở Việt Nam cao hơn trong Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất hoặc ở bán đảo Triều Tiên. Số bom mà quân đội Mỹ thả ở Việt Nam lớn hơn số bom mà tất cả các bên sử dụng trong Chiến tranh Thế giới lần thứ hai.

Trong cuốn hồi ký In Retrospect: The Tragedy and Lessons of Vietnam (Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch và bài học về Việt Nam), cựu Bộ trưởng Quốc phòng McNamara viết rằng, sự can thiệp của Mỹ ở Việt Nam có nguy cơ leo thang thành một cuộc xung đột lớn hơn và đẫm máu hơn.

Ít nhất 3 lần trong nhiệm kỳ của ông tại Lầu Năm Góc, vào mùa thu năm 1964, tháng 11/1965 và mùa xuân năm 1966, các tướng lĩnh Mỹ ép Bộ Quốc phòng và Nhà Trắng cho phép sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam.

Trong cuốn hồi ký, ông McNamara kể câu chuyện thâm cung bí sử về quá trình ra chính sách của chính quyền Kennedy và Johnson, làm rõ sự phá sản của phương pháp thực dụng. Các quyết định được đưa ra theo từng ngày, ít quan tâm hậu quả lâu dài và không hiểu mối quan hệ nối liền giữa hành động quân sự, ngoại giao và chính trị.

Theo ông McNamara, chính quyền Kennedy khởi động vụ đảo chính lật đổ và sát hại Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa là Ngô Đình Diệm vào tháng 11/1963 mà không đạt được sự đồng thuận về sự cần thiết loại bỏ ông Diệm hoặc chế độ nào, người nào sẽ thay thế ông ta.

Các quan chức cấp cao của Mỹ không hiểu biết về lịch sử, văn hóa, truyền thống chính trị của các nước Đông Nam Á và sự mù quáng này là một vết thương tự gây ra.

Thái An